ZingTruyen.Asia

Tothukiep2

Bạch Đại tiên sinh cau mày nói, "Tiếng âm nhạc cực kỳ quái gở, chúng ta hãy tạm tránh đi là hơn."

Triệu Liệt Bân kêu to, "Đường đường nam tử, hách hách trượng phu, sợ gì ai mà phải tránh?"

Bạch Đại tiên sinh sa sầm mặt nói, "Ngũ đệ, lúc này không phải là lúc để cho ngươi sinh cường! Phải hỏi ý kiến Nhâm công tử xem đã."

Nhâm Vô Tâm tươi cười nói, "Tại hạ cũng muốn xem cho biết cái tiếng âm nhạc kỳ quái ấy có ý nghĩa gì..."

Chợt nghe Triệu Liệt Bân reo to, "Đến rồi!"

Mọi người ngẩng trông lên quả thấy từ phía xa xa, lẩn trong đám bụi mịt mù có nhiều bóng đỏ đang từ từ tiến lại. Bạch Đại tiên sinh nhìn kỹ một lúc rồi nói, "Những người này có lẽ là khách ở Quan ngoại mới đến cả?"

Vô Tâm nói, "Hay là bọn Lạt ma cao tăng trong đảng Hồng y chăng?"

Trong khi mọi người đang xôn xao bàn tán thì bọn người áo đỏ đã tiến đến gần. Bốn vị Hồng y lạt ma thân hình cao lớn lực lưỡng đi trước dẫn đường, bước nhanh như bay, mỗi người trên tay đều cầm một thứ nhạc khí hình thù cổ quái, cái tiếng nhạc kỳ dị vừa rồi là do nhạc khí ấy phát ra.

Sau lưng bốn người ấy lại còn sáu người nữa cũng mặc áo đỏ, tầm vóc còn cao hơn bốn người trước tới một cái đầu, mười hai cánh tay dài như tay vượn, khiêng hai cái đòn tre trên đòn buộc một chiếc ghế bọc lụa đỏ, một vị Hồng Y lạt ma thân thể mập ú như người phù thủng, ngồi xếp bằng tròn trên ghế, hai mắt nhắm nghiền như đang ngủ say.

Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên tuy đã từng gặp nhiều quái nhân, nhưng quả chưa hề thấy người nào kỳ cục đến thế. Triệu Liệt Bân cười thầm nói sẽ, "Ông già béo kia nặng thịt quá đến nỗi không đi nỗi, phải nhờ người khiêng. Đã vậy sao không nằm ở miếu Lạt ma mà ngủ lỳ cho sướng đời, ai bắt đến đây mà chịu tội?"

Ông ta đang cao hứng nói ba hoa chợt nghe Âu Dương Đình "suỵt" một tiếng liền im bặt, không dám nói nữa. Đoàn người áo đỏ khi tới cách bọn đông người chừng hơn một trượng đều dừng cả lại, bốn người đi đầu chia ra đứng thành hai hàng, sáu người đi sau cũng đặt chiếc cáng xuống đất.

Tiếng nhạc cũng vừa ngừng lại, ông già béo mắt vẫn nhắm nghiền, uể oải hỏi, "Đến chưa?"

Bốn người đứng phía trước khom lưng nói, "Hồi bẩm sư phụ, đến rồi ạ!"

Lúc này lão mới vươn vai, ngáp một cái thật dài rồi từ từ mở mắt ra. Da mặt ông ta hồng hào tươi tốt, lông mi thưa mà dài, đôi mắt tuy đã mở nhưng dưới hàng lông mi trông chỉ ti hí như một nét vạch. Ông ta nhìn ngang ngửa một lượt rồi mới thủng thỉnh hỏi, "Ở đâu?"

Một người chỉ vào Nhâm Vô Tâm kính cẩn thưa, "Đằng kia ạ."

Thì ra bốn người áo đỏ dẫn lộ đó chính là bốn vị Hồng y lạt ma mà các vị độc giả đã thấy từ lúc quần hào mới khởi sự tranh chấp. Sau khi đã nghe rõ lai lịch của hai phe rồi, mới len lén bỏ đi đưa vị lão Lạt ma đến.

Nhâm Vô Tâm rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu mấy vị Lạt ma này tìm mình để làm gì. Chợt thấy đôi mắt ti hí của lão Lạt ma phóng ra một tia hào quang sáng chói nhưng chỉ thoáng cái lại tan biến, lão lắc đầu một cách uể oải nói, "Kỳ quái, kỳ quái!"

Triệu Liệt Bân bất giác ngứa miệng hỏi, "Kỳ quái cái gì?"

Lão Lạt ma nhếch môi cười, "Trước khi tới đây, lão tăng đã nghe người ta nói có mấy tay cực kỳ lợi hại, nhưng cứ mắt lão tăng xem ra thì chẳng có gì là ghê gớm cả."

Giọng nói của ông ta tuy uể oải như không có hơi, nhưng ông ta nói tiếng Hán rất lưu loát. Triệu Liệt Bân tuổi tuy đã gần bảy chục nhưng tính tình vẫn không khác gì hồi niên thiếu, đã nóng nảy lại hay có tính hiếu kỳ, nghe lão Lạt ma nói không sao nhịn nổi lại hỏi, "Mấy nhân vật mà ngươi nói đó là những ai, thử nói cho ta nghe xem có phải người ta đánh lừa ngươi không?"

Lão Lạt ma cười nói, "Lão tăng không quen biết ngươi tại sao lại phải mất thì giờ nói cho ngươi nghe? Và chuyện này ngươi nghe chẳng những không được lợi gì mà lại còn khổ vì tức nữa."

Triệu Liệt Bân kinh ngạc nói, "Việc gì mà tức?"

Lão Lạt ma cười ha hả, "Ngươi thật muốn ta nói cho nghe ư?"

Triệu Liệt Bân sợ đại kha ngăn trở, vội bước tới đứng bên Phá vân thất tiên nói to, "Cố nhiên, ngươi cứ nói đi!"

Lão Lạt ma cười sằng sặc nói, "Ta nghe người ta đồn "Cái Bang ngũ lão" ở Trung Nguyên vũ công tuyệt giỏi, hay đâu chỉ toàn là đồ giá áo túi cơm đánh một thằng bé con cũng không nổi! Lão tăng lại vừa nghe bọn đồ đệ nói ở đây có mấy cao thủ rất cừ, lão tăng mới không từ lao khổ chạy vội tới đây, nếu biết thế này thì thà nằm khoèo ở nhà ngủ còn sướng hơn."

Triệu Liệt Bân giận quá râu tóc dựng ngược, mắt trợn tròn xoe nhưng không biết nói thế nào để đối lại. Lão nghĩ một lát thốt nhiên vùng cười ha hả nói, "Trông ngươi giống như sắp bị đem đi cúng thần, đã phải nằm trên cáng cho người ta khiêng mà vẫn còn kêu là lao khổ, nghĩ thật tức cười! Ha ha..."

Lão Lạt ma nói, "Có phải nhà ngươi chửi lão tăng giống như con lợn bị người ta khiêng đi cúng thần phải không?"

Triệu Liệt Bân cười chán lại ngửa mặt lên trời "phì" một tiếng không thèm trả lời. Lão Lạt ma chẳng những không giận lại cười sằng sặc nói, "Nếu bụng dạ lão tăng không rộng rãi thì làm sao lại được phát phúc thế này? Ngươi ăn nói tuy hỗn hào, nhưng lão tăng cũng không thèm chấp. Các con, ta đi thôi!"

Triệu Liệt Bân quát to, "Hãy thong thả!"

Lão Lạt ma cười nói, "Ngươi còn muốn gì nữa, cứ nói đi!"

Triệu Liệt Bân ngẩn người không biết nói sao. Lão Lạt ma lại cười nói, "Ngươi tức làm gì cho tổn thọ? Lão tăng chỉ định đến đây tìm một người không thấy thì đi, chớ còn ở đây làm gì?"

Vừa nói dứt lời sáu gã đại hán đã đặt đòn cáng lên tay quay lưng đi luôn. Nhâm Vô Tâm chợt nghĩ ra một việc, vội nói to, "Đại sư định tìm ai xin cứ cho biết, may ra tại hạ có thể mách giúp được!"

Lão Lạt ma lắc đầu nói, "Ngươi không thể biết được đâu..."

Nói chưa dứt lời chợt thấy đàn ngựa hý rầm lên, rồi chạy ra bốn phía. Đoàn ngựa này toàn là giống lương câu ở Quan ngoại, đã được anh em Phá vân thất tiên huấn luyện từ lâu, ngày thường không bao giờ phải buộc dây cương;còn những lừa ngựa của Cái Bang ngũ lão bề ngoài trông tuy xấu xí nhưng kì thực đều là loại dị thú, hàng vạn con mới lựa được một. Vì thế nên vừa rồi trong lúc hai bên đấu nhau, quyền phong chưởng ảnh như gió thét mưa gào mà chúng vẫn nghiễm nhiên không sợ. Lúc này thốt nhiên con nào con nấy đều bỏ hàng ngũ chạy loạn xạ, làm cho Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên sợ tái mặt.

Không ngờ đàn lừa ngựa vừa chạy đi một quãng bỗng lại kêu lên một tiếng thê thảm, rồi từ từ ngã lăn xuống đất. Mọi người đều kinh sợ, đổ xô lên xem. Chợt nghe lão Lạt ma quát to, "Không được chạm vào!"

Vừa rồi lão nói không ra hơi, vậy mà lúc này tiếng quát của lão vang dội như một tiếng sét nổ lưng trời. Mọi người còn đang ngơ ngác, đã thấy lão Lạt ma vò đầu cười gượng, "Lão tăng đã lười không muốn sinh sự, không ngờ vẫn không tránh khỏi lôi thôi, muốn thoát thân cũng không được nữa!"

Rồi trỏ đàn ngựa nằm dưới đất nói, "Các ngươi thử xem kia là cái gì?"

Mọi người đều chú ý nhìn, chỉ thấy trong chỗ tuyết tạo thành nước hiện ra vô số những rắn nhỏ màu xanh xám, dài không đầy một thước, đầu giống như lưỡi thuổng trông rõ là một loại rắn độc kinh khủng.

Lúc này đàn rắn độc đều lần lượt bò lên bụng những con lừa ngựa, chui từ bên này qua bên kia nhanh như gió, chỉ trong khoảnh khắc mười một con vừa lừa vừa ngựa đã bị chúng hút hết máu thịt, chỉ còn trơ lại một ít xương và da.

Mọi người trông thấy đều rụng rời hết vía, sắc mặt tái mét. Cái Bang ngũ lão và Phá vân thất tiên lại càng đau ruột, Triệu Liệt Bân và Kim Thừa Tín đồng thời cùng thét lên một tiếng song song nhảy lên, nhưng đều bị người bên cạnh giữ lại. Lão Lạt ma cũng lắc đầu lắc cổ than thở, "Không ngờ Trung thổ cũng có nhân vật khua rắn ăn thịt thú..."

Lão đưa mắt nhìn quanh một lượt nói tiếp, "Các vị có biết người ấy là ai không?"

Vô Tâm đưa mắt nhìn Bạch Đại tiên sinh, lẳng lặng không nói gì cả. Bạch Đại tiên sinh sắc mặt đầy vẻ đau khổ tức giận, giậm chân nói, "Nghiệp chướng, nghiệp chướng! Không lẽ lại là hắn?"

Vô Tâm cũng nói, "Nhất định là hắn!"

Lão Lạt ma và Phá vân thất tiên đồng thời buột miệng hỏi, "Hắn là ai vậy?"

Vô Tâm thở dài nói, "Trên đời này hiện thời trừ "Xà Thần" Khang Tổ ra thì còn ai vào đấy?"

Chàng đưa mắt nhìn Cái Bang ngũ lão nói nhỏ, "Lúc này các vị lại càng không nên ra mặt."

Bạch Đại tiên sinh cau mày nghĩ ngợi một lúc rồi thở dài, "Nếu không ra mặt thì làm thế nào?"

Vô Tâm quả quyết, "Chạy!"

Lão Lạt ma xua lấy tay vò đầu mỉm cười nói, "Nhìn ra xung quanh mà xem, chỉ sợ khó lòng đi thoát."

Bốn mặt lúc này quả nhiên đã bị rắn vây kín, hơi tanh nồng nặc làm cho người ta ngửi thấy phải buồn nôn. Trận rắn tầng tầng lớp lớp vây thành một vòng tròn, không biết bao nhiêu con rắn nằm la liệt khắp mặt đất rộng tới khoảng hai ba trượng, trừ người khinh công tuyệt giỏi còn thì không ai có thể vượt qua được.

Vô Tâm nhìn khắp trận rắn một lượt, rồi lẩm bẩm nói một mình, "Khang Tổ thủ đoạn độc thật! Làm sao mà cả ngần này người cùng vượt qua được bây giờ?"

Chợt nghe Triệu Liệt Bân nói, "Những con rắn này hình như chết cả rồi hay sao mà cứ nằm lỳ một chỗ, không cựa quậy lên xuống gì thế kia?"

Âu Dương Đình lắc đầu nói, "Đàn rắn lúc này tuy nằm im nhưng nếu ta chạm vào chúng, chúng sẽ lập tức nhảy lên nha nhao như một đám loạn tiễn, mình khó lòng khỏi bị trúng độc."

Kim Thừa Tín trợn mắt hỏi, "Thế kia à?"

Âu Dương Đình thở dài nói, "Cứ xem vừa rồi lúc những con lừa ngựa bị rắn cắn, chạy đi chưa đầy bảy bước đã lăn ra chết cả, giả sử mình có vận nội lực kháng cự lại cũng khó lòng tránh khỏi."

Triệu Liệt Bân tức quá chửi rầm lên, "Không ngờ bản lãnh dạy rắn của thằng cha Khang Tổ càng ngày lại càng lợi hại đến thế. Chỉ giận vì anh em mình xưa nay không thèm học cái công phu bẩn thỉu đó, nên bây giờ mới không biết phá cách nào."

Kim Thừa Tín đứng ngẩn ra một lát, rồi chép miệng nói, "Bây giờ phải tìm cách gì nhảy ra khỏi đây mà không chạm đến đàn rắn?"

Vô Tâm quay lại nhìn lão Lạt ma thấy lão vẫn tủm tỉm cười, hình như trong bụng đã yên trí lắm bèn vòng tay cười nói, "Đại sư có cao kiến gì không?"

Lão Lạt ma cười đáp, "Có thì vẫn có!"

Vô Tâm nói, "Vậy xin đại sư dạy cho."

Lão Lạt ma nói, "Xem chừng vũ công của ngươi cũng vào bậc khá, vậy hãy ở lại để cùng lão tăng đoạn hậu."

Vô Tâm gật đầu nói, "Còn những người khác thì sao?"

Hồi thứ ba mươi ba

Đàn rắn cùng bay

Lão Lạt ma vỗ hai tay vào nhau nói mấy câu tiếng Phạn, sáu vị Lạt ma cao lớn lập tức buông đòn trúc xuống rồi tháo chiếc ghế ra. Ba người đứng phía trái quỳ hai chân xuống, hai người khác rảo bước chạy tới, hai tay chống vào vai ba người rồi nhảy phắt lên, người đứng bên trái chân phải dẫm lên vai bên trái người quỳ giữa, chân trái thì dẫm lên vai phải một người khác. Người đứng bên phải cũng làm thế.

Còn người đứng sau cùng, tay cầm cây gậy trúc dài hai thước rưỡi, một đầu chấm xuống đất, cả thân hình cao lớn lú tới lưng chừng cây, hai chân đặt vào vai hai người trên rồi đứng thẳng lên.

Ba người quỳ dưới đất giang thẳng hai cánh tay nắm lấy nhau, rồi ráng hết sức bình sinh từ từ đứng dậy. Sáu người hình như đã được huấn luyện về môn này từ lâu, nên trông họ đứng rất vững vàng sừng sững như một tòa núi. Mỗi người thân hình đều cao tới hơn chín thước, nên khi họ xếp thành tòa tháp, thì từ vai người đứng trên cùng tối thiểu cũng cách mặt đất tới hơn một trượng rưỡi.

Vô Tâm ngẩng đầu trông lên chỉ thấy người ấy đặt ngang cây trúc lên vai, đầu trước ngọn trúc đã vào đúng giữa trận rắn, chỉ vì cách mặt đất xa quá nên đàn rắn vẫn không bị đánh động.

Lão Lạt ma cười nói, "Lão tăng đã vì các vị xây thành một tòa thiết tháp, các vị chỉ việc leo lên cây trúc kia nhảy ra ngoài, dù đàn rắn có đông hơn nữa cũng không sợ."

Phá vân thất tiên há mồm trợn mắt, vừa sợ vừa mừng. Vô Tâm vỗ tay khen, "Diệu kế của đại sư ít ai sánh kịp, tại hạ xin đa tạ trước."

Lão Lạt ma cười nói, "Diệu kế thì quả là diệu kế, nhưng lão tăng không có kiệu ngồi nữa."

Vô Tâm hỏi, "Tại hạ và đại sư đoạn hậu đã đành, nhưng sau khi mọi người đi rồi, mấy vị cao túc của đại sư làm sao chạy được?"

Lão Lạt ma cười nói, "Lão tăng đã có cách, các hạ không cần phải lo."

Vô Tâm quay lại nói với bọn "Phá vân thất tiên", "Xin mời các vị đi trước, ta phải mau lên kẻo Khang Tổ kéo người tới thì không kịp chạy nữa!"

"Phá vân thất tiên" biết là tình hình khẩn cấp nên cũng không khiêm nhượng. Kim Thừa Tín chỉ dặn anh em;

- Để ngu huynh đi trước dẫn đường cho các vị hiền đệ."

Nói xong lập tức nhảy lên vai một người đứng dưới cùng, quả nhiên thấy vững như đứng dưới đất bèn không nghi ngờ gì nữa, thoăn thoắt nhảy lên hết tầng thứ hai rồi đến tầng trên cùng. Lấy bàn chân nhún nhún cây trúc thử xem có chắc không rồi mới dám bước lên.

Chỉ thấy cây trúc hơi rung rung, thân hình Kim Thừa Tín đã leo tới ngọn cây trúc, ngọn trúc sẽ bật lên, hắn theo đà lăng không nhảy vọt ra phía ngoài tới hơn bốn trượng, quả nhiên đã ra khỏi đàn rắn. Sáu người còn lại thấy huynh trưởng đã thoát hiểm bèn khom mình vái lão Lạt ma nói, "Đa tạ đại sư!"

Sáu người này sắc mặt đều cương quyết, thái độ điềm đạm ít cười ít nói, lúc này dẫu phải mở mồm cảm ơn nhưng cũng chỉ nói vừa đủ, không thừa ra một chữ. Lão Lạt ma hình như cũng ngại nói, chỉ uể oải mỉm cười phẩy tay mấy cái. Vô Tâm ngẫm nghĩ cười thầm, "Mấy người này sao mà giống tính nhau thế? Giá họ ở chung một nhà, chắc suốt ngày không ai nghe thấy tiếng cười nói. Nhưng nếu có thêm Triệu ngũ hiệp vào, thì tình cảnh thật thảm quá!"

Trong lúc ấy sáu người đã lần lượt trèo lên vai sáu vị Lạt ma rồi leo lên cây trúc nhảy ra khỏi trận rắn một cách cực kỳ lanh lẹ nhẹ nhàng. Anh em Phá vân thất tiên đã hoàn toàn thoát ly khỏi trận rắn, lão Lạt ma mới cười hì hì nhìn Cái Bang ngũ lão. Triệu Liệt Bân trừng mắt quát to, "Ngươi nhìn cái gì? Anh em ta không cần phải nhờ tới cái trò xiếc ấy mà vẫn có thể sống được, không tin ngươi thử chờ xem."

Lão Lạt ma vẫn cười hì hì, không nói gì cả. Bạch Đại tiên sinh mỉm cười nói, "Lão phu thử đi trước xem sao!"

Nói xong hướng về sáu vị Lạt ma đứng làm tháp, chấp tay nói, "Xin phiền các vị."

Đoạn nhẹ nhàng tung mình nhảy lên rồi cũng theo lối Phá vân thất tiên, thoát ra ngoài trận rắn. Triệu Liệt Bân cứ đứng ngây người ra. Bùi Tam tiên sinh cười nói, "Đại kha đã đi bằng lối đó, lão Ngũ định thế nào?"

Triệu Liệt Bân lúng túng, "Cái ấy...cái ấy..."

Vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên, đã thấy Âu Dương Đình nhảy lên cành trúc. Bùi Tam nói, "Người ta có bụng tốt, lão Ngũ nếu không bái lĩnh chẳng hóa phụ lòng người ta hay sao?"

Triệu Liệt Bân thốt nhiên cười ha hả, "Đại kha, nhị kha đã làm như vậy, tiểu đệ còn biết làm sao?"

Vô Tâm trong bụng cũng phải phục thầm, nghĩ bụng, "Bạch Đại tiên sinh thật là người khiêm cung quân tử, nếu trong vũ lâm có nhiều người như vậy, còn ai dám khinh thường?"

Còn đang nghĩ ngợi, chợt nghe Tú Linh se sẽ gọi, "Công tử!"

Vô Tâm ngẩng đầu trông lên đã thấy bọn Cái Bang ngũ lão đi hết rồi, bèn nói nhỏ, "Tôi còn phải ở lại đoạn hậu, cô nương cứ đi trước đi."

Tú Linh chớp mau đôi mắt, hết nhìn sáu vị Lạt ma lại nhìn đôi chân bé nhỏ, không biết nghĩ làm sao!

Vô Tâm chợt nghĩ ra, bất giác cũng ngần ngừ không biết quyết định thế nào. lão Lạt ma nhìn hai người một lúc, rồi mỉm cười hỏi, "Chú tiểu đồng kia sao không đi đi còn đợi gì nữa?"

Vô Tâm chấp tay cười nói, "Hắn thân phận hèn mọn, đâu dám hỗn thế?"

Lão Lạt ma cười hềnh hệch, đôi mắt lim dim nói, "Nếu vậy thì làm thế nào? Chẳng lẽ lại bỏ hắn lại đây cho rắn ăn hay sao?"

Vô Tâm lấy xoa má rồi lại nhìn Tú Linh, vừa hay cũng bắt gặp cặp mắt Tú Linh đưa lên nhìn mình, chàng chợt nghĩ, "Tú Linh khinh công rất giỏi, có lẽ nàng có thể tự nhảy qua được, vì nàng không muốn biểu lộ thân phận nên mới phải hỏi ý mình đây." Nghĩ vậy chàng liền mỉm cười nói với lão Lạt ma, "Tên thư đồng của tại hạ từ nhỏ luyện võ công, võ công tuy không cao nhưng môn khinh công cũng có vài phần hỏa hầu, chi bằng để hắn tự nhảy ra, đỡ phải mạo phạm tới các vị cao túc của đại sư."

Lão Lạt ma gật đầu cười nói, "Thế thì tốt lắm. Hắn thân phận thấp hèn, chỉ có cách ấy là hay hơn cả."

Tú Linh giận lắm, nghĩ thầm, "Nhâm tướng công nói là thân phận hèn mọn là lời nói khách sáo, không ngờ hắn là một kẻ xuất gia mà cũng làm phách như vậy. Lý ra những kẻ tu hành phải coi chúng sinh bình đẳng mới phải, cớ sao lại còn phân biệt kẻ hơn người kém?"

Nàng trừng mắt giận dữ nhìn lão Lạt ma, nhưng cặp mắt lão vẫn lim dim nửa nhắm nửa mở, tuy rằng lão đứng đấy mà trông chẳng khác gì người đang buồn ngủ, ai muốn ngắm nghía thế nào lão cũng hình như không trông thấy.

Tú Linh trong bụng tuy uất hận nhưng cũng không biết làm gì hơn được. Nàng đành quay đi dẫm mạnh chân xuống đất, thân hình lập tức tà tà bay lên trông như một mũi hỏa tiễn, lao thẳng ra ngoài. Bao nhiêu tức giận nàng trút cả vào cái thế đó, thân pháp nhanh như luồng chớp nhưng vừa bay ra tới ngoài hai trượng, thân hình tự nhiên cứ chìm dần xuống, có vẻ như sắp rơi vào đàn rắn, làm cho mấy vị Lạt ma đều hồi hộp lo thay cho nàng.

Không ngờ chỉ trong nháy mắt hai tay nàng chợt dang ra hai bên, giữa lúc thân thể sắp sửa rơi xuống thốt nhiên lại nghiêng người lượn đi một vòng, rồi rơi ra ngoài trận rắn. Bọn Hồng y Lạt ma đều thở ra một hơi dài, như người vừa trút được gánh nặng. Lão Lạt ma chỉ mỉm cười nói, "Thân pháp đẹp lắm!"

Vô Tâm cố ý khiêm tốn, mỉm cười nói, "Đại sư quá khen!"

Lúc này bốn vị Lạt ma tay cầm nhạc khí đã nhảy ra khỏi trận rắn, cả sáu vị đứng làm tháp vừa rồi cũng đã lần lượt nhảy xuống đất. Người thứ nhất tay cầm gậy trúc chạy nhanh lên hai bước, chống đầu gậy xuống đất, thuận đà hai chân lăng không nhảy vọt ra ngoài, cây gậy lại ngã về phía sau. Kế đó năm người kia cũng lần lượt nhảy ra theo lối ấy.

Vô Tâm bất giác tắc lưỡi khen, "Công phu khá thật!"

Lão Lạt ma đắc ý cười nói, "Sáu tên đồ đệ của lão hoà thượng ngoài mặt trông tuy ngu xuẩn, kỳ thực đều hữu dụng cả. Lão hoà thượng nếu cho chúng ra hành đạo giang hồ, chắc chắn không đầy nửa năm chúng cũng chiếm được chút ít danh vọng."

Câu nói của lão tuy đầy vẻ kiêu ngạo ngông cuồng nhưng Nhâm Vô Tâm cũng không lấy thế làm để bụng, vì chàng cũng nhận thấy lão có đủ điều kiện và lý do để mà kiêu ngạo.

Lão Lạt ma lại nheo cặp mắt ti hí, cười nói, "Các hạ có biết tại sao lão tăng lại giữ các hạ cùng ở lại đoạn hậu không?"

Rồi không đợi Vô Tâm trả lời, lão lại tiếp, "Vì lão trông những con rắn độc này thật đáng ghét, nên mới tìm cách trừ tuyệt chúng đi, mới định nhờ các hạ giúp vào một tay."

Vô Tâm đôi mắt sáng ngời cười nói, "Chính tại hạ cũng có ý ấy. Không biết đại sư định hạ thủ cách nào?"

Lão Lạt ma cười đáp, "Lúc này mọi người đã đi khỏi, không sợ chúng cắn ai nữa. Vậy ta hãy khua cho chúng xông cả vào đây, xem chúng có cắn chết được lão hòa thượng hay chính lão hòa thượng tiễn chúng quy Tây?"

Vô Tâm cười ha hả, "Hay, hay, kế hay lắm! Chẳng mấy khi tại hạ được xem người đấu với rắn, thật là một kỳ quan không tiền khoáng hậu!"

Hàng ngàn con rắn độc xông vào tấn công thật là một sự tối ư nguy hiểm, vậy mà hai người đối đáp với nhau y như sắp được xem một trò chơi kỳ lạ thích thú. Lão hòa thượng nhìn chàng gật đầu cười mỉm, "Lão hòa thượng vừa tới Trung Nguyên đã gặp ngay một thiếu niên như ngươi, chắc là lão hòa thượng đã đến hồi may mắn."

Vô Tâm hỏi dò, "Không biết đại sư vào quan chuyến này là vì việc gì?"

Lão Lạt ma nói;

- Lão tới đây là vì có hẹn."

Lão ngừng một lát rồi lại mỉm cười nói tiếp, "Mong rằng người hẹn với lão cũng có một vài phần giống ngươi, nếu không thì lão không khỏi thất vọng."

Vô Tâm vừa toan hỏi nữa đã thấy lão Lạt ma ngồi xếp bằng tròn dưới đất, miệng thì nói, "Hai người chúng ta vũ công không giống nhau thì cách đối phó với đàn rắn độc, tất mỗi người cũng có thủ đoạn riêng vì thế ta cứ tự ý, ai muốn làm cách nào đối phó với đàn rắn thì làm."

Lão ngẩng lên nhìn Vô Tâm rồi lại nói, "Nhưng nếu ngươi không mười phần tự tin thì tốt hơn hết là cứ đứng yên còn hơn."

Vô Tâm mỉm cười, "Đại sư cứ yên tâm, tại hạ không đến nỗi bị rắn cắn đâu."

Lão Lạt ma ngồi xếp bằng tròn, lòng bàn chân đặt ngửa, hai đầu gối để hờ trên mặt đất. Cái lối ngồi như thế Trung Nguyên quả chưa ai luyện bao giờ. Lão cởi chiếc áo cà sa đỏ ra, từ vai trở xuống nung núc những thịt, da dẻ nhẵn bóng, trông giống như một pho tượng Phật, chỉ khác vì hai con mắt nhắm nghiền, sắc mặt trầm trọng, những nét tươi cười đã biến đâu mất.

Vô Tâm còn đang lấy làm kỳ quái, không hiểu lão dụ rắn bằng cách nào chợt thấy lão vung tay một cái, cỗ tràng hạt đeo trên cổ tay lão đứt tung ra, bắn tung đi tứ phía mỗi nơi một hạt.

Tức thì có đến mấy chục con rắn độc bị hột tràng hạt ném phải nằm chết quay lơ, còn những con rắn sống đều ngóc đầu dậy nhao nhao nhảy lên, trông như đàn châu chấu bay rào rào về phía hai người. Lão Lạt ma vẫn ngồi yên hai mắt nhắm nghiền, hình như không phòng bị gì cả.

Vô Tâm sợ hãi vừa toan nhảy ra tiếp cứu bất đồ đã có mấy chục con lao thẳng về phía chàng, lưỡi đỏ thè lè, hơi tanh nồng nặc. Vô Tâm không còn thì giờ ngó đến lão hòa thượng nữa, đành phải giơ hai tay phóng ra một luồng chưởng phong cực kỳ mãnh liệt. Nội lực của chàng rất thâm hậu, nên đã biến luồng chưởng phong vô hình thành ra vật hữu hình.

Chỉ thấy luồng chưởng phong đi đến đâu, đàn rắn đang bay ào ào như thác cuốn chợt như bị một bức tường sắt ngăn lại, hất ngược trở về. Mười mấy con đi trước đều bị nát ra như tương, mùi máu rắn tanh nồng xông lên ngạt mũi.

Những con rắn độc này không biết có phải đều bị thuốc mê làm cho lú lấp, hay là vì giống vật vô tri nên không hề biết sợ chết là gì, cứ lớp nọ chết đi thì lớp kia lại ào tới chẳng khác gì dòng nước thủy triều, xô vào bờ hết đợt này tới đợt khác, tưởng như không bao giờ hết.

Lúc này ta mới thấy rõ chưởng lực của Nhâm Vô Tâm hỏa hầu quả thật kinh hồn, ít ai ngờ tới. Chỉ trong nháy mắt quanh mình chàng đã chất đầy xác và máu rắn, nhưng nếu chưởng phong của chàng chỉ hơi chậm một chút mà bị một hai con rắn lọt vào, thì vũ công của chàng dù cao đến đâu cũng không thể thoát chết được.

Sau khi đã phóng luôn năm chưởng, chàng mới có thì giờ liếc mắt nhìn lão Lạt ma thấy lão vẫn ngồi yên như cũ, hai tay bưng lấy mặt nhưng cả cái thân hình trần trùng trục của lão đã bị rắn độc bâu kín, những con rắn tới sau vẫn cứ xông lại, con nọ nối đuôi con kia há mồm ngoạm vào lớp da trắng hồng của lão. Thân hình của lão tuy to lớn nhưng không có một chỗ nào không bị miệng rắn cắn vào.

Nhâm Vô Tâm hoảng hốt nghĩ thầm, "Một vị thế ngoại cao nhân như vậy sao bỗng dưng lại cam tâm liều chết với đàn rắn thế kia?"

Ý chàng cho rằng vị Lạt ma này tất bôi thuốc độc vào mình để cho đàn rắn cắn, ông ta tuy chết đàn rắn quyết cũng không sống. Nhưng nếu đem tính mạng một vị cao nhân như ông ta đổi lấy mạng đàn rắn thì thật cũng đáng tiếc.

Lúc này Nhâm Vô Tâm đã không còn thì giờ đau xót nữa, vì những con rắn khác đã nhao nhao xông lại phía chàng. Vô Tâm quát to một tiếng, tay đã rút trong mình ra một ống địch bằng ngọc.

Chàng xoay mình một vòng cầm ống địch quét ngang một lượt, ánh ngọc lấp lánh lập tức trùm kín thân thể, những con rắn độc chạm vào ánh sáng đó không khác gì bị một lưỡi dao sắc chém đứt làm ba bốn đoạn, máu bắn vọt lên hơi tanh lộn mửa. Chàng đã định chạy đến bên vị Lạt ma, nếu ông ta quả chết hẳn rồi chàng sẽ mai táng tử tế, khỏi bị đàn rắn hút hết máu thịt.

Trong khi nghĩ ngợi, thân hình chàng đã di chuyển tới bên cạnh lão Lạt ma. Nhưng khi chàng ngẩng trông lên, chợt lại giật mình đứng sững lại. Số là vị Lạt ma vẫn không chết, ông ta chỉ rung hai cánh tay một cái, đàn rắn đang ở trên mình ông không những đều lả tả rơi xuống đất, không động cựa được nữa mà da thịt ông ta vẫn nhẵn bóng như gương, suốt mình không hề có một vết răn cắn.

Lão Lạt ma mở mắt nhìn Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Lão hòa thượng đã giết chết không biết bao nhiêu rắn nhưng đã hết đâu!"

Nói xong hai mắt khép lại, hai tay lại ôm lấy mặt, những con rắn còn sống sót vẫn tới tấp nhảy vào bâu lấy ông ta. Nhâm Vô Tâm vừa sợ vừa lạ, chàng tuy là người biết nhiều hiểu rộng nhưng chưa từng thấy loại vũ công nào kỳ dị như thế bao giờ, và cũng chưa hề nghĩ tới là trên đời lại có phương pháp giết rắn quái gở như vậy.

Thấy đàn rắn cũng còn nhiều, chàng sốt ruột vung chiếc địch lên, thi triển nguồn nội lực vô biên ra sức giết rắn. Bên kia lão Lạt ma cứ chốc chốc lại rũ ra một loạt rắn chết. Ông ta thấy chưởng phong nội lực của Vô Tâm hùng mạnh như vậy, trong bụng cũng lấy làm kỳ.

Thốt nhiên ở bên kia đàn rắn, có tiếng gọi thất thanh, "Công tử, Nhâm công tử..."

Tiếng gọi trong trẻo rõ là tiếng Điền Tú Linh. Nàng tuy đã cố gắng đổi giọng nhưng lúc này có lẽ vì quá lo lắng sợ hãi, nên tiếng kêu vẫn không giấu được giọng con gái. Vô Tâm biết những người đã thoát đứng bên kia, thấy lâu quá mình không ra nên sốt ruột. Tuy nhiên đàn rắn lúc này hãy còn nhiều, dẫu có muốn bỏ đi cũng không sao được.

Giũa lúc ấy, chợt lại nghe lão Lạt ma cười hà hà, đứng phắt dậy nói, "Chúng ta nên đi thôi, đừng để người khác chờ lâu sốt ruột. Và đàn rắn không còn bao nhiêu nữa!"

Nói xong ông ta tung mình nhảy vọt lên không, trên mình ông hãy còn mười mấy con rắn lúc này mới lả tả rơi xuống đất. Nhâm Vô Tâm cũng ráng sức phóng thêm một chưởng cuối cùng nữa, rồi mới nhảy lên theo. Hai người vừa nhảy lên đã thấy đoàn người bên kia chạy lại tìm.

Người bồn chồn lo lắng nhất là Tú Linh, nhưng khi nàng trông thấy Vô Tâm bình yên trở về, sắc mặt nàng lại trở nên lãnh đạm. Vô Tâm thấy thế kinh sợ, nghĩ thầm, "Mình phải cẩn thận mới được, kẻo lại vì vô tâm mà vướng vào tình nghiệt thì nguy lắm."

Chàng làm như không để ý tới nàng, chỉ nói chung với tất cả mọi người, "Ta không nên nấn ná ở đây, chạy mau!"

Mọi người đối với chàng lúc này đã tin phục mười phần, nên khi nghe chàng dục đều lập tức chạy theo. Đàn rắn cũng nhao nhao quay lại đuổi nhưng mọi người đã chạy xa rồi.

Chạy chừng nguội chén trà nóng, xem chừng đã cách trận rắn một khoảng khá xa, Nhâm Vô Tâm mới đi thong thả lại, mọi người cũng chậm bước theo. Chàng nói, "Xin các vị cứ chiếu theo lời dặn trong thanh giản mà hành sự, tại hạ lúc này xin cùng các vị chia tay."

Bạch Đại tiên sinh hỏi, "Bao giờ ta lại gặp nhau?"

Vô Tâm nói, "Ngày gặp nhau tức là ngày cử sự."

Bạch Đại tiên sinh tinh thần phấn chấn nói, "Được..."

Nói xong rảo bước đi lên trước. Nhâm Vô Tâm đứng lại cáo từ và dặn dò khắp mọi người một lượt, rồi mới thấy lão Lạt ma lạch bạch đi tới, vừa đi vừa lẩm bẩm, "Lão hòa thượng rất sợ đi bộ, bây giờ lại phải tìm cách gì kiếm mấy cây tre và cái ghế êm mới được."

Điền Tú Linh vẫn còn oán giận vì mấy câu khinh miệt của ông ta vừa rồi, bèn lạnh lùng hỏi, "Nếu đi không nổi thì đi ngay đi cho sớm, còn nấn ná ở đây làm gì nữa?"

Rồi nàng quay lại bảo Vô Tâm, "Công tử, chúng ta cũng nên đi đi thôi!"

Lão Lạt ma làm như không nghe thấy câu châm chọc của Tú Linh, chỉ đứng lại nói, "Hãy khoan, lão hoà thượng còn muốn hỏi các hạ một câu."

Vô Tâm cười nói, "Tại hạ cũng đang muốn thỉnh giáo đại sư, không hiểu vừa rồi đại sư thi triển môn thần bí gì mà..."

Lão Lạt ma xua tay ngắt lời chàng nói, "Nếu lão hòa thượng muốn hỏi vũ công lai lịch của các hạ, các hạ có nói không?"

Nhâm Vô Tâm trầm ngâm một lát rồi vò đầu bứt tai nói, "Chỉ sợ tại hạ khó nói lắm."

Lão Lạt ma cười ha hả, "Nếu vậy thì lão hòa thượng khi nào lại muốn khai lai lịch của mình ra?"

Vô Tâm thở dài chấp tay nói, "Có phải thế, tại hạ đành xin cáo từ vậy."

Tú Linh cũng phụ họa, "Phải đấy, ta đi thôi!"

Dứt lời nàng xăm xăm tiến lên trước, không ngờ lão Lạt ma đã bước lên đứng chắn ngang trước mặt không cho nàng đi. Tú Linh giật mình kinh sợ nói, "Ngươi định làm trò gì thế này?"

Lão Lạt ma cười hì hì đáp, "Lão hòa thượng chỉ muốn hỏi thăm hai vị một người, hai vị dừng lại một chút không được sao?"

Vô Tâm vội nói, "Xin đại sư cứ hỏi, nếu tại hạ biết quyết không dám giấu."

Lão Lạt ma nghiêm trang nói, "Người ấy xuất hiện giang hồ chưa được bao lâu, nhưng không khác gì một ngôi tuệ tinh sáng chói giữa trời đêm. Lão hòa thượng xa xôi vạn dặm cũng được nghe danh, các vị thường đi lại Trung Nguyên chắc là phải biết."

Tú Linh đưa mắt nhìn Vô Tâm rồi buột miệng hỏi, "Người ấy tên gì?"

Lão Lạt ma đằng hắng một tiếng rồi nói, "Tên hắn là Nhâm Vô Tâm."

Tú Linh đôi mắt long lanh vội hỏi, "Nhưng đại sư tìm người ấy làm gì?"

Lão Lạt ma nói, "Lão hòa thượng không ngại xa xôi tới đây tìm hắn, là vì có chút việc cần. Nếu hai vị biết hắn ở đâu, xin làm ơn chỉ giùm."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư có thể cho tại hạ biết việc cần ấy là việc gì được không?"

Lão Lạt ma cười nói, "Hắn hẹn lão tăng tới đây, lúc này chắc hắn cũng nóng lòng sốt ruột đợi lão. Hai vị nếu biết hắn ở đâu thì mau báo cho lão biết."

Vô Tâm ngẩn người một lát rồi nói, "Nếu hắn hẹn đại sư thì sao không hẹn rõ nơi nào để hai bên gặp mặt?"

Lão Lạt ma thở dài nói, "Thế sự biến thiên, nào ai học đến chữ ngờ..."

Hồi thứ ba mươi bốn

Ma Già pháp vương

Nhâm Vô Tâm chợt giật mình tái mặt hỏi, "Đại sư nói thế, có phải là vì người dẫn đường đã bị hại rồi không?"

Lão Lạt Ma đôi mắt bỗng sáng hẳn lên, hấp tấp hỏi lại, "Sao các hạ biết?"

Vô Tâm đăm đăm nhìn vào mặt lão, rồi hỏi, "Không biết đại sư với Thiên Trúc kỳ tăng Ma Già Pháp Vương là thế nào?"

Lão Lạt Ma đáp, "Lão hoà thượng chính là Ma Già."

Vô Tâm cau mặt hỏi, "Ma Già Pháp Vương là kỳ tăng ở Thiên Trúc, mà đại sư thì hình như ở Tạng Biên, chớ không giống người Thiên Trúc. Thế là tại sao?"

Ma Già Pháp Vương nói, "Lão tăng ở núi Thần Sơn, biên giới Tây Tạng từ nhỏ. Người đời đồn lão là người Phật quốc Thiên Trúc, đó là nói sai."

Vô Tâm ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại hỏi, "Nếu vậy thì đại sư cùng đi với Độc Hành lão nhân lại đây phải không?"

Ma Già Pháp Vương thủng thỉnh đáp, "Đúng thế, ba mươi năm trước, lão tăng đã từng gặp Độc Hành Ông một lần. Lần này ông ta không từ thiên tân vạn khổ tới Thần Sơn tìm lão, mời lão đến đây. Nhưng chẳng may ông bạn cũ của lão lại không may bị chết ở dọc đường, vì thế nên lão tăng đành chịu, không làm cách gì tìm được Nhâm Vô Tâm nữa."

Vô Tâm đứng lặng người đi một lát, rồi mới thở dài nói, "Vị... vị tiền bối ấy võ công tuyệt thế, làm sao bỗng dưng lại chết được?"

Ma Già Pháp Vương thở dài than rằng, "Độc Hành Tẩu võ công dù có quán tuyệt trần hoàn, cũng không tránh được số trời. Chỉ đáng tiếc một điều là hắn chết hơi hấp tấp quá!"

Vô Tâm ngẩn người hỏi, "Có lẽ vì Độc Hành tiền bối đi đường xa vất vả quá, nên lao lực mà chết chăng?"

Ma Già Pháp Vương gật đầu, "Đó cũng là một nguyên nhân. Nhưng vì hắn chết bất thần, nên không kịp nói cho lão tăng biết là nên đến đâu tìm Nhâm Vô Tâm. Lão tăng mới phải đi hỏi thăm vớ vẩn thế này."

Nhâm Vô Tâm cúi mình kính cẩn nói, "Tại hạ chính là Nhâm Vô Tâm."

Ma Già Pháp Vương thoạt nghe thì đứng ngây người ra, rồi thốt nhiên nổi giận đùng đùng nói, "À giỏi! Ngươi hẹn lão tăng tới đây rồi lại cố ý giấu giếm không chịu lộ diện là cớ làm sao?"

Vô Tâm cười gượng, "Tại hạ nghe Độc Hành lão nhân nói thì đại sư là một người gầy gò, tính nóng như lửa, nay thấy đại sư không những tầm vóc đã khác, tính tình cũng lại không giống, nên tại hạ không dám nhận liều."

Ma Già Pháp Vương sắc mặt đã hết giận, lại cười hì hì nói, "Đúng, đúng! Ba mươi năm trước, lão hoà thượng tầm vóc tính tình quả đúng thế thật. Nhưng ba mươi năm sau này lão hoà thượng đã hối về cái tính nóng nảy đó, nên mới cố gắng tu tỉnh, bất cứ việc gì cũng chỉ lấy nụ cười ứng phó..."

Chợt ông vỗ bình bịch vào bụng, cười ha hả tiếp, "Vì tính tình lão đã thay đổi, nên thân thể mới phát phì ra thế này. Do đó chính cố nhân năm xưa, thốt nhiên gặp mặt cũng không nhận ra được nữa."

Vô Tâm nghiêm trang nói, "Đại sư dã thay đổi được tâm tính, tất là đã tham thấy được diệu đế từ bi của Ngã Phật, thật là đáng mừng."

Ma Già Pháp Vương nhìn suốt từ đầu tới chân Vô Tâm một lượt rồi nói, "Không ngờ Độc Hành ông suốt đời đi một mình mà cũng biết nói quá sự thật. Hắn nói công tử không những học vấn uyên bác, võ công cao tuyệt mà phẩm mạo lại cũng khác chúng nữa. Hai câu trước hắn nói đúng, nhưng còn câu thứ ba thì... hì hì... hắn tả sai quá... hì hì..."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Đại sư đừng nên quên là võ lâm Trung Nguyên phần nhiều đều giỏi về môn dịch dung."

Ma Già Pháp Vương ngẩn người ra một lát, rồi vùng cười to nói, "Có lẽ lão hoà thượng trông thấy vị thư đồng của công tử đây, cũng đã đoán ra điều ấy!"

Tú Linh bất giác đỏ bừng mặt, sượng sùng cúi xuống, mân mê giải áo, không hiểu tại sao lão lại biết mình cải dạng.

Vô Tâm cũng kinh ngạc, thầm phục lão tinh mắt. Chàng cứ đứng ngây người không biết nói lại làm sao.

Ma Già Pháp Vương thôi không cười cợt nữa, chỉ hỏi bằng một giọng đứng đắn, "Công tử đã dịch dung mà đi, chắc phải có sự gì quan trọng. Có lẽ cũng là vì việc Nam Cung thế gia chăng?"

Vô Tâm đáp, "Chính thế!"

Chàng nói chưa dứt lời, lão Lạt Ma lại hỏi, "Lão tăng đã nghe Độc Hành Tẩu nói chuyện, nhưng dọc đường không nghe được tin tức gì liên quan đến sự bí mật trong nhà Nam Cung thế gia, thế là tại sao?"

Vô Tâm thở dài nói, "Như thế đại sư đủ hiểu là Nam Cung thế gia hành động bí mật đến thế nào? Nếu không thì khi nào tại hạ dám phiền đến pháp giá của đại sư?"

Nói xong chàng lại đem những việc các cao thủ võ lâm bị Nam Cung phu nhân dùng độc dược làm cho mê loạn tâm trí để thu phục làm tay sai và giam vào thạch thất, lại luyện cho Lan Cô thành một thứ khí giới giết người quỷ bí như thế nào, nói hết cho Ma Già Pháp Vương nghe.

Ma Già Pháp Vương cau mày ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, "Từ bé đến giờ, lão tăng mới nghe câu chuyện kỳ lạ ấy là một. Hiện thời lão tăng cũng chịu không hiểu ra làm sao, nhưng lão tăng có thể đoán chắc rằng chỉ cần một thời gian, lão tăng có thể khám phá ra là vì cớ gì đã khiến cho người ta tạo nên những sự quỷ bí ấy. Lúc này lão tăng đã nhất định sẽ cũng người ấy đấu chí đến cùng."

Vô Tâm nghiêng mình nói, "Đại sư từ bi cứu thế, thật đánh kính, đáng phục! Tại hạ xin vì võ lâm Trung Nguyên bái tạ trước. Nhưng lúc này thời cơ đã gấp lắm, không biết đại sư có..."

Ma Già Pháp Vương ngắt lời, "Liệu ba tháng nữa có kịp không?"

Vô Tâm gật đầu nói, "May ra có thể. Nhưng đại sư có cần tại hạ giúp một tay không?"

Ma Già Pháp Vương nói, "Chúng ta nên chia ra mà hành động có lẽ tốt hơn. Sau ba tháng nữa, ta sẽ hẹn chỗ gặp nhau."

Vô Tâm lấy trong mình ra một thanh giản thiếp, đưa cho Pháp Vương nói, "Bất cứ lúc nào, đại sư có cần gì, xin cứ chiếu theo địa chỉ biên ở đây mà tới, tự khắc sẽ có người thu xếp mọi việc theo ý đại sư. Bây giờ tại hạ có việc gấp, cần phải đi ngay. Ba tháng nữa họp mặt, lúc ấy sẽ có rượu ngon kính thỉnh đại sư."

Pháp Vương cười nói, "Được. Lão tăng xin chờ các hạ."

Ông vừa nói vừa cầm lấy thanh giản thiếp. Hai bên cùng chắp tay cáo biệt.

Khi bọn Hoàng Y Lạt Ma đi đã xa rồi, Tú Linh thở dài nói, "Công tử thật có duyên, cả đến bọn lão quái vật kia cũng hết lòng tin phục. Mấy chục năm nay trong giang hồ, trừ cảm thấy ra, có lẽ không còn người thứ hai nữa."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Lấy thành thực đãi người, tự nhiên người cũng sẽ lấy thành thực đáp lại..."

Chàng chợt ngẩng đầu trông trời, rồi nói, "Điền cô nương, chúng ta dùng dằng ở đây đâu quá rồi. Phải đi nhanh lên mới được."

Nói xong phất ống tay áo đi lên trước.

Vừa đi được mấy dặm, Tú Linh chợt nhăn nhó kêu, "Ôi! Dù có muốn đi đến đâu nữa thì cũng phải ăn, bụng đói thì chân còn lê sao nổi?"

Vô Tâm bật cười nói, "Trong bao phục có một ít lương khô, cô nương hãy lấy ra ăn tạm cho đỡ đói."

Điền Tú Linh mở gói lấy lương khô ra ăn, nhưng lòng nàng lúc này còn mang nặng một bầu tâm sự, lại thấy Nhâm Vô Tâm đối xử có vẻ lãnh đạm, khác hẳn lúc trước, lại càng cảm thấy bất mãn, không thiết gì ăn uống nữa, bèn chỉ ăn qua loa vài miếng, rồi cất ngay đi.

Trong khi ấy, Nhâm Vô Tâm vẫn đưa cặp mắt lạnh lùng nhìn ra phía trước, như quên không biết có nàng đứng bên cạnh.

Ngày đông ngắn ngủi, lúc này trời đã nhá nhem tối. Tú Linh đang đi, thốt nhiên thở dài lẩm bẩm, "Chỉ đáng thương cho vị Độc Hành lão nhân, vì người bạn mà nghìn dặm bôn ba, thiên tân vạn khổ, đến nỗi lao tâm lao lực mà chết. Nhưng nào người ta có thèm nghĩ đến đâu?"

Nàng tuy chỉ lẩm bẩm một mình, nhưng kỳ thực cố ý nói cho Vô Tâm nghe thấy.

Vô Tâm lờ như không nghe tiếng, chỉ thầm thở dài trong bụng. Lúc này chàng đã phải đem hết tâm thần cống hiến cho cuộc chiến đấu liên quan đến chính khí tồn vong của võ lâm, tình thế khẩn cấp này không cho chàng thương xót ai vì thương xót rất dễ phân thần, và cũng rất dễ làm cho người ta mất hết chí tranh đấu.

Đêm đã tối, tiết trời càng lạnh ngắt. Tú Linh lại kêu lên, "Tôi mệt quá, không sao đi nổi nữa rồi, có tìm chỗ nào nghỉ chân được một lúc không?"

Vô Tâm sẽ thở dài, trỏ tay ra phía trước nói, "Đằng kia có chỗ nghỉ."

Hai người đi men theo bờ sông một lúc, tới một chỗ khúc sông ăn lõm vào, quả thấy một con thuyền nhỏ buộc sẵn ở đó.

Trong thuyền đèn vẫn còn sáng, văng vẳng nghe trong khoang có tiếng ngâm thơ.

Vô Tâm chúm môi huýt sáo một tiếng. Tiếng sáo vừa sắc vừa ngắn, thoạt nghe tưởng như tiếng côn trùng kêu.

Tiếng sáo vừa dứt, tiếng ngâm thơ trong thuyền cũng im bặt, rồi một gã đại hán mặc áo ngắn đi chân trần, từ trong khoang chui ra, gọi sẽ, "Có phải Nhâm công tử đó không?"

Tiếng gọi như reo mừng, hình như gã có ý chờ chàng đã lâu. Vô Tâm cũng mỉm cười nói nhỏ, "Đêm tối dòng sông lạnh, thắp nến ngâm cổ thi. Cao huynh nhã hứng cao quá, tiểu đệ muốn theo cũng không được!"

Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhảy lên thuyền. Gã đại hán chính là Cao Giao. Khi nghe Vô Tâm nói thế, gã cười đáp, "Nếu không có công tử, thì lúc này thừa dịp đêm tối. Cao mỗ đã đi giết người cướp của rồi, còn làm gì có thì giờ ngồi đây thưởng thức cái thú chong đèn đọc sách nữa?"

Vô Tâm cười nói, "Từ đêm tối vung dao tới chong đèn đọc sách, cách nhau một đoạn đường đầy gian tân khổ sở, xa lăng lắc, vậy mà Cao huynh có can đảm vượt qua được, thật là đáng kính đáng phục, tiểu đệ thực không bằng."

Cao Giao nói, "Công tử đừng nói thế, khiến cho Cao mỗ phải then chết. Tiểu đệ muốn gặp công tử, nên cắm thuyền ở đây chờ đã mấy đêm. Ngoài ra tiểu đệ còn sắm sẵn cả rượu ngon cá tươi, chỉ đợi công tử đến là cùng thống ẩm."

Hai người cười cười nói nói, dắt nhau vào thuyền, còn Điền Tú Linh thì vẫn đứng trơ một mình ở ngoài mũi.

Tú Linh đứng ngoài thuyền một lúc, trong bụng vừa giận vừa buồn. Chợt nghe Vô Tâm gọi, "Điền huynh đệ!"

Tú Linh giận dữ nói to, "Tôi ngửi hơi rượu không quen, chờ lát nữa các vị uống rượu xong, tôi sẽ vào."

Vô Tâm nói, "Thuyền này tuy nhỏ, nhưng còn có khoang trong, huynh đệ vào trong này nghỉ cũng tiện."

Tú Linh "hừ" một tiếng, rảo bước đi vào, chỉ thấy trong thuyền rượu thịt bầy la liệt, khói bay nghi ngút, toàn là những món ăn quý giá của đêm đông lạnh lẽo. Nhưng lại nghe Vô Tâm nói, "Điền huynh đệ đã không ngửi quen hơi rượu, tại hạ cũng không dám ép. Huynh đệ có đói, để nhờ Cao huynh dọn thêm vài món khác vào khoang trong."

Tú Linh nói to, "Thôi hà tất phải phiền..."

Lúc này Cao Giao đã mở cửa khoang trong, nàng nện mạnh gót chân đi vào, hai hàng nước mắt cũng theo bước chân thánh thót nhỏ xuống.

Cao Giao nhè nhẹ khép cửa lại, rồi lại trở ra ngồi vào bàn. Hắn biết Vô Tâm hành tung như con thần long, ẩn hiện biến hoá vô cùng, nên thấy chàng dịch dung cũng coi làm thường, nhưng thái độ của Điền Tú Linh lại làm cho hắn ngạc nhiên, bèn sẽ ghé lại gần Vô Tâm, thì thào hỏi, "Vị huynh đệ vừa rồi hình như có vẻ giận dỗi điều gì? Sao Nhâm công tử không giới thiệu với tại hạ?"

Nhâm Vô Tâm chỉ thở dài, lắc đầu cười gượng. Chàng thấy cử chỉ thần thái của Tú Linh, trong bụng đã biết rõ mười phần, bất giác băn khoăn tự nhủ, "Ta biết làm thế nào bây giờ? Để cho nàng giận cũng phiền, mà để cho nàng yêu lại càng khổ hơn! Thật là oan nghiệt!"

Cao Giao cũng là một tay lão luyện giang hồ, thấy chàng hình như có một nỗi khổ tâm khó nói, nên cũng thôi không hỏi nữa, chỉ ân cần chuốc rượu.

Tú Linh nằm trong khoang, lòng đầy uất ức, tự nghĩ, "Hắn dẫu là một vị kỳ hiệp đương thời, nhưng cũng không thể khinh ta như vậy được? Ta tuy cầu hắn dẫn lên Tử Cốc nhưng cũng là do hắn tình nguyện, nào có phải ta ép buộc hắn cho cam?"

Nàng tuy mỏi mệt, nhưng cũng trằn trọc không sao ngủ yên, nghe bên ngoài tiếng uống rượu, cười nói đã dần dần yên tĩnh, bốn bề gió thổi ào ào, sóng va vào mạn thuyền ồm ộp, cũng không biết là đêm còn khuya hay sớm.

Nàng sốt ruột vùng ngồi dậy, mở hé cửa sổ, thò đầu nhìn ra, chỉ thấy bên ngoài ngọn đèn leo lét. Cao Giao nằm phục xuống bàn ngủ, Nhâm Vô Tâm thì đang ngồi dưới đèn viết thư, thỉnh thoảng lại dừng bút thở dài.

Lại một lúc nữa, chàng lấy tay lay lay Cao Giao, trao phong thư vừa viết cho hắn, nói nhỏ, "Phong thư này xin Cao huynh làm ơn đưa cho Đường thái thái hộ."

Cao Giao tiếp lấy phong thư, lại cau mày nói, "Công tử suốt ngày vất vả, bây giờ còn chưa đi nghỉ ư?"

Vô Tâm lắc đầu mỉm cười, "Lần này tiểu đệ trở lại Tử Cốc, ít ra cũng phải nửa tháng hoặc một tháng mới về. Nếu không thu xếp công việc cho xong xuôi thì làm sao yên tâm được? Vả chăng..."

Chàng cười gượng, rồi lại tiếp, "Lại còn nhiều vấn đề, tiểu đệ cần phải suy nghĩ cho ra. Cũng may tôi không ngủ đã quen rồi, mùi vị cái giường thế nào, có lẽ cũng quên cả..."

Tú Linh nghe chàng nói vậy, trong bụng cũng cảm thấy thê lương.

Người trong giang hồ chỉ biết Nhâm Vô Tâm kỳ công cái thế hiệp cốt anh phong, nhưng có ai trông thấy cái cảnh chàng suốt ngày bôn ba, suốt đêm không ngủ đâu?

Nàng khép đôi rèm mui lại, nghĩ thầm, "Chàng khó nhọc như vậy để làm gì? Chẳng qua cũng chỉ vì chính khí của võ lâm, chớ có phải vì chàng đâu? Một bực anh hùng hiệp sĩ như vậy, chỉ những nỗi thống khổ với cái gánh nặng chàng đang mang, cũng đã đủ mệt lắm rồi, ta còn khiêu khích chàng làm gì nữa? Huống hồ chàng đã không từ nguy hiểm đưa ta lên Tử Cốc, ta đã không chia xẻ với chàng gánh nặng đó thì thôi, sao lại còn chồng nặng thêm lên nữa?"

Nghĩ tới đấy, nàng chợt rùng mình, nghĩ tiếp, "Nhưng xưa nay ta có phải là người thế đâu? Mà việc này ta đã biết rõ như thế rồi mà... Sao ta lại vì một chuyện nhỏ mọn ấy mà giận dỗi chàng? Hay là... hay là ta đã có tình ý gì với chàng chăng? Chẳng có thế sao vừa thấy chàng ra mặt lãnh đạm, ta đã uất ức, như không sao chịu nổi?"

Nàng chợt thấy hai lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi, cặp má nóng bừng. Nàng hồi tưởng lại những ngày đã qua. Nhâm Vô Tâm mỗi một cử chỉ, mỗi một lời nói thật đã khiến cho các cô thiếu nữ phải say mê. Vậy mà mới có từ sáng đến giờ, thái độ chàng vụt trở nên lạnh lùng, cứng cỏi, phải chăng chàng cũng nhận thấy những sự gần gũi thân mật với một thiếu nữ rất có thể nguy hiểm, nên phải cố tình lảng tránh?

Tú Linh càng nghĩ càng sợ, không biết làm thế nào để chế ngự con tim của mình? Nàng lùi lại phía giường ngủ, ngồi xuống, ngẩn ngơ suy nghĩ.

Không biết đã trải qua bao lâu, chợt nghe tiếng Nhâm Vô Tâm gọi ở phía ngoài, "Điền cô nương... đã dậy chưa?"

Điền Tú Linh mắm môi, quả quyết đứng dậy, sửa lại khăn áo, tươi cười đẩy cửa bước ra. Lúc này nàng đã quyết tâm quên hết những chuyện vừa qua.

Trên bàn vẫn còn mấy món ăn tinh khiết và một bát cháo nóng khói bốc nghi ngút, để phần nàng.

Tú Linh cười một cách rất tươi, khép tà áo nói, "Công tử đãi tiện thiếp quá hậu, tiện thiếp thật không xứng đáng!"

Vô Tâm ngẩn người, không biết nói lại làm sao. Chàng thấy Tú Linh mới có một đêm mà thái độ đã cải biến như vậy, trong bụng rất lấy làm kinh dị, nghĩ thầm, "Nữ tử tính nết dễ thay đổi thật!"

Cao Giao lại càng kinh ngạc, chỉ mở to đôi mắt, ngây người ra nhìn Tú Linh, cười thầm, "À, thì ra vị "huynh đệ" này lại là con gái. Hèn gì..." Hắn vừa nghĩ vừa cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên nữa.

Hồi thứ ba mươi lăm

Kinh hồn dục đoạn

Tú Linh rửa mặt qua loa, rồi lấy chén đũa mời Nhâm Vô Tâm và Cao Giao cùng ăn. Vô Tâm thấy nàng đột nhiên trở nên vui vẻ dễ dàng, nói cười luôn miệng, trong bụng cũng được an ủi phần nào.

Cao Giao tuy không muốn hỏi rõ, nhưng miệng vẫn đằng hắng luôn luôn, mãi tới khi Nhâm Vô Tâm cáo từ, hắn đưa tiễn hai người lên bờ, mới nhìn Vô Tâm bằng một đôi mắt hóm hỉnh, rỉ tai cười nói, "Xin mừng công tử nhé, từ nay trở đi trong lúc phiêu du giang hồ không đến nỗi cô đơn tịch mịch."

Vô Tâm chỉ cười gượng, nhân vì trong chốc lát không thể làm cách nào giải thích cho hắn hiểu được.

Hai người lại trông về hướng tây mà đi, ngày hôm ấy đã tới cổ thành Tràng An phía bắc núi Chung Nam.

Con đường này là đường cái lớn, xưa nay vẫn tấp nập kẻ đi người lại, nhưng rất ít khi trông thấy bóng dáng những khách giang hồ hào kiệt, nhưng mấy hôm gần đây, tình hình lại khác hẳn, xe cộ lừa ngựa không biết biến đâu mất hết, đường xá bỗng dưng trở nên vắng ngắt, hoạ hoằn mới có dăm ba gã đại hán đeo kiếm cầm roi, mặt mũi quần áo dính đầy cát bụi, đi lại một cách hấp tấp vội vàng thoáng chốc đã mất hút.

Những vụ án mất tích một cách ly kỳ thần trí của các vị võ lâm cao thủ mỗi ngày một chồng chất lên mãi, đã làm chấn động giang hồ, lòng người đều nơm nớp lo âu và có cảm tưởng như trong võ lâm sắp xảy ra một biến cố cực kỳ ghê gớm.

Tràng An, một đô thành cổ lỗ, vẫn tấp nập và vội vã như xưa, bất cứ một đại sự nào xảy ra cho võ lâm, cũng không ảnh hưởng gì tới bách tính ở trong thành, giữa những nhân vật giang hồ với thường dân, đời sống hình như đều có một thế giới riêng biệt, không ai động chạm đến ai.

Dọc đường Nhâm Vô Tâm đi đứng ung dung, không tỏ vẻ gì vội vã, nhưng mỗi khi đêm khuya canh vắng, chờ cho Tú Linh ngủ yên, chàng mới len lén bỏ đi, tới gần sáng, lại mang bộ mặt bơ phờ mệt mỏi trở về. Không ai đoán được là trong đêm đó chàng đã đi đâu, và làm những việc gì?

Tú Linh vẫn hết sức giữ gìn đối với chàng. Lúc nào cũng tỏ vẻ đứng đắn và lễ độ, thấy chàng cử chỉ khác thường, trong bụng tuy lấy làm lạ, nhưng cũng không hỏi.

Nhiều khi nàng cũng lo thay cho sức khoẻ của Vô Tâm, sợ chàng vì quá lao lực mà sinh bệnh. Nhưng sau thấy mỗi khi đi về, dáng điệu chàng dẫu mệt mỏi, phờ phạc, nhưng chỉ cần xếp bằng ngồi điều tức một lúc, là tinh thần chàng lại hồi phục ngay.

Nhưng một hôm tới thành Tràng An, thái độ của chàng lộ vẻ bồn chồn lo lắng.

Chàng không vào thành, mà lại tìm ra trọ trong một quán rượu tồi tàn ở dưới chân núi Chung Nam.

Chiều hôm ấy, chàng chợt phá lệ gọi lấy hai cân rượu nặng rồi ngượng nghịu cười nói với Tú Linh, "Nếu cô nương không chịu được hơi rượu, tại hạ có thể bưng vào trong kia uống cũng được."

Tú Linh nở một nụ cười duyên dáng, đáp, "Đó chỉ là vì tiện thiếp gặp lúc trong mình không được khoan khoái, nên không muốn ngửi hơi rượu, chớ kỳ thực thiếp cũng biết uống. Bữa nay công tử có hứng, tiện thiếp xin tiếp công tử vài chén."

Chàng mừng lắm, liền rót rượu ra hai chén, mời Tú Linh, tự mình cũng uống luôn ba bốn chén lớn. Nhưng trong lúc uống rượu, chàng vẫn luôn luôn nhìn ra cửa sổ xem sắc trời và lắng tai nghe động tĩnh, hình như sắp có sự quan trọng gì xảy ra.

Tuy nhiên, chàng không nói, Tú Linh cũng không hỏi, chỉ nên luôn để ý dò xét hành động của chàng.

Chợt nghe bên ngoài canh đã điểm hai, Vô Tâm thốt nhiên đặt mạnh chén xuống bàn, đứng lên nói, "Khuya rồi, cô nương cũng nên đi nghỉ thôi!"

Tú Linh gật đầu. Đêm nay nàng cũng muốn giúp chàng một tay, nhưng biết là không khi nào chàng chịu nghe, nên chỉ thở dài nói, "Mong rằng đêm nay công việc của công tử tiến hành đều gặp may mắn."

Vô Tâm sửng sốt, chợt lại cười gượng nói, "Cô nương đã biết những gì rồi?"

Tú Linh điềm nhiên đáp, "Tiện thiếp chỉ biết đêm nay tất có việc quan trọng, còn thì chẳng biết gì hơn nữa."

Vô Tâm ngửng mặt lên trần nhà thở dài nói, "Trong khi đi đường, tại hạ quả đã dò xét được rất nhiều tin tức, biết rằng đêm nay..."

Nói tới đây, chàng chợt ngừng lại, một lát lại tươi cười nói, "Cô nương cứ yên tâm, dù có sự gì nguy hiểm, cũng không đáng sợ."

Nói xong chắp tay vái chào, rồi quay mình đi luôn, Tú Linh đẩy rộng hai cánh cửa sổ nhìn theo, thấy bóng chàng đã khuất vào trong đêm tối.

Đêm hôm ấy, nàng trằn trọc mãi không sao ngủ được, mỗi khi chợp mắt đi là lại tưởng như trông thấy Nhâm Vô Tâm đứng trước mặt mình, khắp người đầy tuyết, và bà tổ nàng đang cười the thé như người điên. Nàng lại giật mình, hốt hoảng ngồi dậy, xa xa có tiếng gà gáy liên hồi, ngoài cửa sổ đã thấy lờ mờ ánh sáng.

Thời gian mỗi khắc qua đi là sự lo lắng của Tú Linh lại chồng thêm một lớp. Trời đã sáng rõ, lẽ ra giờ này Vô Tâm đã trở về rồi, làm sao bây giờ còn chưa thấy?

Chợt nghe cánh cửa sổ có tiếng gõ nhè nhẹ, Tú Linh mừng cuống, đứng phắt dậy, tự nhủ, "À, chàng đã về!"

Nàng đẩy cánh cửa sổ nhìn ra. Bên ngoài là một cái sân nhỏ, lúc này còn phủ kín sương đêm, con mèo tam thể của nhà trọ đang nằm co ro ở góc tường, ý chừng sợ rét? Nàng ngó quanh ngó quẩn, chẳng thấy bóng dáng Vô Tâm đâu cả, tiếng động vừa rồi, có lẽ là do chiếc lá rơi chạm vào cánh cửa.

Căn phòng đối diện lúc này cũng vừa mở cửa, một chàng văn sĩ kiết thủng thỉnh bước ra,tay xốc tà áo, mắt đăm đăm nhìn lớp sương dầy còn phủ trên sàn, miệng ngâm thơ ư ử.

Tú Linh tuyệt vọng, khép cửa quay vào. Ngoài sân đã nghe tiếng chân người đi lại rộn rịp, sương đã tan dần.

Nàng vừa nóng lòng sốt ruột, vừa sợ hãi lo lắng, không biết tại sao Vô Tâm chưa về? Hay là... hay là... Nàng không dám nghĩ tiếp nữa, vội vàng sửa qua xiêm áo, rồi mở cửa bước ra sân, tự nghĩ, "Không biết Vô Tâm đi đâu? Rất có thể chàng đã bị tai nạn gì rồi?" Nàng băn khoăn không biết làm thế nào? Ngồi im mà chờ thì sốt ruột, không chịu nổi, mà đi tìm thì tìm ở đâu?

Nàng chợt rùng mình, khắp người lạnh toát, giữa lúc ấy chợt nghe ngoài viện có tiếng niệm Phật nho nhỏ, rồi hai người đạo sĩ mặc áo lam sóng vai bước vào.

Hai người này đều râu dài, tóc màu tro, sắc mặt cực kỳ trầm trọng. Điền Tú Linh quay lại nhìn bọn họ, cũng vừa bắt gặp họ đang đăm đăm nhìn mình.

Tú Linh chột dạ, quả tim đập thình thịch, buột miệng hỏi, "Hai vị đạo trưởng định tìm ai?"

Hai đạo nhân đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng thủng thỉnh bước lại phía nàng, người bên phải sẽ hỏi, "Có phải đàn việt đang đợi một người không?"

Tú Linh đặt tay lên ngực cho đỡ hồi hộp, rồi rụt rè đáp, "Dạ phải!"

Một đạo sĩ nói, "Người mà đàn việt đang đợi, có nhờ chúng tôi nói với đàn việt là đừng nên ở đây chờ ông ta nữa."

Tú Linh sợ run lên,tái mặt hỏi, "Chàng... chàng làm sao mà bảo tôi đừng chờ nữa."

Đạo nhân cúi đầu nói, "Nếu đàn việt muốn gặp ông ta, thì nên thu xếp hành lý theo bần đạo đi, tới nơi sẽ biết."

Tú Linh nói, "Được!"

Nàng chỉ nói một tiếng, rồi lập tức chạy vụt về phòng. Nhưng vừa tới cửa phòng, thốt nhiên lại quay lại, đăm đăm nhìn hai đạo sĩ, hạ giọng hỏi, "Xin hai vị cho biết đại danh!"

Một đạo sĩ nói, "Bần đạo là kẻ xuất gia, tiện danh không đáng kể. Xin đàn việt thu xếp hành lý mau lên."

Tú Linh chớp chớp đôi mắt, chợt cười nhạt nói, "Nếu hai đạo trưởng không cho biết rõ nguyên cớ và lai lịch thì làm sao tôi có thể cứ nhắm mắt đi theo hai vị được?"

Hai đạo nhân lộ vẻ do dự, rồi lại đưa mắt nhìn nhau, như ngầm hỏi ý kiến. Rồi người bên trái trả lời, "Bần đạo pháp hiệu Thanh Thạch!"

Người bên phải nói, "Bần đạo là Thanh Tùng."

Hai người đều hết sức dè dặt, trước khi nói câu gì lại đưa mắt ngầm hỏi ý nhau, rồi mới lên tiếng, nhưng cũng chỉ trả lời vừa đủ, không nói thừa ra một chữ.

Tú Linh vẫn lạnh lùng nói, "Vậy các đạo trưởng có biết tôi đang chờ ai không?"

Thanh Tùng sắc mặt đang trầm trọng, chợt thoáng hiện ra cười nói, "Đàn việt cẩn thận thực..."

Thanh Thạch đạo nhân bỗng ngắt lời, "Nhưng việc này không phải tầm thường, chúng tôi lại cũng phải cẩn thận hơn nữa. Giờ khắc này không thể nói rõ tên tuổi của người ấy ra được."

Tú Linh nói, "Đạo trưởng chỉ cần nói một chữ trong tên người ấy cũng được."

Thanh Thạch đạo nhân nói, "Chúng ta chỉ cần "tâm" chiếu là đủ, hà tất phải nói ra."

Tú Linh nghĩ thầm, "Tâm chiếu... Tâm... đúng rồi, chắc chắn là Nhâm Vô Tâm".

Nàng nói, "Hai vị chờ tôi một lát!"

Nói xong lập tức chạy vào phòng thu xếp. Chỉ trong khoảnh khắc đã đeo khăn gói đi ra, nói, "Xin hai vị đi trước, tôi sẽ theo sau."

Hai vị đạo trưởng chỉ nói một câu, "Thất lễ." rồi song song bước ra cửa quán. Tú Linh vội vàng tính trả tiền trọ, rồi cũng theo ra. Ba người cùng trông về hướng nam mà đi.

Trong khi đi đường, Tú Linh hỏi dò về cận trạng của Vô Tâm và hiện chàng đang ở đây, hai vị đạo sĩ cũng nhất định không nói, trước sau chỉ đáp một câu, "Đến nơi sẽ biết." Tú Linh tức quá, những cũng đành chịu, không biết làm gì hơn!

Đi một lúc lâu, thời gian vào khoảng thổi chín nồi cơm, trước mắt Điền Tú Linh chợt hiện ra toà núi Chung Nam nguy nga chót vót. Nàng đoán chắc là hai vị đạo sĩ này tất vừa ở Chung Nam xuống, bèn hỏi, "Có phải Nhâm tướng công ở trên núi không?"

Lần này hai đạo sĩ mới gật đầu đáp, "Phải!"

Nói rồi cùng xăm xăm bước lên con đường lên núi.

Lại đi chừng một lúc lâu nữa, vòng qua mấy lớp đường vòng, Thanh Thạch đạo nhân chợt nói, "Sắp tới rồi!"

Tú Linh ngẩng lên chỉ thấy phía trước mặt hiện ra một toà đạo quan nguy nga cổ lỗ, toạ lạc trên một khoảng đất phẳng trên sườn núi, xung quanh bao bọc bởi những ngọn núi cao chót vót, lưng dựa vào mỏm núi cao nhất, mặt quay về phía đông nam, trước cửa có tấm hoành phi đề năm chữ lớn, "Chung Nam Huyền Diệu Quan."

Tú Linh nhớ mang máng hình như đã từng nghe người ta nói Huyền Diệu Quan là nơi phát nguyên ra kiếm phái Chung Nam, nay mới được trông thấy, quả nhiên có một khí tượng trang nghiêm đặc biệt.

Trước cửa quan có mấy đạo sĩ mặc áo vải màu lam ngắn đang xách nước cọ rửa những bực thềm đá và cánh cửa, mặt người nào cũng lộ vẻ đau đớn bàng hoàng. Tú Linh chột dạ nghĩ thầm, "Có lẽ bọn này đang cọ rửa vết máu chăng?"

Lúc này lại thấy mấy chục đạo sĩ trẻ tuổi mặc áo xanh búi tóc xúm xít khiêng năm cỗ áo quan sơn đen từ trong Quan đi ra, trông thấy Thanh Thạch, Thanh Tùng đều cúi đầu chào.

Thanh Thạch đạo nhân gật đầu, sắc mặt càng trầm trọng, chân bước chậm lại, nói với Tú Linh, "Bần đạo đưa đàn việt vào Quan, nhưng trước khi gặp Nhâm tướng công, đàn việt có trông thấy gì lạ cũng đừng hỏi."

Tú Linh lúc này đã sợ tới cực điểm, chưa nghe đạo sĩ nói dứt câu, nàng đã gật lấy gật để, chỉ muốn lập tức nhảy ngay vào Quan, đạo sĩ muốn ra điều kiện gì nàng cũng chịu hết.

Nàng theo hai đạo sĩ vào Quan, ngước mắt nhìn, lại thấy hãy còn mấy cái xác nằm ở trong sân, nhưng đều phủ một mảnh vải gai kín từ đầu xuống đến ống chân, nên không trông rõ mặt.

Tú Linh vì đã hứa trước với Thanh Thạch, nên không dám hỏi, nhưng quả tim vẫn đập thình thịch, bất giác lẩm nhẩm khấn thầm cầu cho Vô Tâm được vô sự.

Đi qua đại điện, hai vị đạo sĩ vẫn không dừng lại, Tú Linh đưa mắt nhìn qua, thấy những pho tượng và án thờ hình như vừa được kê xếp lại, nhưng có nhiều chỗ vẫn còn trông thấy những vết sứt mẻ, trông đó đủ hiểu toà đạo quan này đêm qua chắc đã xảy ra một vụ ác đấu dữ dội.

Đi qua tiền điện, lại tới một cái sân rất rộng, hai bên có hai dãy sương phòng, nhưng đều im lặng như tờ, đâu đây như ẩn náu một khí tượng vô cùng trầm trọng.

Góc sân bên trái còn có một cái cửa tròn, bốn đạo nhân cầm kiếm đứng canh cửa, cặp mắt người nào cũng quắc lên như nảy lửa, sát khí đằng đằng. Vừa trông thấy Thanh Thạch, Thanh Tùng đều cúi đầu làm lễ, rồi tránh ra hai bên nhường lối.

Trong cửa lại còn một lớp sân nhỏ, qua những bụi trúc thưa, thấp thoáng còn trông thấy một dãy sương phòng tinh trí, chắc là chỗ ở của vị chưởng môn.

Thanh Thạch, Thanh Tùng đưa Tú Linh tới trước dãy sương phòng, rồi do Thanh Thạch đạo nhân nghiêng mình cung kính nói, "Khải bẩm chưởng môn sư huynh, tiểu đệ đã mời vị đàn việt ấy tới đây."

Bên trong lập tức có tiếng một ông già nói, "Mời vào trong này."

Thanh Thạch đạo nhân sẽ nghiêng mình nói với Tú Linh, "Xin mời."

Tú Linh cố gắng định thần, tự vén rèm bước vào.

Trong phòng có một vị đạo nhân râu tóc trắng như cước, ngồi xếp bằng tròn trên ván sàng, sắc mặt trắng nhợt, tưởng như cắt không được một giọt máu, tay trái bị thương, quấn bằng mảnh vải trắng, trông ngoài áo bào vẫn lờ mờ nhận thấy, tay phải đạo nhân còn cầm một thanh kiếm, lưỡi sắc như nước, trông lại càng rõ vẻ uy nghiêm.

Tú Linh bất giác quỳ xuống, lễ phép hỏi, "Dám hỏi đạo trưởng, Nhâm tướng công hiện nay ở đâu?"

Đạo trưởng đôi mắt long lanh, đăm đăm nhìn nàng một lúc rồi hỏi, "Đàn việt có phải là người nhà Nhâm tướng công không?"

Tú Linh cung kính đáp, "Vãn bối chính là người cùng đi với Nhâm tướng công!"

Đạo nhân thốt nhiên thở dài một tiếng, rồi nói, "Được!"

Đoạn thủng thỉnh bước xuống khỏi vân sàng, đi vào một cửa bên, tay vén rèm nói với Tú Linh, "Mời đàn việt vào, Nhâm tướng công hiện ở trong này."

Tú Linh càng cảm thấy hồi hộp, buột miệng kêu to, "Nhâm tướng công! Nhâm tướng công!"

Rồi nàng đứng phắt dậy, xăm xăm chạy vào. Nhưng vừa bước tới cửa phòng, nàng chợt lặng người, choáng váng đứng sững lại.

Thì ra nàng đã trông thấy trong phòng bốn bề rèm che kín mít, không có ánh sáng mặt trời, nhưng bên trong lại thắp mấy cây bạch lạp.

Dưới ánh nến chập chờn, trên chiếc bàn gỗ trước mặt, nàng đã nhận rõ một cỗ quan tài còn mới. Phía trước quan tài còn bày đủ hương hoa lễ vật, ngoài ra không thấy một người nào khác nữa.

Tú Linh lạnh toát cả người, chân tay bủn rủn, lắp bắp hỏi, "Nhâm... Nhâm Vô... Vô Tâm ở... ở đây ư?"

Đạo nhân từ từ gật đầu, sẽ nói, "Chính đấy!"

Tú Linh chỉ nghe như một tiếng sét nổ bên tai, ngực như bị một vật gì nặng tới ngàn cân đè lên, chân đứng không vững, chỉ lảo đảo mấy bước rồi ngã ngồi xuống đất, hai mắt trợn trừng nhìn vào cỗ quan tài, nước mắt tuôn ra như suối.

Cái lối khóc thầm ấy còn đau khổ gấp vạn lần khi khóc thành tiếng. Vị đạo trưởng tóc bạc hình như có vẻ ngạc nhiên, sẽ nói, "Đàn việt hà tất phải đau thương quá lắm vậy!"

Tú Linh lúc này còn để ý đâu đến những lời khuyên nhủ của ông ta. Nàng chỉ lặng đi một lúc, rồi nhảy một bước tới bên áo quan, lăn ra, vừa khóc vừa nói, "Nhâm tướng công, Nhâm tướng công làm sao lại chết được?... Tướng công đừng chết... đừng chết! Nếu tướng công chết, tôi còn sống làm gì nữa?"

Bao nhiêu những nỗi đau thương ai oán, bị nàng cố gắng đè nén bấy lâu, lúc này mới được dịp nổ bung ra, nàng không nghĩ gì đến sự có người lạ đứng bên cạnh, cứ việc lăn lộn gào khóc kể lể, "Nhâm tướng công ôi! Tướng công chết, tôi cũng không sống được nữa!"

Thốt nhiên bên tai nàng chợt văng vẳng có tiếng gọi, "Điền cô nương! Điền cô nương!"

Tiếng gọi vừa quen thuộc, vừa xa xôi, rõ ràng là tiếng Nhâm Vô Tâm.

Tú Linh giật mình, vội ngẩng đầu lên, nhìn trừng trừng vào cỗ áo quan.

Chỉ thấy nắp cỗ áo quan sơn đen, lúc này đã từ từ cất cao lên, để lộ ra hai cánh tay trắng bệch. Sau đó nàng lại trông thấy sắc mặt nhợt nhạt của Nhâm Vô Tâm, đang cố quay lại nhìn về phía nàng.

Chỉ trong phút chốc, bao nhiêu những nỗi mừng, sợ, thẹn, giận, dồn dập quay cuồng trong óc nàng, đến nỗi chính nàng cũng không sao phân biệt nổi tâm ý của mình nữa.

Nàng sững sờ nhìn Vô Tâm một lúc, rồi thốt nhiên đứng vùng dậy, ù té chạy ra khỏi phòng.

Vị đạo trưởng chắp tay trước ngực, chắn không cho nàng ra, hỏi bằng một giọng hiền hoà, "Đàn việt đã muốn gặp Nhâm tướng công, cớ sao lại bỏ chạy?"

Tú Linh lấy ống tay áo lau nước mắt, cười nhạt, "Hừ! Không ngờ một vị chưởng môn Chung Nam mà cũng chẳng khác gì tụi lưu manh hiểm độc!"

Đạo nhân ngẩn người, hỏi, "Tại sao đàn việt lại thoá mạ bần đạo như vậy?"

Tú Linh sẵng giọng nói, "Tôi hãy hỏi đạo trưởng, tại sao đạo trưởng lại đánh lừa tôi? Có phải là cố ý định bêu xấu tôi ở trước mặc các người không? Ừ, thì thế đấy, nếu Nhâm Vô Tâm chết, tôi cũng không sống. Nhưng bây giờ hắn chưa chết, tôi sẽ đi! Nào thôi, tránh ra để tôi đi!"

Trên nét mặt nghiêm trang của vị đạo nhân chợt nở một nụ cười hiền từ dễ dãi. Ông tuy là một bực thế ngoại vong tình, nhưng cũng biết tâm lý các cô thiếu nữ. Mỗi khi bị người ta biết rõ những nỗi thầm kín trong tâm can, thường hay xấu hổ, bèn cười nói, "Đàn việt lầm rồi, không phải chúng tôi cố ý dàn cảnh để đánh lừa nữ đàn việt đâu. Chẳng qua vì muốn mưu sự an toàn cho Nhâm tướng công, nên mới phải làm thế này để tạm che mắt kẻ thù đó thôi. Thực ra không có ý gì khác cả."

Tú Linh lấy tay áo lau khô nước mắt, không nói gì nữa.

Đạo nhân thở dài nói tiếp, "Chỉ vì phái Chung Nam tuy đã nhờ Nhâm tướng công mà được bảo toàn, nhưng Nhâm tướng công chẳng may lại cũng bị trọng thương, lúc này chưa thể đi lại được."

Tú Linh chợt lại động lòng, nàng tuy chưa tin hẳn lời vị đạo trưởng, nhưng bất giác cũng từ từ quay lại.

Chỉ thấy Vô Tâm hai tay vẫn nâng nắp áo quan, sắc mặt quả nhiên nhợt nhạt như không còn một tia máu, đôi mắt cũng mất hết tinh thần, lờ đờ nhìn Tú Linh.

Tú Linh thấy thế, cầm lòng không đậu, quên cả hổ thẹn, xăm xăm bước tới, vịn tay vào áo quan, nghẹn ngào hỏi, "Nhâm... Nhâm tướng công bị thương thật à?"

Vô Tâm cười một cách buồn bã, từ từ gật đầu. Tú Linh vội hỏi, "Bị thương ở đâu? Liệu có việc gì không?"

Vô Tâm lắc đầu, chàng thấy Tú Linh quan tâm đến mình như vậy, ruột cũng rối như tơ vò, nghĩ bụng, "Nàng đối với ta quả đã có tình, ta biết làm sao bây giờ?"

Tú Linh thở dài đau đớn nói, "Tướng công bị thương làm sao? Có thể cho tiện thiếp xem được không?"

Nàng nói dứt lời, Vô Tâm đã nằm xuống, đóng nắp áo quan lại. Chỉ nghe tiếng chàng từ trong áo quan đưa ra, "Tại hạ chỉ bị thương xoàng, phu nhân đừng ngại."

Giọng nói đã lạnh như băng,làm cho người nghe phải khó chịu, lại thêm hai tiếng "phu nhân" chẳng khác gì mũi dao nhọn đâm suốt trái tim Tú Linh. Nàng đứng ngây ra một lát, vừa đau đớn, vừa thẹn thùng, uất giận, trong phút chốc, không biết xử trí ra sao.

Lại nghe tiếng hiền từ của vị đạo nhân nói ở bên tai, "Nhâm công tử bị thương ở trong phủ tạng, nếu không phải là người có nội công tuyệt thế thì đã nguy rồi. Bây giờ thần trí đã tán, khí lực khô kiệt, không nên để nói nhiều..."

Tú Linh giật mình, vội hỏi, "Chàng bị thương ở phủ tạng ư? Ai mà có thể làm cho chàng bị thương được?"

Nàng nghĩ trên đời này, người có thể dùng nội lực làm cho nội phủ kinh mạch của Nhâm Vô Tâm bị thương, trừ bà Tổ nàng và Lan Cô ra, thì còn ai nữa?

Nàng nghĩ tới đây, bất giác lạnh toát ca người, nghĩ thầm, "Hay bà Tổ ta đã tới đây chăng?"

Đạo nhân hạ giọng nói, "Việc này nói ra còn dài, xin mời nữ đàn việt ra ngoài nhà, bần đạo sẽ nói rõ."

Tú Linh theo đạo nhân đi ra, đã thấy Thanh Thạch, Thanh Tùng đứng chờ ở vân phòng, cung kính hỏi đạo nhân, "Bịnh tình Nhâm tướng công có biến chứng gì không?"

Đạo nhân thở dài nói, "Nhâm tướng công thật là người trời, vừa rồi đã nói được mấy câu."

Thanh Thạch, Thanh Tùng đều tỏ vẻ hoan hỉ, chắp tay niệm một câu, "Vô lượng Phật!"

Đạo nhân ngồi xếp bằng trên vân sàng, nói với Tú Linh, "Xin mời nữ đàn việt ngồi."

Tú Linh ngồi xuống nói, "Xin đạo trưởng nói mau cho tôi biết."

Đạo nhân chậm rãi kể, "Phái Chung Nam sáng lập đã hai trăm năm nay. Tuy không dám nói là đời nào cũng có nhân tài, nhưng đệ tử Chung Nam ở trong võ lâm cũng đã có địa vị. Hồi xưa Chung Nam thất kiếm quét sạch quần ma, câu chuyện đó tới bây giờ trong giang hồ vẫn còn có người nhắc tới."

Sáu mươi năm trước, chưởng môn bản phái là Lục Chân nhân xuất lĩnh đệ tử quyết chiến với Hoa Sơn Thập nhất kiếm ở sau núi Hoa Sơn. Việc đó tuy đã làm chấn động thiên hạ, nhưng hai phái Chung Nam và Hoa Sơn đều bị tổn thương rất lớn. Lục Chân nhân cũng bị trọng thương không chữa được nữa.

Ông thở dài một tiếng, rồi nói tiếp, "Trước khi lâm chung, lão nhân gia còn bẻ kiếm thề là từ nay trở đi đệ tử bản môn không được dự vào những chuyện giang hồ, và nhất là không được gây thù chuốc oán với môn phái Hoa Sơn nữa."

Trải qua sáu mươi năm giáo dưỡng, bản phái tuy đã khôi phục được nguyên khí, nhưng không dám quên di huấn của tiền nhân, chỉ bế quan tử thủ, không hỏi gì tới những việc giang hồ. Sáu chục năm nay, đệ tử Chung Nam chưa từng động thủ với ai bao giờ.

Nói đến đây, đôi mắt ông chợt sáng quắc lên như hai luồng điện, rồi lại tiếp, "Tuy nhiên các môn các phái trong thiên hạ cũng chưa từng thấy ai dám khinh thường Chung Nam kiếm phái."

Tú Linh ngẫm nghĩ cười thầm, "Không biết ông ta nói với mình những câu ấy để làm gì?" Kế lại nghe đạo nhân nói tiếp, "Vì thế nên mấy năm gần đây, trong giang hồ tuy luôn luôn phát sinh những chuyện quái gở, không những có nhiều cao nhân võ lâm thốt nhiên bị mất tích một cách bí mật, mà đến cả hai phái Thiếu Lâm và Vũ Đương cũng xáo động không yên. Nhưng những chuyện sóng gió giang hồ ấy cũng không hề ảnh hưởng đến phái Chung Nam. Đệ tử bản môn vẫn giữ lời di huấn của tiền nhân, không dám xao lãng."

Không những thế, bần đạo còn ước thúc đệ tử, không cho được tự tiện ra khỏi Chung Nam trước khi trong giang hồ chưa được sóng gió yên lặng.

Ông thở dài một tiếng, rồi lại tiếp, "Bần đạo vì muốn yên thân, yên việc, nên mới ra lệnh như thế, không ngờ mình không phạm người ta, mà người ta vẫn cứ phạm mình. Đêm qua..."

Ông nói đến đấy, chợt nhăn mặt, nắm lấy cánh tay trái, gượng cười nói với Thanh Tùng, "Hình như vết thương của ngu huynh bị vỡ ra, Tam đệ hãy thay ngu huynh kể tiếp cho nữ đàn việt nghe."

Thanh Tùng vâng lời, kể tiếp, "Hôm qua, trời vừa chập tối, Huyền Phong đạo trưởng chưởng môn phái Hoa Sơn thốt nhiên xuất lĩnh mười bảy đạo nhân xông lên Chung Nam."

Tú Linh nghe đến đây mới thở ra một hơi dài, nghĩ thầm, "Thì ra đây chỉ là mối túc cừu cựu hận giữa hai phái Chung Nam và Hoa Sơn, chớ không can gì đến bà Tổ ta, may quá!"

Thanh Tùng đạo nhân nói tiếp, "Sư huynh Thanh Vân chưởng môn chúng tôi vì muốn giữ lễ giáo, tuy biết hắn tới đây là có ý không tốt, nhưng vẫn xuất lĩnh đệ tử toàn phái ra cửa Huyền Diệu Quan nghênh tiếp."

Lúc này trời đã tối hẳn, ngoài cửa quan thắp mấy chục ngọn đèn lồng để đón quý khách. Dưới ánh đèn rực rỡ, đã trông rõ vẻ mặt bọn đạo nhân phái Hoa Sơn, người nào người nấy đều sát khí đằng đằng.

Nhưng chưởng môn sư huynh tôi vẫn niềm nở tiếp đón, mời họ vào trong Quan đãi trà.

Không ngờ Huyền Phong đạo nhân không chịu vào, chỉ lạnh lùng nói, "Sáu mươi năm trước Lục Chân nhân phái Chung Nam đốc lĩnh mười bảy cao thủ tới Hoa Sơn, thì bữa nay bần đạo cũng đem mười bảy đệ tử tới đây đáp lễ."

Lúc ấy không những chưởng môn sư huynh tôi biến sắc mặt, mà chính bần đạo cũng kinh hãi vô cùng. Nhưng sư huynh tôi vẫn tươi cười nói, "Những chuyện dĩ vãng sáu mươi năm nay đã biến thành mây khói. Tiền nhân của hai phái đều đã dứt khoát, trước con mắt anh hùng thiên hạ, cùng vui lòng hoà lệ khí thành tường vân, ngày nay can gì đạo huynh còn muốn hoá tường vân thành lệ khí nữa?"

Câu nói thật là tận nhân tận nghĩa, tình lý phân minh. Không ngờ Huyền Phong đạo nhân đã cố ý sinh sự, bọn đạo nhân Hoa Sơn lại càng ngang ngạnh dã man, chúng không cần đếm xỉa gì tới phải trái, lập tức rút kiếm ra khỏi bao.

Chưởng môn sư huynh tôi thấy tình hình như vậy, biết rằng có nói cũng vô ích, trong bụng chỉ hơi lấy làm lạ, vì từ lâu vẫn nghe người ta nói Huyền Phong đạo nhân là một bậc khiêm khiêm quân tử, không hiểu tại sao hôm nay bỗng dưng lại trở nên ngang tàng vô lý như vậy?

Và bọn đệ tử cũng hung hăng độc ác, không có vẻ gì là những người xuất gia, tay lăm lăm chuôi kiếm, miệng không nói nửa lời, khí thế cực kỳ hung hãn.

Tứ sư đệ tôi nóng máu không sao nhịn nổi, bèn chống kiếm bước lên quỳ trước mặt sư huynh tôi, xin phép động thủ, dù có bị môn quy xử trị cũng đành.

Thanh Tùng đạo nhân đang thao thao bất tuyệt kể đến đấy, chợt ngừng lại, sắc mặt lộ vẻ đau đớn, thương cảm, một lúc mới tiếp, "Không ngờ Tứ sư đệ tôi tuổi tuy còn nhỏ, nhưng tài trí kiêm toàn, chỉ trong phút chốc đã ra người thiên cổ..."

Ông cố nén xúc động, nhưng mấy giọt nước mắt vẫn từ từ tuôn ra hai gò má. Thanh Thạch ngồi bên cũng lấy tay bưng mặt. Sau một phút yên lặng, Thanh Thạch chợt ngẩng phắt lên, kể tiếp thay cho Thanh Tùng, "Tứ sư đệ đã chết, tôi và chưởng môn sư huynh mới quyết định lại giẫm lên bánh xe đổ sáu chục năm về trước, cùng phái Hoa Sơn quyết một trận thư hùng, liền phái Tam sư đệ về Quan lấy kiếm."

Không ngờ kiếm chưa kịp đem ra, mười tám đạo nhân phái Hoa Sơn chẳng kể gì tới đạo nghĩa giang hồ, bất thần hạ độc thủ. Chỉ trong nháy mắt, mười tám thanh trường kiếm đã đồng thời vung lên.

Đệ tử bản môn nguyên chỉ định ra đón khách, nên không ai đeo kiếm. Vả cũng không ngờ phái Hoa Sơn lại vô sỉ đến nỗi nhân lúc người ta không đề phòng, thốt nhiên hạ độc thủ. Hai bên vừa trao đổi được ba câu, đã có mấy tên đệ tử bản môn bị thương dưới lưỡi kiếm của chúng. Lúc ấy Tam sư đệ mới đem kiếm ra, thế là hai phái xông vào loạn đả. Chỉ trong vòng một giờ, máu tươi đã nhuộm thấm mấy chục bực thềm ngoài cửa Huyền Diệu Quan.

Bản môn đệ tử tuy sớm tối siêng năng luyện võ, nhưng vì môn quy hạn chế, nên thiếu kinh nghiệm giao đấu. Thốt nhiên gặp cường địch, tự nhiên không cầm cự nổi. Vả bọn họ đều tay không, không thể thi triển kiếm pháp của bản phái được, mà bản môn xưa nay lại chỉ chuyên về kiếm pháp, còn công phu quyền cước, rất ít chú ý đến.

Mười bảy vị đạo nhân Hoa Sơn, võ công đều cao cường tới bực bần đạo không thể ngờ tới, người nào cũng xứng đáng là cao thủ võ lâm cả. Nhưng giữa lúc hai bên giáp chiến, bần đạo còn nhận thấy một sự rất lạ, là trong mười bảy người ấy võ công tuy cao, chiêu thức tuy độc, nhưng kiếm pháp của họ mười phần có tới chín không phải là kiếm pháp Hoa Sơn.

Vừa nghe đến đấy, Tú Linh chợt thấy lạnh toát xương sống. Kế lại nghe Thanh Tùng nói xen, "Kiếm pháp của họ không những không phải kiếm pháp Hoa Sơn, mà lại lẫn lộn cả võ công của các môn phái khác. Bần đạo còn nhận thấy có người sử dụng "Nam Hải phi phong kiếm" là môn kiếm truyền từ Nam Hải. Chỉ tiếc một điều chúng tôi ít khi hành tẩu giang hồ, nên tuy nhận ra tôn phái kiếm pháp mà không nhận ra lai lịch của họ."

Tú Linh buột miệng hỏi, "Người sử dụng "Nam Hải phi kiếm pháp" có phải là người tàn tật không?"

Thanh Tùng đạo nhân biến sắc mặt hỏi, "Đúng rồi! Người đó chỉ có một cánh tay. Nhưng sao nữ đàn việt lại biết?"

Tú Linh thở dài, lắc đầu, "Xin đạo trưởng cứ nói nốt."

Thanh Tùng nói, "Tới khi bần đạo lấy được kiếm ra tiếp cứu thì bọn đệ tử đã bị thương quá nửa, đối phương chỉ có một người bị chưởng môn sư huynh giật được thanh kiếm đâm vào ngực hắn một nhát. Tuy nhiên thương thế cũng không đến nỗi chí mạng, bọn họ vẫn chiến đấy một cách hăng say."

Ông đưa mắt nhìn vào phòng trong, thở dài kể tiếp, "Chính giữa lúc ấy, chợt nghe dưới chân núi nổi lên một tiếng hú trong trẻo, nghe như tiếng hạc lanh lảnh, thấu suốt chín từng mây..."

Tú Linh ngồi nghe một cách mê mải say sưa, như chính mình đang dự trong chiến cuộc. Vừa nghe Thanh Tùng kể tới đấy, bất giác mừng rỡ reo thầm. "A, chắc Nhâm Vô Tâm đã tới!"

Thanh Tùng đạo nhân sắc mặt cũng lộ vẻ cao hứng, kể tiếp, "Nghe thấy tiếng hú, bọn Hoa Sơn hình như đều giật mình thất sắc, và đồng thời một bóng người cùng theo tiếng hú bay lên."

Bóng người đó nhanh không khác gì một luồng chớp, khi đến tới nơi, mới nhận rõ đó chỉ là một vị thiếu niên văn sĩ, toàn trường ai cũng sửng sốt, không hiểu sao chàng ta tuổi còn nhỏ, mà võ công đã cao cường như vậy? Bọn bần đạo lúc ấy chỉ cho là quân tiếp viện của đối phương, trong bụng càng lo, chợt thấy chàng thiếu niên tỏ vẻ tức giận, giậm chân nói, "Chậm quá! Chậm quá! Ta đến chậm quá!"

Trong khi nói, chàng đã cướp được hai thanh kiếm ở trong tay hai tên đệ tử Hoa Sơn.

Thân thủ của chàng cực kỳ thần tốc huyền diệu, bần đạo dẫu khéo nói đến đâu cũng không thể hình dung ra được. Bên đối phương lại càng tỏ vẻ kinh hoàng, nhốn nháo, đã có người buột miệng kêu, "Nhâm Vô Tâm! Đúng là Nhâm Vô Tâm!"

Nhưng bọn bần đạo kiến thức hẹp hòi, từ xưa đến nay chưa từng được nghe ai nói đến Nhâm Vô Tâm bao giờ, trong bụng còn đang kinh nghi, đã nghe tiếng Nhâm tướng công gọi to, "Các vị đạo hữu Chung Nam nghe đây! Bọn này không phải là đệ tử Hoa Sơn. Chúng chỉ là người trong "Thất thập nhị địa sát" của nhà Nam Cung thế gia trá hình đó thôi!"

Bọn bần đạo đều giật mình. Lúc này mới hoảng nhiên tỉnh ngộ. Chẳng trách những người này từ lúc lên núi, miệng đều câm như hến, mặt sát khí đằng đằng, và chiêu thức võ công cũng mỗi người mỗi khác, và chẳng lý gì đến đạo nghĩa giang hồ...

Tú Linh nghe mỗi câu ông ta nói, tưởng như bị một quyền thoi vào giữa ngực, bất giác cúi gầm đầu xuống.

Thanh Tùng đạo nhân không để ý đến, vẫn điềm nhiên kể tiếp, "Đối phương bị Nhâm tướng công nêu rõ lai lịch, lại càng tức giận, nhưng hình như chúng đều khiếp sợ uy danh nên không những không một người nào dám xông ra đối địch, trái lại còn chúc mũi kiếm xuống, đứng ngây mặt ra. Nhâm tướng công nói với anh em bần đạo rằng, "Trong số mười tám người này, chỉ có một mình Huyền Phong là chưởng môn phái Hoa Sơn, nhưng thần trí hắn cũng bị Nam Cung thế gia khống chế. Bọn họ lấy cớ vì mối túc cừu giữa hai phái Chung Nam và Hoa Sơn tới đây khiêu chiến, chỉ cốt tiêu diệt thực lực của phái Chung Nam, bắt các vị đạo trưởng phải gia nhập đội "Thất Thập Nhị Địa sát", bổ sung vào con số vừa bị thương tổn của chúng. Tại hạ tuy đã biết tin ấy từ lâu, nhưng thật không ngờ chúng tới đây nhanh thế!"

Bọn bần đạo nghe Nhâm tướng công nói xong, bất giác mồ hôi đều vãi ra như tắm.

Không ngờ Nhâm tướng công nói chưa dứt lời, chợt nghe từ phía xa xa văng vẳng có tiếng âm nhạc đưa lại.

Bọn mười tám người kia vừa nghe tiếng nhạc, thốt nhiên như bị thôi miên, không kể gì đến sống chết, lập tức múa gươm xông vào.

Bọn bần đạo khi nào lại để Nhâm tướng công độc lực chiến đấu, nhưng Nhâm tướng công nhất định không nghe, nói, "Không phải tại hạ nói năng ngông cuồng, các vị đạo trưởng ra bây giờ là chỉ chết uổng, mà cũng chẳng giúp được tại hạ việc gì. Dù các vị không tiếc tánh mạng những cũng phải bảo tồn thực lực cho phái Chung Nam mới được."

Bần đạo tuy biết Nhâm tướng công nói thế không phải là khích tướng, nhưng trong bụng cũng không khỏi xấu hổ. Chưởng môn sư huynh bèn sai bần đạo và Nhị sư huynh đốc lĩnh bọn đệ tử về Quan, còn Người thì ở lại chiến đấu, tiếp tay cho Nhâm tướng công.

Phái Chung Nam chỉ có bần đạo và Nhị sư huynh là võ công khá hơn cả, vậy mà lúc đầu đã vào lấy kiếm, sau lại hộ vệ cho đệ tử tháo lui, thành ra đều được vô sự." Nói xong lại thở dài, cúi gầm đầu xuống.

Tú Linh lẳng lặng giây lâu, chợt ngẩng lên hỏi, "Nhưng rồi về sau Nhâm tướng công làm sao mà bị thương?"

Thanh Vân đạo trưởng thở dài nói, "Bần đạo tuy sóng vai chiến đấu bên cạnh Nhâm tướng công, kỳ thật thì không giúp được Nhâm tướng công một mảy may nào!"

Ông vỗ vào chuôi kiếm, ngậm ngùi nói tiếp, "Thanh kiếm này, bần đạo tuy đã từng rèn luyện mấy chục năm nay, nhưng chỉ bế quan tự luyện, chẳng khác gì ếch ngồi đáy giếng, nếu gặp những cuộc tàn sát nảy lửa như cuộc tàn sát đêm qua, thì tự nhiên đầu óc rối loạn, mười phần quên mất đến bảy, tám."

Vì thế nên Nhâm tướng công cứ phải vừa đánh vừa lưu ý chiếu cố bần đạo, chỉ chừng một lúc không lâu, bần đạo đã bị thương, mà bên địch thủ cũng đã có sáu, bảy người bị chưởng phong của Nhâm tướng công sát hại.

Nhưng Nhâm tướng công võ nghệ tuy kinh nhân, mà bên đối phương thì hình như không kể gì đến sống chết, có kẻ đã bị trọng thương mà vẫn còn lăn xả vào trước mũi kiếm, nhất định không lùi. Thật bình sinh bần đạo mới thấy bọn người hung tàn liều lĩnh như thế là một.

Trong khi kịch chiến, trời đã lờ mờ sáng. Mười tám cao thủ của đối phương chỉ còn sót lại chừng năm, sáu mống.

Cũng trong lúc ấy, cái tiếng âm nhạc quái gở vừa rồi, thốt nhiên ngừng bặt, mấy người còn sống sót tự nhiên tinh lực và đảm khí hình như cũng theo tiếng nhạc mà tan dần, thanh kiếm trong tay cũng từ từ ngã xuống.

Trước cửa Huyền Diệu Quan lúc này đã bao trùm một bầu không khí tịch mịch nặng nề, không khác gì cõi chết.

Giữa lúc ấy, trong màn sương sớm mịt mù dưới chân núi chợt thấy bóng một người con gái đang từ từ bay lên.

Cô ta mặc áo trắng, da mặt cũng trắng nhợt, mặt cắt không được giọt máu, qua màn sương mỏng, trông như một cái bóng ma. Lúc ấy không những bần đạo cảm thấy rợn người, mà Nhâm tướng công hình như cũng kinh ngạc, lẩm bẩm nói, "Quái, sao nàng lại mò lên tới đây?"

Nhâm tướng công vừa nói dứt lời, cái bóng đã xông tới trước mặt. Bần đạo còn đang luống cuống, thiếu nữ đã nhanh như chớp phóng một chưởng vào giữa ngực Nhâm tướng công. Chưởng thế trông không lấy gì làm mạnh, nhưng Nhâm tướng công lại hình như không gắng gượng nổi, thân hình lảo đảo lùi lại mấy bước rồi ngã gục.

Tú Linh run run hỏi, "Có... có phải thiếu nữ ấy chỉ vào khoảng ngoài hai mươi tuổi, phải không?"

Thanh Vân ngạc nhiên, đăm đăm nhìn nàng một lúc rồi hỏi, "Nữ đàn việt có biết cô ta à?"

Tú Linh sắc mặt cũng tái mét, lại giục, "Rồi sao, sao nữa, đạo trưởng cứ nói nốt đi."

Thanh Vân đạo trưởng thở dài, "Bần đạo thấy Nhâm tướng công vì cớ cứu mình mà bị thương, nên không còn kịp đắn đo gì nữa, lập tức phấn lực xông lên, chỉ thấy người con gái phóng một chưởng xong, thân hình tựa hồ hơi run run, đứng trước Nhâm tướng công, sắc mặt ngơ ngác như người mất hồn, rồi thốt nhiên xua tay một cái, quay mình bỏ chạy."

Thân pháp của nàng nhanh như một luồng gió, chỉ trong nháy mắt đã mất hút, cả năm sáu người kia cũng bỏ chạy theo. Bần đạo đuổi không kịp. Ôi!...

Ông kết thúc câu chuyện bằng một tiếng thở dài. Không khí trong vân phòng lúc này thật nặng nề ngột ngạt.

Tú Linh sắc mặt tái mét, vừng trán ướt đẫm mồ hôi, nghĩ thầm, "Người ấy nhất định là Tứ phu nhân. Bà bị bà Tổ khám phá ra âm mưu tạo phản, mới dùng thuốc mê làm lú lấp bản tính, mà Nhâm Vô Tâm thì không ngờ nên mới đến nỗi..." Những dòng nước mắt của nàng hoà lẫn với mồ hôi nhỏ xuống hai gò má trắng nhợt.

Nàng thật không ngờ bà Tổ nàng lại tàn ác đến nỗi đầu độc cả chắt dâu ruột của mình. Vậy thì bà ta còn từ cái gì mà không dám làm?

Thanh Tùng đạo nhân buồn rầu nói, "Khi bần đạo ở trong Quan ra thì Nhâm tướng công đã đuối sức lắm, mà trong ngoài Huyền Diệu Quan đã la liệt những xác chết và máu tươi."

Bọn bần đạo tuy đau đớn vì sự bất hạnh của bản môn, nhưng lại còn lo lắng vì vết thương của Nhâm tướng công hơn vì vết thương nặng lắm. Anh em chúng tôi cũng đành chịu không sao chữa nổi. Nhưng Nhâm tướng công đối với phái Chung Nam vô thân vô cố, bọn bần đạo nỡ nào để tướng công phải vì phái Chung Nam mà chết!

Lúc ấy, trái lại Nhâm tướng công lại an ủi anh em bần đạo và bảo bần đạo xuống núi đón nữ đàn việt. Khi mới lên núi, nữ đàn việt trông thấy mấy cái tử thi và quan tài, đó chính là dấu vết cuộc ác đấu đêm qua.

Thanh Vân đạo trưởng lại nối lời, "Bần đạo vì sợ người nhà Nam Cung thế gia trở lại, tìm giết Nhâm tướng công, mới mời Nhâm tướng công vào quan tài nằm tạm. Nếu bọn họ tới đây, thấy Nhâm tướng công đã chết, tất cũng không để ý nữa."

Ông cười một cách đau khổ, "Không ngờ vì thế mà làm cho nữ đàn việt hiểu lầm bần đạo."

Tú Linh chỉ ngồi lặng người, mồ hôi toát ra như tắm, một lúc lâu, không nói được câu nào.

Hồi thứ ba mươi sáu

Gỡ mối nghi ngờ

Bốn người cùng cúi đầu im lặng, mỗi người đều theo đuổi một ý nghĩ riêng. Một lúc lâu, Thanh Vân đạo trưởng chợt ngẩng đầu lên, nói bằng một giọng quả quyết, "Việc đã đến thế này, bao nhiêu đệ tử phái Chung Nam cùng đồng lòng thề chết chống đối với Nam Cung thế gia đến cùng, dù còn một người, cũng quyết không chịu buông kiếm."

Ông đưa mắt nhìn vào cỗ quan tài có Nhâm Vô Tâm nằm rồi nói, "Bần đạo chỉ thắc mắc nhất vì sự an nguy của Nhâm tướng công, ở đây không có linh dược. Và Huyền Diệu Quan lúc này đã biến thành một nơi gió tanh mưa máu, khó lòng mà bảo hộ cho Nhâm tướng công được an toàn."

Nói đến đây ông chợt đứng lên, hướng vào Tú Linh vái một vái rồi nói, "Bần đạo muốn phiền nữ đàn việt hộ tống quan tài Nhâm tướng công xuống núi ngay ngày hôm nay, rồi tìm thầy chạy chữa cho tướng công chóng hồi phục. Bần đạo và các đệ tử phái Chung Nam, đời đời kiếp kiếp không bao giờ dám quên đại đức."

Ông là một vị chưởng môn, địa vị tôn quý đến đâu, nay phải cung kính ân cần nói với một thiếu nữ như Tú Linh những câu thiết tha như vậy, đủ hiểu đối với việc này ông trịnh trọng đến thế nào.

Thanh Thạch, Thanh Tùng đứng sau sư huynh cũng nước mắt ràn rụa, nghiêng mình vái nàng một vái.

Tú Linh vội đứng lên, nghẹn ngào đáp lễ, nói, "Đạo trưởng uỷ thác, tiện thiếp đâu dám không tuân. Nhưng... nhưng... Nhâm tướng công thương thế nguy cấp như vậy, tiện thiếp biết tìm đâu được danh y bây giờ?"

Nàng nói chưa dứt lời, chợt nằm phục xuống ghế, khóc ầm lên.

Thanh Vân đạo trưởng và hai sư đệ đều đưa mắt nhìn nhau, không biết xử trí cách nào.

Thốt nhiên nghe trong nhà có tiếng Nhâm Vô Tâm gọi bằng một giọng rè rè yếu ớt, "Đạo trưởng..."

Tiếng gọi chưa dứt, ba vị đạo trưởng và Tú Linh cùng chạy xô vào. Chỉ thấy Nhâm Vô Tâm đang gắng gượng ngồi lên, Tú Linh vội vàng chạy đến đỡ nắp áo quan lên hộ chàng.

Thanh Vân đạo trưởng ôn tồn hỏi, "Tướng công định dặn bảo gì?"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Đạo trưởng cứ yên tâm. Nam Cung thế gia vừa bị thảm bại một trận, trong vòng năm, ba tháng, quyết chưa dám trở lại ngay, có khi họ cũng không còn thì giờ trở lại nữa, vì đến ngày ấy chúng tôi sẽ hoàn toàn phát động thế công, họ lo thân họ chưa xong, làm gì còn lực lượng tấn công kẻ khác?"

Chàng cười to một tiếng, rồi lại tiếp, "Các vị đạo trưởng nên thừa cơ hội ấy mà trung chỉnh môn hộ. Sau này cũng có hôm Nhâm mỗ tới Huyền Diệu Quan quấy quả các vị đạo trưởng vài chén rượu."

Chàng tuy bị thương nặng, tiếng nói hơi yếu, nhưng vẫn cười nói vui vẻ, như không có chuyện gì xảy ra.

Ba vị đạo trưởng thấy thế, vừa đau đớn, vừa khâm phục. Thanh Vân đạo trưởng thở dài nói, "Sự sống chết của anh em bần đạo chỉ là việc phụ, duy thương thế của Nhâm tướng công mới đáng..."

Nhâm Vô Tâm vội cười ngắt lời, "Có một chưởng quèn, làm sao kết quả nổi tính mạng Nhâm mỗ? Xin các vị đạo trưởng cứ yên tâm!"

Thanh Vân đạo trưởng nói, "Nhưng hiện thời tướng công không đi lại được, mà các vị võ lâm đồng đạo thì đang chờ tin tức của tướng công..."

Vô Tâm nói, "Xin các vị sai người đưa tại hạ sang Tam Túc. Ở đấy sẽ có người chữa bệnh cho tại hạ."

Thanh Vân đạo trưởng mừng lắm, vội nói, "Thật ư?"

Thanh Tùng đạo nhân cũng mừng rỡ nói, "Bần đạo tuy bất tài, nhưng Nhâm tướng công muốn đi đâu, bần đạo cũng xin tình nguyện đưa đi."

Tú Linh nói, "Việc hộ tống Nhâm tướng công là bổn phận của tiện thiếp, xin cứ để tiện thiếp lo lấy."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Đa tạ hậu ý của phu nhân, nhưng tại hạ thực không dám phiền..."

Miệng chàng tuy vẫn giữ nguyên nụ cười, nhưng giọng nói thì lạnh hơn đá, khiến người nghe phải khó chịu.

Ba vị đạo trưởng cũng lấy làm kinh dị, vì họ thấy Tú Linh đối với chàng ân cần tha thiết như vậy, mà sao chàng chỉ đáp lại bằng một thái độ hết sức lạnh nhạt thờ ơ? Ngoài miệng tuy họ không nói ra, nhưng bất giác cùng quay cả lại nhìn Tú Linh.

Tú Linh sửng sốt một lúc, thốt nhiên chân tay run lẩy bẩy, nước mắt chảy ròng ròng, nghiến răng nói, "Công tử luôn mồm gọi tôi là "phu nhân" sao không tuyên bố cho mọi người biết tôi là ai luôn thể?"

Vô Tâm ngẩn người một lát, rồi cười gượng nói, "Nhưng... nhưng..."

Tú Linh lấy tay áo lau nước mắt, mỉm cười buồn bã nói với Thanh Vân đạo trưởng, "Không cần hắn phải nói, để tôi xin tự giới thiệu. Tôi chính là một quả phụ đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia!"

Thanh Vân, Thanh Thạch, Thanh Tùng đều giật bắn người, đôi mắt trợn tròn, mặt đăm đăm nhìn nàng.

Tú Linh lại gượng cười nói, "Ba vị chắc lấy làm lạ, không hiểu sao người nhà Nam Cung thế gia mà lại đi cùng với Nhâm Vô Tâm phải không?"

Vô Tâm buột miệng thở dài nói, "Vị phu nhân đây tuy là người nhà Nam Cung thế gia, nhưng tâm hồn trong trắng như hai vầng nhựt nguyệt. Nàng không nỡ trông thấy những hành động của Nam Cung thế gia nên mới không nề nguy hiểm, bỏ trốn đi..."

Ba vị đạo sĩ lúc này mới hiểu ra, bèn đưa mắt nhìn nhau, cùng tỏ vẻ ngậm ngùi.

Tú Linh lại cười một cách buồn bã nói, "Ba vị đạo trưởng lúc này tất đã hiểu rõ vì sao Nhâm Vô Tâm cố ý làm nhục tôi. Chỉ vì tôi là một quả phụ của nhà Nam Cung thế gia, hai nữa lại còn hết lòng..."

Nói tới đấy nàng lại tức tưởi, không sao nói tiếp được nữa. Vô Tâm thở dài nói, "Tại hạ có dám làm điều gì sỉ nhục phu nhân đâu? Chỉ sợ phu nhân..."

Tú Linh lau ráo nước mắt, cười nhạt, "Tướng công không cần phải giải thích, một kẻ quả phụ sao không thương khóc vong phu, lại đi quan tâm đến người khác, chẳng trách người ta khinh thường cũng phải!"

Vô Tâm buồn bã nói, "Cô nương lầm quá, lầm quá!"

Chàng mỉm một nụ cười buồn bã, đôi mắt long lanh như có ngấn lệ, sẽ nói, "Có chuyện gì mà cô nương phải khổ..."

Tú Linh ngắt lời, "Tôi nhịn nhục như thế cũng đã quá nhiều rồi. Bây giờ là lúc cần phải nói cho hết."

Ba vị đạo trưởng biết rằng câu chuyện riêng giữa hai người tất còn có nhiều phức tạp, người ngoài không nên tham dự, bèn cùng đưa mắt cho nhau, rồi len lén lui ra.

Bất đồ, Tú Linh lại giơ tay ngăn lại nói to, "Ba vị đạo trưởng đừng đi vội!"

Ba đạo trưởng thấy sắc mặt nàng cực kỳ bi thảm, đau đớn, cũng không nỡ trái ý, bèn lại quay gót đi vào. Tú Linh ngập ngừng một lúc, rồi thở dài nói, "Hôm nay tiện thiếp muốn trình bày với ba vị đạo trưởng một chuyện bí mật mà từ bao nhiêu năm nay thiếp vẫn giấu kín tận đáy lòng. Để ba vị biết cho rằng, thiếp thật không phải là hạng người vô sỉ!"

Trong khi nói, hai hàng nước mắt của nàng vẫn tuôn ra như suối, nhưng nàng cũng không buồn lau, cứ để mặc nó thánh thót chảy xuống thấm cả ngực áo. Miệng vẫn tiếp tục kể, "Mười năm về trước, có một đứa con gái mồ côi, nghèo khổ, được một nhà võ lâm thế gia nuôi làm "Đồng dưỡng tức" [Đứa con dâu nuôi từ lúc còn bé]. Hồi đó đứa bé bất quá mới độ bảy, tám tuổi, mà anh chồng vị lai của nó cũng chỉ vào khoảng lên sáu, lên bảy là cùng."

Một đôi đồng tử từ bé cùng sống chung một mái nhà, lại là vợ chồng chưa cưới, đối với con mắt người ngoài thì thật là xứng đôi vừa lứa, hạnh phúc vô cùng.

Nào ngờ sự thực lại khác hẳn. Hai đứa trẻ trời sinh ra hình như đã sẵn có oan nghiệt từ kiếp trước, nên kiếp này không những chúng đã thù ghét nhau cay đắng, thậm chí chúng còn sợ nhau như rắn rết hùm beo. Bởi thế nên mỗi lần trông thấy nhau, chúng đều tìm hết cách lảng tránh.

Nhưng cả hai đứa trẻ cùng thông minh tinh quái, trước mặt người lớn, chúng không bao giờ lộ vẻ chán ghét nhau, nhưng kỳ thật sự chán ghét ấy mỗi ngày lại càng trầm trọng thêm lên, không hề giảm bớt.

Giọng nói của nàng vừa buồn vừa ai oán, y như kể chuyện một người nào khác, nhưng ai nghe cũng biết hai đứa trẻ nàng nói đây chính là thiếu chủ nhân đời thứ năm nhà Nam Cung thế gia và nàng.

Tú Linh lại kể tiếp, "Thời gian từ từ trôi qua trong những niềm uất hận và chán ghét của hai đứa trẻ. Chúng cũng từ mái tóc để trái đào, biến thành một đôi thiếu niên tuấn tú. Đôi thiếu niên này bất cứ nhìn về phương diện nào, chúng cũng vẫn là một đôi giai ngẫu thiên thành. Chủ nhân nhà võ lâm thế gia mới quyết định chờ tới khi đứa con gái được mười sáu tuổi thì sẽ chính thức làm lễ thành hôn."

Đứa con gái sống bó buộc trong khuôn khổ gia tộc đã lâu ngày, trong bụng tuy không bằng lòng, nhưng không dám phản đối, chỉ biết lẳng lặng tuân theo.

Nhưng ngoài miệng tuy không dám phản kháng, mà trong bụng nó lại càng phản kháng kịch liệt. Tới ngày thành hôn, nó lén giấu một con dao vào trong bộ áo cưới, định bụng khi nào đôi bên đứng gần nhau, thì đâm chết tân lang rồi mình sẽ tự tử sau.

Thanh Vân đạo trưởng kinh sợ kêu lên một tiếng. Vô Tâm thì đôi mắt long lanh, buột miệng nói, "Không hiểu vì cớ gì mà cô bé ấy lại thù ghét anh chồng đến bực ấy? Tất nhiên thế nào cũng phải có nguyên nhân!"

Tú Linh ai oán thở dài, cúi đầu nói, "Những sự buồn vui, yêu ghét của người ta, nhiều khi không thể giải thích được. Nhưng đứa con gái này sở dĩ oán ghét người chồng chưa cưới của nó, quả thực cũng có nguyên nhân."

Vô Tâm vội hỏi, "Nguyên nhân gì?"

Tú Linh chợt ngẩng đầu lên, dằn giọng nói, "Chỉ vì hắn có tính giảo hoạt đa nghi, bình sinh không hề tín nhiệm một ai. Đã thế lại còn độc đoán ngang ngạnh, trái ngược với tất cả mọi người. Cái gì ngọt, hắn bảo là chua, cái gì vuông, hắn cãi là tròn. Và hình như lúc nào hắn cũng sợ có người giết hắn. Mỗi buổi tối, chờ cho mọi người ngủ yên, hắn mới dám lên giường. Dù mẹ đẻ hắn cũng không bao giờ hắn tin."

Nàng ngừng lại một lát rồi lại tiếp, "Tính cách ấy rất có thể là do hoàn cảnh bồi dưỡng mà thành. Vì mấy đời ông cha hắn đều bị giết sau khi kết hôn được ít lâu, lại cũng có lẽ vì thế mà hắn rất ghét chuyện lấy vợ, rồi nhân chuyện ghét lấy vợ mà ghét luôn cả người vợ chưa cưới!"

Vô Tâm ngậm ngùi nói, "Bất cứ người nào sinh trưởng trong hoàn cảnh ấy, cũng khó lòng khỏi biến thành thần trí thất thường, hành động gàn dở?"

Tú Linh lại nói, "Bắt một người con gái lấy anh chồng tính cách gàn dở như vậy, thì dù chết họ cũng không chịu. Ngày lễ kết hôn, nghi thức tuy cực kỳ giản dị, nhưng cũng long trọng. Chỉ vì nhà võ lâm thế gia ấy danh tiếng tuy hiển hách, nhưng rất ít giao thiệp với các nhân vật trong làng võ, nên hôm cưới tuyệt không có một người khách nào. Không những không có khách, mà cả đến lễ mừng, cũng không thấy một ai đưa đến."

Vô Tâm thốt nhiên ngắt lời hỏi, "Thật không một ai đưa đồ mừng đến ư?"

Tú Linh tựa hồ cũng nhận thấy câu hỏi của chàng còn có ẩn ý, bất giác ngạc nhiên đáp, "Không có thật!"

Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, "Cô nương cứ kể nốt cho nghe."

Tú Linh nói tiếp, "Chưa dứt một hồi trống, hôn lễ đã chấm dứt. Người con gái mê man như loạn trí bị người ta đẩy vào động phòng, bên tai chỉ nghe văng vẳng như tiếng bà Tổ dặn đi dặn lại là phải sớm sinh quý tử để nối dõi tông đường. Lại nghe thấy bà cười nói, "Các con dâu nhà ta đều có tướng nghi nam, chắc thế nào cũng sinh con trai!"

Sau khi mọi người lui ra, trong tân phòng chỉ còn lại đôi vợ chồng mới. Đứa con gái giấu bàn tay trong tay áo, nắm chặt lấy chuôi dao, chỉ đợi anh chồng đến gần là hạ thủ.

Ai ngờ anh ta quả cũng thông mình, hình như đã thấu rõ tâm lý của người con gái, chợt cười nhạt hỏi, "Ngươi cầm dao làm gì thế? Có phải định giết ta chăng?"

Người con gái giật mình kinh sợ, chưa kịp nói gì thì anh ta đã chạy ra đóng cửa sổ, khoá cửa phòng lại, rồi đăm đăm nhìn cô vợ mới, sẵng giọng nói, "Ngươi cứ yên tâm, dù ngươi quỳ xuống đất lạy ta, ta cũng không thèm động chạm đến ngươi đâu! Từ nay trở đi, ban ngày thì ta với ngươi là vợ chồng, ban đêm thì mỗi người ngủ một giường, thế là tiện nhất!"

Thực ra đứa con gái cũng không thích ở chung một phòng với hắn, dù là ngủ riêng giường, bèn hỏi hắn cần phải đóng kịch như vậy chừng bao lâu.

Người con trai sắc mặt chợt lộ một thần thái kỳ dị, nói, "Những người sống trong nhà này tất phải chịu sự uỷ khuất. Ta nói thật cho ngươi biết, chính ta tới giờ phút này cũng chưa biết trong nhà có bao nhiêu sự kỳ quái. Nếu ngươi không chịu ẩn nhẫn, thì rất có thể sẽ gặp những cảnh ngộ còn thê thảm gấp mấy lần chết!"

Người con gái nghe xong sợ quá, cứ đứng đờ người ra. Một lúc lâu, hắn lại nói, "Bây giờ ta đã thành hôn, chắc chỉ một hai tháng nữa là phải đi. Ta đối với ngươi như thế không phải là vì do lòng nhân từ, mà thật ra chỉ vì không muốn lưu dòng giống lại cho họ mà thôi!"

Mãi đến lúc ấy, người con gái mới nhận ra giữa những người trong gia đình nhà này đối với nhau đều mang nặng một lòng thù oán, những mối liên hệ trong gia tộc đều chỉ ràng buộc nhau bằng một chữ "hận".

Người con trai nói xong, nằm lăn xuống đất ngủ, không thèm lý gì đến tân nương. Được hơn hai mươi ngày, quả nhiên hắn ra đi thật. Trước khi đi, hắn không hề nói với người vợ trên danh nghĩa một nửa lời, chỉ gườm gườm nhìn nàng bằng con mắt oán thù, căm giận.

Thế là từ đấy, vĩnh viễn không còn thấy hắn trở về nữa."

Nàng nói xong, đưa mắt nhìn mọi người một lượt, đoạn mỉm cười một cách buồn bã mà rằng, "Các vị chắc cũng đã biết đứa con gái ấy chính là tiện thiếp. Tiện thiếp sở dĩ đem câu chuyện bí mật nói ra hôm nay, chỉ vì muốn để các vị phán quyết xem như thế tiện thiếp có phải là hạng gái bất trinh, vô sỉ không?"

Vô Tâm buồn bã cúi gầm mặt xuống, lẳng lặng ngồi yên. Ba vị đạo trưởng sắc mặt đều lộ vẻ bùi ngùi.

Một lúc lâu, Thanh Tùng đạo nhân chợt ngẩng đầu lên, nói, "Theo ý bần đạo, chỉ một mình nữ đàn việt hộ tống Nhâm tướng công sang Tam Túc cũng đủ."

Thanh Vân đạo trưởng gật đầu nói, "Chính nên như vậy, không biết ý Nhâm tướng công nghĩ sao?"

Vô Tâm lại đưa mắt nhìn Tú Linh, cười gượng hỏi, "Nhưng không biết cô nương có còn vui lòng đưa tại hạ đi không?"

Tú Linh nghiêm sắc mặt nói, "Bao giờ tôi cũng sẵn lòng..."

Ba vị đạo trưởng đều thở ra một hơi dài như vừa trút được gánh nặng. Tú Linh lại nói, "Lần này tôi đưa tướng công đi chỉ cốt được gặp hai vị tiền bối trong Tử Cốc. Ngoài ra không còn yêu cần điều gì nữa. Nếu khuôn thiêng run rủi cho thiếp khám phá được những điều bí mật, thì từ nay trở đi tiện thiếp sẽ... sẽ..."

Nói tới đấy, thốt nhiên nàng ngừng bặt, cúi gầm đầu xuống, tay mân mê tà áo. Trong phòng lúc này đều im phăng phắc. Mỗi người đều như đeo nặng một bầu tâm sự, không ai muốn lên tiếng.

Thốt nhiên, ngoài cửa vân phòng có tiếng ồn ào, tiếp theo đó lại có tiếng chân người chạy rầm rập.

Thanh Vân đạo trưởng biến sắc mặt, sẽ quát, "Ai đó?"

Ngoài cửa có tiếng người thở hổn hển nói, "Đệ tử là Tĩnh Tâm có chút việc muốn bẩm với Chưởng môn sư tôn."

Thanh Vân đạo trưởng cau mày nói, "Việc gì mà hoảng hốt thế? Vào đây!"

Nói chưa dứt lời, đã thấy một đạo sĩ trẻ vén rèm đi vào, sắc mặt có vẻ sợ hãi, khom lưng nói, "Khải bẩm chưởng môn, ngoài cửa quan có một vị nữ đàn việt muốn gặp Nhâm tướng công..."

Hắn thở dài một hồi, rồi lại tiếp, "Vị... vị nữ đàn việt ấy mặc toàn đồ trắng... đệ tử... tử trông... trông hình như... người thiếu nữ đánh Nhâm tướng công hôm qua..."

Ba vị đạo trưởng sắc mặt đều tái mét. Thanh Thạch, Thanh Tùng đã giơ tay vào chuôi kiếm. Tú Linh quay nhìn Vô Tâm, run run hỏi, "Người ấy có phải là... là Trần Phượng Trinh không?"

Vô Tâm sắc mặt trầm trọng, chỉ sẽ gật đầu. Tâm Tĩnh cúi đầu nói, "Chúng đệ tử tuy đã sửa soạn ứng chiến, nhưng còn chờ lệnh sư phụ."

Thanh Vân đạo trưởng nhìn Vô Tâm nói, "Tướng công nên vòng ra phía sau mà xuống núi còn anh em bần đạo đành chỉ quyết liều tử chiến."

Vô Tâm thở dài nói, "Không hiểu tại sao bà ta lại còn đến đây làm gì? Thật là trái với hành động thường ngày của Nam Cung thế gia."

Chàng lại hỏi Tĩnh Tâm, "Chỉ có một người thôi ư?"

Tĩnh Tâm nói, "Tôi không kịp trông kỹ. Hình như chỉ có một người thì phải!"

Vừa nói dứt lời, ngoài cửa đã thấy tiếng chân chạy huỳnh huỵch, rồi một người đứng ngoài cửa nói to, "Người con gái đợi ngoài kia tỏ vẻ sốt ruột, cứ một hai đòi gặp Nhâm tướng công. Cô ta xưng tên là Diệp Sương Y."

Tú Linh giật mình, buột miệng hỏi, "Diệp Sương Y à? Có đúng không?"

Thanh Tùng đạo nhân nói, "Các vị dù có quen Diệp Sương Y nữa, nhưng cũng phải cẩn thận đề phòng, lỡ bị người giả mạo."

Vô Tâm ngẫm nghĩ một lúc, rồi nói, "Nếu phải là bọn kia, tất họ cứ việc xông vào, cần gì phải giả mạo?"

Tú Linh lo lắng nói, "Cho dù là Diệp Sương Y thật, nhưng Trần Phượng Trinh đã bị thuốc mê, thì nàng làm sao mà thoát thân được?"

Thanh Vân đạo trưởng tỏ vẻ sốt ruột, giục, "Tướng công định thế nào? Xin cấp tốc ra lệnh, bần đạo cũng vui lòng tuân theo."

Vô Tâm quả quyết nói, "Đạo trưởng cứ cho mời nàng vào đây."

Tú Linh vội kêu, "Nhưng..."

Vô Tâm ngắt lời, "Nếu có người theo dõi nàng để dò la tin tức, thì ta lại càng nên mời nàng vào để họ khỏi nghi ngờ."

Nói chưa dứt lời, đã nghe phía ngoài có tiếng quát tháo. Có tiếng binh khí chạm vào nhau xoang xoảng, tiếp theo đó lại có tiếng chân người huỳnh huỵch chạy vào, hoảng hốt kêu to, "Đệ tử Hàn Tâm cầu kiến."

Miệng thì xưng danh, chân đã chạy vào tới nơi, thái độ cực kỳ bối rối. Thanh Vân đạo trưởng tái mặt hỏi, "Việc gì, nói mau?"

Hàn Tâm vừa thở vừa nói, "Diệp cô nương chờ mãi nóng ruột, cứ xông bừa vào. Chúng đệ tử ngăn lại, thành thử hai bên xô xát. Chúng đệ tử không sao ngăn nổi, vừa hay lúc ấy có Từ sư thúc đến. Bây giờ hai người còn đang đánh nhau ở ngoài kia."

Thanh Vân đạo trưởng mừng rỡ nói, "Từ sư thúc đến đấy à? May quá, ngươi ra mời sư thúc vào ngay đây cho ta!"

Vô Tâm giật mình nói, "Từ sư thúc nào? Hay là "Độ Ách Kim Châm" Từ Tố Bạch chăng?"

Thanh Vân đạo trưởng gật đầu, "Chính đấy! Nghề thuốc của ông ta đã nổi tiếng giang hồ. Lần này ông ta tới đây, thương thế của Nhâm tướng công không phải phiền người khác nữa. Thật là may mắn!"

Nhâm Vô Tâm cau mày nói, "Theo ý tại hạ, người này không phải là người cùng đạo với ta. Vả lại hắn tới đây hôm nay, sao lại đúng dịp đến thế được?"

Thanh Vân đạo trưởng nói, "Nhưng hắn với bần đạo là đôi bạn lâu năm. Bần đạo biết tính hắn lắm."

Vô Tâm thở dài nói, "Đạo trưởng chỉ biết lấy chí thành đãi người, nên có ngờ đâu là nhân tâm nan trắc. Trước kia tại hạ cũng đã mời ông ta mấy lần, lần nào ông ta cũng cố tình lảng tránh."

Thốt nhiên lại nghe ngoài cửa có tiếng cười ha hả đưa vào. Vô Tâm vội nói, "Dù sao đạo trưởng cũng đừng cho ông ta biết là tại hạ bị thương nặng nhưng chưa chết."

Nói xong chàng vội vàng nằm xuống, đậy nắp áo quan lại.

Tú Linh nhanh trí, vội quỳ xuống trước áo quan thổn thức khóc.

Thanh Vân đạo nhân còn đang ngẩn ngơ, chưa biết tính sao đã nghe tiếng cười nói ở ngoài cửa, "Lần này đạo huynh phải cảm ơn tiểu đệ nhé!"

Thanh Vân đạo trưởng rảo bước chạy ra, đã thấy một vị lão nhân, thân hình cao lớn, mũ áo màu vàng, miệng cười ha hả bước vào. Nhưng khi lão trông thấy Thanh Vân đạo trưởng, chợt nín bặt, không cười nữa, sẽ hỏi, "Tiểu đệ lại ngỡ là đạo huynh không muốn động thủ với con gái, nên mới lánh mắt không ra. Có ngờ đâu là đạo huynh đã bị thương."

Thanh Vân đạo trưởng cười gượng nói, "Lâu lắm không được gặp. Từ huynh phong thái vẫn như xưa, mà bần đạo thì vừa bị một trận suýt chết!"

Từ Tố Bạch sửng sốt hỏi, "Đạo huynh nói thế là ý thế nào?"

Thanh Vân đạo trưởng mời khách vào vân phòng ngồi, thở dài nói, "Chuyện này nói ra còn dài. Không biết người con gái vừa rồi thế nào?"

Từ Tố Bạch cười nói, "Không phải tiểu đệ nói khoe, người con gái ấy võ công tuy cao nhưng chưa phải là đối thủ của tiểu đệ. Chỉ vì tiểu đệ không muốn làm cho nàng bị thương, nên chỉ đuổi xuống núi mà thôi."

Ông ta cười một hồi, rồi lại tiếp, "Nhưng theo lời đạo huynh vừa nói thì hình như Huyền Diệu Quan vừa xảy ra biến cố gì chăng?"

Thanh Vân đạo trưởng thở dài nói, "Từ huynh đoán quả không sai..."

Rồi ông kể tóm tắt câu chuyện đêm qua cho Từ Tố Bạch nghe, duy không nhắc gì đến việc Điền Tú Linh.

Từ Tố Bạch nghe xong, chợt vỗ bàn đứng phắt dậy nói, "Lại có chuyện thế cơ à? Nhà Nam Cung thế gia không ngờ lại hung tàn bạo ngược tới bực ấy! Đạo huynh thử nghĩ kỹ lại xem, biết đâu không phải là lầm!"

Thanh Vân đạo trưởng lắc đầu, "Quyết không thể lầm được!"

Thanh Tùng đạo nhân cũng nói góp, "Người con gái vừa rồi rất có thể cũng là người nhà Nam Cung thế gia?"

Từ Tố Bạch ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng rồi nói, "Không ngờ bọn ta mấy chục năm nay đối với nhà Nam Cung thế gia một niềm kính trọng. Vả lại bọn họ cũng đủ vẻ vang danh giá lắm rồi, cớ sao lại còn bày ra cái trò ấy nữa?"

Thanh Tùng đạo nhân thở dài nói, "Chỉ đáng tiếc là vị Nhâm tướng công vì trượng nghĩa phù nguy mà đến nỗi uổng tính mệnh."

Từ Tố Bạch biến sắc mặt nói, "Gần đây tiểu đệ cũng được nghe danh tiếng của vị Nhâm tướng công. Nghe nói ông ta võ công cao lắm, làm sao đến nỗi chỉ bị người ta đánh có một chưởng mà chết được?"

Thanh Vân đạo trưởng ấp úng, "Cái ấy... cái ấy... vì... vì..."

Ông không quen nói dối, thành ra không tìm được câu gì nói cho xuôi, chỉ lúng búng mấy câu, rồi tắt giọng.

Thanh Tùng đạo nhân vội đỡ lời, "Nhâm tướng công võ công tuy cao, nhưng vì cô quả bất địch chúng. Vả lại trong lúc bất ngờ, bị địch thủ đánh một chưởng vào giữa ngực nội tạng kinh mạch đều bị đứt cả. Dẫu có Đại la Kim tiên cũng không sao cứu được nữa."

Từ Tố Bạch lẳng lặng giây lâu, rồi lại hỏi, "Thật đáng tiếc, đáng tiếc... Đạo huynh đã làm lễ an táng chưa?"

Thanh Tùng đạo nhân lắc đầu, "Quan tài hãy còn tạm quàn ở trong đan phòng."

Từ Tố Bạch ngẩng đầu lên nói, "Cũng có khi những tay nội gia cao thủ bị thương ở kinh mạch, vẫn còn có hy vọng cứu sống lại được. Rất có thể các vị đạo huynh vì không thông y lý, nên không nhận ra. Để tiểu đệ xem lại cẩn thận, may ra còn cứu được chăng?"

Thanh Vân đạo trưởng mừng rỡ nói, "Nếu thế..."

Thanh Tùng đạo nhân vội đón lời, "Anh em bần đạo tuy không thông y lý, nhưng người chết hay sống, chẳng lẽ lại không biết hay sao? Vả lại bần đạo đối với Nhâm tướng công lại càng phải kiểm nghiệm cẩn thận, quyết không thể lầm được."

Từ Tố Bạch nói, "Tiểu đệ trong bụng rất hâm mộ Nhâm tướng công, thế tất phải trông thấy tận mắt, mới được yên tâm."

Miệng nói chân đã bước tới cửa đan phòng. Thanh Thạch, Thanh Tùng đều tái mặt, nhưng không biết làm cách gì ngăn cản được, đành chỉ hốt hoảng chạy theo.

Từ Tố Bạch tay đã đặt lên nắp quan tài, lăm le định mở. Bất đồ Tú Linh đang quỳ dưới đất khóc nức nở, chợt đứng phắt dậy, nói to, "Bỏ tay ra!"

Trong khi quỳ trước linh sàng khóc giả, Tú Linh chợt nghĩ tới thân thế cô khổ của mình, bất giác ruột đau như cắt, nước mắt chan hoà, không sao nén đi được, thành ra khóc giả mà thành khóc thật.

Nàng quát xong, liền giơ ngón tay cắt ngang uyển mạch của Từ Tố Bạch.

Cái cắt đó, bề ngoài tựa hồ không lấy gì làm mạnh, kỳ thực bên trong biến hoá vô cùng. Dù Từ Tố Bạch muốn động thủ mặt nào, cũng bị chỉ phong khoá chặt.

Từ Tố Bạch hoảng sợ, vội rút tay về trừng mắt nhìn Tú Linh một lúc, chợt lại cười ha hả nói, "Chú tiểu quản gia này võ công khá lắm. Trừ Nhâm tướng công ra, chắc không ai rèn nổi?"

Tú Linh chỉ lạnh lùng "hừ" một tiếng. Thanh Tùng đạo nhân đã đỡ lời, "Vị tiểu thí chủ này chính là người nhà Nhâm tướng công."

Từ Tố Bạch nói, "Đã là môn hạ Nhâm tướng công, sao lại không muốn cho tại hạ cứu sư phụ?"

Tú Linh giận dữ đáp, "Quan tài của tướng công ta, không ai được quyền xâm phạm tới!"

Từ Tố Bạch vẫn tươi cười nói, "Tại hạ vì lòng tốt muốn thăm bệnh cho Nhâm tướng công, chớ không có ý gì khác."

Nói xong lại định mở nắp quan tài. Tú Linh lập tức bước lên đứng chắn ngang trước áo quan, giơ tay phóng luôn ba chiêu, chỉ trong nháy mắt đã điểm vào ba đại huyệt "trung cực", "thái nguyên", và "huyền cơ" của Từ Tố Bạch.

Chiêu thức thần tốc, và chỉ phong lanh lẹ của nàng đã gạt được Từ Tố Bạch lùi ra tới sát góc tường.

Nàng dừng tay lại quát, "Nếu ngươi còn rờ tay vào áo quan của tướng công ta nữa, ta sẽ đánh gẫy tay ngươi lập tức. Đừng có oán!"

Lúc này Từ Tố Bạch mới biến sắc mặt, nổi giận quát, "Đồ con nít ngu dại, không biết phải trái là gì! Nhâm tướng công không dạy ngươi tôn kính trưởng lão ư?"

Tú Linh cười nhạt, "Tướng công ta chỉ dặn, hễ gặp kẻ nào ngu xuẩn vọng động thì cứ đánh chết đi. Vừa rồi ta mới cảnh cáo cho ngươi một đòn nhẹ đó thôi, nếu ngươi cứ ngang ngạnh không nghe thì chớ trách ta tàn ác!"

Từ Tố Bạch nổi giận nói, "Đồ ngoan cố! Người ta tử tế mà không biết..."

Tú Linh cũng giận dữ quát, "Ta không cho ngươi động tay vào, thì ngươi không được động tay vào. Không tin ngươi cứ thử xem!"

Từ Tố Bạch sắc mặt tái xanh, nhìn Thanh Vân đạo nhân, cười nhạt nói, "Tại hạ với đạo huynh là đôi bạn chơi với nhau đã lâu năm, nên không muốn sinh sự lôi thôi ở trong chỗ thanh tu của đạo huynh. Nhưng đạo huynh nghe thấy tên tiểu đồng này hỗn xược với tiểu đệ như vậy, mà không can thiệp là tại sao?"

Thanh Vân đạo trưởng còn đang lúng túng, không biết xử trí thế nào. Thanh Tùng đạo nhân đứng bên đã nói đỡ, "Hậu sự của Nhâm tướng công hoàn toàn là do vị tiểu thí chủ này liệu lý. Anh em bần đạo làm gì được?"

Từ Tố Bạch thấy Điền Tú Linh khuỳnh tay chống hông, gườm gườm nhìn mình, nước mắt vẫn còn đầm đìa trên đôi gò mà, liền nghĩ thầm, "Nếu Nhâm Vô Tâm chưa chết, thì sao tên tiểu đồng này lại đau xót như vậy?"

Từ Tố Bạch tâm địa thâm trầm, mắt sắc như dao. Nếu Điền Tú Linh khóc giả, thì thế nào cũng bị hắn khám phá ra ngay. Nhưng hắn có biết đâu rằng Tú Linh khóc đây là khóc cho thân thế của mình, chớ có phải là khóc Nhâm Vô Tâm đâu?

Vừa rồi hắn thấy Tú Linh mới ra tay có vài chiêu, đã biết võ công của nàng không phải tầm thường. Vì thế hắn cũng không muốn động thủ, vì nếu thắng được nàng thì chẳng danh giá gì, mà lỡ thua thì mang nhục.

Thanh Tùng đạo nhân thấy cặp mắt hắn cứ đảo lia lịa, không biết trong óc hắn đang nghĩ gì, bèn cười một cách vuốt ve, nói, "Hảo ý của Từ huynh, Nhâm tướng công ở dưới suối vàng chắc cũng thông cảm. Theo ý bần đạo, bất nhược Từ huynh hãy ra vân phòng nghỉ ngơi một lát, bần đạo bảo nó pha trà."

Từ Tố Bạch cũng muốn nhân dịp tháo lui cho đỡ ngượng, bèn cười nhạt nói, "Trà ngon của đạo huynh xin để thết đãi vị tiểu quản gia của Nhâm Vô Tâm. Tại hạ bị người ta mạt sát như vậy còn mặt nào ngồi đây uống nước nữa?"

Nói xong phất tay áo đi thẳng, không buồn quay cổ lại. Thanh Vân đạo trưởng vội chạy theo gọi, "Từ huynh... Từ huynh..."

Nhưng Từ Tố Bạch đã đi khá xa, chỉ còn trông thấy tà áo vàng phấp phới, thoáng cái đã khuất vào sau rặng cây cối xanh um.

Thanh Vân đạo trưởng đứng ngẩn người trông theo một lúc rồi mới thở dài quay vào, sắc mặt đầy vẻ hối tiếc sượng sùng.

Thanh Tùng đạo nhân nhìn Tú Linh mỉm cười nói, "May quá, nếu không nhờ có cô nương, thì mấy anh em bần đạo thật không sao ngăn cản nổi hắn!"

Thanh Vân đạo nhân tỏ vẻ không bằng lòng nói, "Nhưng nếu ông ta thực tình, thì không những bần đạo bỗng dưng vô cớ đắc tội với cố nhân, mà lại còn lỡ mất dịp tốt chữa bệnh cho Nhâm tướng công nữa."

Chợt nghe giọng nói yếu ớt của Nhâm Vô Tâm từ trong quan tài đưa ra, "Đạo trưởng hà tất phải thắc mắc. Tại hạ dám đoan quyết là Từ Tố Bạch sở dĩ đến đây hôm nay chỉ là cốt dò thăm tin tức cho Nam Cung thế gia đó thôi!"

Thanh Vân đạo trưởng hỏi, "Sao tướng công biết?"

Vô Tâm mở hé nắp áo quan ra, nhưng người vẫn nằm yên, sẽ nói, "Từ Tố Bạch với đạo trưởng là bạn thân đã lâu. Vậy mà khi biết đạo trưởng bị thương, hắn chỉ hỏi thăm qua một câu, trong khi đó hắn lại tỏ ra sốt sắng thiết tha đến vết thương của tại hạ. Như vậy có phải là vô lý không? Phàm sự gì đã không hợp tình hợp lý tất phải có gian ý ở bên trong."

Thanh Tùng đạo nhân vỗ tay nói, "Phải! Phải! Tướng công nói rất có lý!"

Vô Tâm lại nói, "Năm ngoái tại hạ muốn tìm phương thuốc giải cứu loại mê dược của nhà Nam Cung thế gia, nên phải đi khắp bốn phương nam bắc, tìm đón các vị danh y, và cũng đã hai ba lần đến thỉnh Từ Tố Bạch. Ông ta cố ý tránh không tiếp. Sau đó tại hạ để lại một phong thư dài, lời lẽ rất thành khẩn, kể rõ mọi việc có liên quan đến nhà Nam Cung thế gia, mong ông ta đọc xong bức thư sẽ tới chỗ địa điểm tại hạ đã hẹn sẵn, để cùng họp mặt."

Thanh Vân đạo trưởng buột miệng hỏi, "Thế ông ta có tới không?"

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Cố nhiên là không. Ông ta chỉ cho người mang đến cho tại hạ một mảnh giấy, trong viết giản dị mấy câu chối từ... Xem đó đủ thấy ông ta xem phong thư dài của tại hạ, đã rõ hành động của nhà Nam Cung thế gia gần đây như thế nào. Vậy mà lúc nghe đạo trưởng thuật tới việc đó, ông ta còn giả bộ kinh ngạc, than thở, rõ ràng là giả dối. Vả lại ông ta hấp tấp chạy tới, rồi lại phất tay áo mà đi. Do thế, tại hạ lại càng tin chắc chín phần mười là ông ta đã đầu thân vào nhà Nam Cung thế gia."

Thanh Vân đạo trưởng chắp tay cúi đầu, niệm một câu, "A di đà Phật!"

Thanh Tùng đạo nhân than rằng, "Nhâm tướng công không những cơ trí quá nhân, lại còn thông minh tinh tế rất mực. Bần đạo kính phục bội phần. Từ Tố Bạch về tất sẽ báo cáo là Nhâm tướng công đã chết. Nhà Nam Cung thế gia hẳn không đề phòng, tướng công có thể yên tâm tiến hành công việc được."

Buổi chiều hôm ấy, trong ánh nắng chiều hôm, một cỗ xe mui đen từ núi Chung Nam đi xuống. Phía sau có ba người đi theo. Ba người này khinh công đều rất giỏi, cỗ xe chạy tuy nhanh, nhưng họ vẫn theo kịp một cách dễ dàng.

Hai người đi đầu mặc võ phục màu đen, bịt mặt bằng khăn đen. Người đi sau mặc áo xanh chẽn tay, che mặt bằng một chiếc khăn xanh, dáng điệu mềm mại gọn gàng, nhác trông cũng đoán được là một thiếu nữ.

Thiếu nữ đầu bù tóc rối, chiếc khăn xanh trùm mặt buộc thấp xuống ngang mũi, để lộ cặp mắt trong như nước hồ thu, và đầy vẻ lo âu uất ức. Lúc này trán nàng đã lấm tấm mồ hôi. Nàng theo sát phía sau hai người áo đen, chân không hề có tiếng động.

Hai người áo đen chỉ chăm chú nhìn vào cỗ xe, cửa sổ đóng kín mít, thỉnh thoảng lại lấy tay ra hiệu cho nhau, mà vẫn không biết có người con gái theo phía sau.

Cỗ xe ngựa ra khỏi núi liền theo hướng tây mà đi. Địa thế chỗ này rất hoang vắng. Người đánh xe hình như cũng biết có người theo dõi, nên cứ luôn luôn quất roi vào lưng ngựa, giục ngựa chạy cho nhanh.

Người áo đen đi bên trái thốt nhiên quát, "Cỗ xe đi trước kia lập tức phải dừng lại, ta sẽ tha chết cho người đánh xe. Bằng không để ta đuổi kịp thì chết cả lũ!"

Người này vừa cao vừa gầy, giọng nói hung hăng dữ dội, ống tay áo bên trái như không có gì, nên buộc vào một sợi dây tơ treo ở sau lưng, phía sau đeo một thanh trường kiếm vỏ đen bóng, trông hình dáng ta có thể đoán ra gã là "Nam Hải đệ nhất kiếm" Mộ Dung Phi.

Người đánh xe giơ cao ngọn roi, vụt mạnh lên lưng ngựa, đầu cũng không buồn quay lại.

Hai gã áo đen đưa mắt nhìn nhau, rồi người cụt tay rút kiếm ra khỏi vỏ.

Người bên phải co hai vai lên, thân hình gầy gò của gã không khác gì một mũi hoả tiễn bắn vụt lên không, lộn đi một vòng, tà tà bay xuống cỗ xe ngựa.

Nhưng cũng ngay lúc ấy, con ngựa kéo xe vừa bị một roi vụt mạnh, đau quá nhảy vọt lên một bước dài, làm cho người áo đen bước hụt ra ngoài, nhưng tay hắn cũng kịp bám vào mui xe, cứ thế chạy theo xe một lúc, rồi bất thình lình hắn co chân lên nhảy phắt lên mui xe, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn.

Người đánh xe nghe trên mui xe có tiếng động, sắc mặt tái mét, quát to, "Xuống!"

Rồi quay phắt lại cầm roi vụt ngang cổ người áo đen. Tiếng roi rít lên vun vút.

Người áo đen cười nhạt, tay trái nắm lấy ngọn roi, quát, "Buông ra!"

Tiếng quát chưa dứt, ngọn roi đã bị gã giật được, người phu xe mất đà, lập tức ngã sấp xuống, đầu va vào mui xe đánh "sầm" một tiếng.

Chỉ nghe một tiếng hú dài, rồi kiếm quang bay lên loang loáng. Thì ra Mộ Dung Phi đã nhảy tới bên xe, vung kiếm lên chém mạnh vào càng xe, làm cho cỗ xe gẫy thành hai đoạn.

Con ngựa sợ hoảng hý lên một thôi dài, cất bốn vó phóng đi như bay. Cỗ xe nghiêng hẳn đi, rồi đổ nhào xuống vệ đường.

Người con gái áo xanh đi sau, ánh mắt lại càng lộ vẻ kinh hoàng, vội nấp vào một bụi cây um tùm cách đó ba trượng để chờ xem động tĩnh.

Chỉ thấy gã áo đen nhảy xuống mui xe, cười ha hả nói, "Nhâm Vô Tâm phen này dù ngươi sống hay chết, cũng không hòng thoát khỏi tay hai vị thái gia. Nếu ngươi còn sống thì ta sẽ bồi thêm cho một nhát kiếm, còn nếu ngươi đã chết, thì ta cũng băm vằm xác ngươi ra làm trăm ngàn mảnh! Ha ha!"

Người đánh xe cố gượng bò dậy, chỉ mặt gã, mắng rằng, "Nhâm Vô Tâm ở đâu? Ai là Nhâm Vô Tâm? Chúng mày điên à?"

Mộ Dung Phi cười một cách nham hiểm, vung kiếm chỉ vào yết hầu người đánh xe. Người đánh xe không sợ hãi, càng quát to hơn, "Ngươi muốn giết cứ giết! Đường đường đệ tử Chung Nam há phải sợ cái thứ côn đồ như các ngươi hay sao?"

Gã áo đen cười ha hả, "Chung Nam đệ tử hách quá ta!"

Hắn vừa nói vừa nhảy tới bên cỗ xe, hai tay cầm miếng vải mui xe, xé toạc ra làm hai mảnh.

Thiếu nữ nấp trong bụi cây chợt run bắn người lên, vội rút trong giầy ra một lưỡi chuỷ, vừa định xông tới, chợt lại thấy gã áo đen sửng sốt, lùi lại ba bước, nắm lấy vạt áo người đánh xe, quát to, "Nhâm Vô Tâm đâu?"

Hắn đã đoán quyết Nhâm Vô Tâm một là bị trọng thương, hai là chết rồi, đang nằm trong cỗ xe đó. Không ngờ lúc nhòm vào trong xe, chỉ thấy bên trong chất đầy kinh sách, mà chẳng thấy Vô Tâm đâu cả.

Người thiếu nữ đứng trong bóng tối lúc ấy mới thở ra một hơi dài, tự nghĩ, "Ta đã biết Nhâm tướng công hành sự xưa nay có bao giờ lại sơ ý đến thế? Nhưng Nhâm tướng công còn sống hay đã chết, hiện giờ chàng ở đâu?"

Nhâm Vô Tâm hành tung mù mịt, làm cho thiếu nữ càng nghĩ càng lo, không biết điều tra vào đâu được.

Kỳ thực thì lúc này Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh đã ra khỏi Chung Nam sơn từ lâu.

Nhân vì Nam Cung thế gia đã biết Nhâm Vô Tâm trúng phải một chưởng của Phượng Trinh, dù không chết tất cũng bị trọng thương, làm sao có thể đi bộ được, vậy nên họ chỉ chú ý vào cỗ xe.

Thừa lúc đêm tối, một tên đệ tử Chung Nam cõng Vô Tâm xuống chân núi, rồi đặt chàng xuống, cáo từ lui về. Thanh Thạch, Thanh Tùng đã định thân hành đi tiễn, nhưng chàng sợ đông người lộ chuyện, nên nhất định từ chối.

Giữa cánh đồng mênh mông vắng vẻ, chỉ còn lại Vô Tâm và Tú Linh cùng đứng ngẩn ngơ nhìn nhau một lúc. Tú Linh chợt thở dài lên tiếng trước, "Ta đi đâu bây giờ?"

Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát, rồi nói, "Lúc này tôi cũng chưa có chủ ý gì cả, không biết là mình nên ngày nghỉ đêm đi lẩn lút trong những con đường hẻo lánh hay là nên cứ đàng hoàng đi trên đường lớn? Hai cách ấy đều cùng có lợi và có hại ngang nhau. Cô nương có ý kiến gì không?"

Tú Linh chớp mau đôi mắt, nói, "Len lỏi trong những con đường vắng vẻ gập ghềnh, không biết công tử có đi nổi không?"

Hồi thứ ba mươi bảy

Mưa gió canh trường

Vô Tâm gượng cười nói, "Không đi nổi cũng phải đi, chớ còn làm sao được nữa?"

Tú Linh hỏi lại, "Nhưng chúng ta định đi đâu chứ?"

Vô Tâm nói, "Phía tây núi Không Động, trên bờ sông Thao."

Tú Linh thở dài nói, "Con đường này thiếp không thuộc, vả lại thân thể tướng công đang yếu, dù sao cũng không nên len lỏi trong rừng hoang núi vắng, nếu chẳng may xảy ra sự gì, thì còn biết kêu vào đâu?"

Nàng trầm ngâm một lát rồi nói tiếp, "Vậy nên theo ý thiếp, ta cứ đi đường lớn còn an toàn hơn nhiều. Vì lẽ thường đường cái đông người qua lại, dù chúng có trông thấy ta, tất cũng chưa dám hành động ngay, chúng ta vẫn có thì giờ lẩn trốn được."

Vô Tâm cười nói, "Cô nương phân tích quả là hợp lý, nhưng nếu nhà Nam Cung thế gia cũng nghĩ như cô nương, tất chúng sẽ mai phục khắp dọc đường lớn, lúc đó ta sẽ tính sao?"

Tú Linh ngẩn người ra một lát, đưa mắt nhìn khắp xung quanh rồi cau mày nói, "Ở đây toàn là con đường xuyên qua núi, trắc trở khó đi, thân thể tướng công như vậy, chỉ e khó lòng vượt qua?"

Vô Tâm cũng tỏ vẻ ngần ngừ, lẳng lặng giây lát, rồi quả quyết nói, "Dù sao thì ta cũng cứ đi, khi nào xét ra không chịu nổi, lúc ấy sẽ hay."

Nói xong xốc áo bước đi.

Tuy chàng cố làm ra vẻ khoẻ mạnh rắn rỏi nhưng hai chân vẫn lảo đảo, xiêu bên nọ vẹo bên kia, điều đó thật không giấu nổi mắt ai.

Tú Linh lẳng lặng theo sau, nhiều lúc đã toan giơ tay đỡ chàng nhưng vừa đưa tay ra, chợt lại rụt lại miệng se sẽ thở dài.

Thốt nhiên thấy Vô Tâm lạng người đi, rồi ngã ngồi xuống đất.

Tú Linh hốt hoảng kêu rú lên một tiếng, vội chạy lại đỡ, chỉ thấy chàng mắt nhắm nghiền, khoé miệng ứa máu, hơi thở cực kỳ yếu ớt.

Vì chàng đã dịch dung nên không trông rõ sắc mặt nhưng sờ lên trán thấy lạnh buốt như đá, đủ hiểu là chàng đã bị trọng thương, vừa rồi lại cố gắng đi một quãng đường dài nên bị mất sức nhiều quá, đến nỗi không sao gượng nổi.

Tú Linh ruột rối như tơ vò, bất giác ứa nước mắt lẩm bẩm nói một mình, "Ai bảo chàng quật cường? Rõ ràng không đủ sức, lại còn cố miễn cưỡng, bây giờ ta biết làm sao?"

Đêm khuya thanh vắng, đường núi tịch mích, gió lạnh từng cơn, tiết trời rét như cắt ruột.

Tú Linh bế chàng trong tay, mê man bước đi, vừa đi vừa lẩm bẩm, "Chàng đừng chết! Chàng đừng chết!"

Những giọt nước mắt trong như thủy tinh, thánh thót rơi xuống mặt chàng.

Trời đất mịt mù, mây đen u ám. Cái cảnh cô độc bơ vơ, không người nâng đỡ, làm cho nàng cảm thấy thân mình nhỏ bé và yếu đuối như một cánh hồng trước luồng gió bão không biết gục xuống lúc nào.

Nàng cúi xuống nhìn người nằm trong lòng vẫn mê man bất tỉnh, đôi mắt nhắm nghiền, hai tay lạnh buốt, hơi thở thoi thóp, coi chừng không còn hy vọng sống được nữa.

Thời gian không biết đi qua bao lâu, và đã đi được bao nhiêu đường đất, nàng chợt nảy ra một ý tưởng, nghiến răng nhìn Nhâm Vô Tâm lẩm bẩm, "Thiếp sẽ cùng chết với chàng, chàng xuống suối vàng khỏi lo tịch mịch, vì bất cứ lúc nào ở đâu thiếp cũng không dời chàng nửa bước."

Nàng ngẩng đầu lên chợt thấy trong khe núi có một ngôi từ đường nho nhỏ, lưng dựa vào sơn cốc.

Ở một nơi hoang sơn cùng cốc, lại vào giữa lúc đêm khuya mà trong gian từ đường vẫn còn có ánh đèn leo lét chiếu qua cửa sổ, thật là một cảnh tượng lạ lùng đặc biệt. Nhưng Tú Linh không còn thời giờ suy xét tới điều đó, nàng chỉ bế Vô Tâm xăm xăm bước vào.

Đây là một ngôi miếu cổ đổ nát hoang vắng, cửa sổ mạng nhện chăng đầy, thềm đá rêu xanh phủ kín, dưới ánh nến vàng khè, còn trông rõ mấy dấu chân mới, nhưng nhìn kỹ thì chỉ thấy một bàn chân trái, có lẽ dấu chân của một người tàn tật, hoặc là của giống ma rừng. Canh khuya rừng thẳm, dù người táo gan đến đâu, trông thấy dấu chân ấy cũng không khỏi rùng mình.

Tú Linh cũng không buồn tìm hiểu nhiều, nàng chỉ cắm đầu rảo bước thật nhanh vào miếu.

Chợt một cơn gió lạnh thoảng qua, ánh lửa chao đi chao lại, phập phồng chợt tắt. Tú Linh chợt cảm thấy một mùi hôi hám ẩm mốc xông thẳng vào mũi, giống hệt như không khí trong căn phòng bí mật của nhà Nam Cung thế gia.

Chính giữa miếu có một chiếc khám thờ đã mọt ruỗng, tróc hết nước sơn, góc nhà thì đầy những gạch vụn, bụi bặm nhưng chiếc hương án trước khám thờ thì lại được lau chùi sạch sẽ, nửa cây nến cắm trên bàn đã đùn ra hai bên trông như bông hoa gọt bằng sáp, ngọn nến theo chiều gió chập chờn lúc tỏ lúc mờ.

Bên ngọn nến còn nửa chiếc bánh bò và một đống xương gà ăn thừa, với một lưỡi chuỷ thủ sáng loáng, phía đầu hương án có một chiếc quan tài không nắp, bên trong vứt bừa bộn mấy cái gối chăn, hình như mọi khi vẫn có người nằm trong quan tài duy không biết người hay ma?

Giữa miếu có một đống tro tàn, mỗi lần gió to tàn tro bay lên mù mịt như mưa bụi.

Tú Linh đưa mắt nhìn quanh, chợt buồn bã lẩm bẩm nói một mình, "Chẳng lẽ chúng ta chết ở đêm nay thật sao? Ai đã thửa sẵn cỗ quan tài cho chúng ta thế này?"

Nàng nhếch miệng cười một cách chua chát, rồi đặt Vô Tâm nằm vào trong quan tài. Dưới gầm bàn có một cái ang bằng đồng, trong còn ít nước lã nhưng bụi làm vẩn đục.

Tú Linh xé một góc vạt áo nhúng vào ang nước, đắp lên trán cho Vô Tâm, miệng se sẽ nói, "Chàng còn tỉnh lại nói với thiếp được một câu nữa chăng? Chỉ một câu thôi."

Nói đến chỗ thương tâm, nước mắt nàng lại tuôn ra như suối, Nhâm Vô Tâm quả nhiên mở to đôi mắt con ngươi lờ đờ đưa đi đưa lại, trên môi cố nở một nụ cười héo hắt thều thào nói, "Nàng... nàng hãy còn ở đây ư?"

Tú Linh mừng quá nghẹn ngào không nói được nên lời, mãi một lúc sau, mới gượng cười gật đầu nói, "Vô luận công tử đi đâu, thiếp cũng theo liền bên cạnh."

Vô Tâm ngẩn người một lát, rồi thở dài nói, "Tôi đã quá coi thường chưởng lực của Phượng Trinh mà lại quá tự tin mình, không... không ngờ..."

Tú Linh run run hỏi, "Bây giờ chàng trong mình thế nào?"

Vô Tâm gắng gượng mỉm cười, "Tôi đã thấy khá nhiều, chỉ nghỉ ngơi chốc lát, lại có thể đi được."

Tú Linh đăm đăm nhìn chàng rồi lắc đầu, "Chàng nói dối."

Vô Tâm vội đưa mắt nhìn đi nơi khác, chàng cũng biết là vết thương của chàng nặng lắm, nếu không có danh y kịp thời cứu chữa thì không sao nhưng nếu chẳng may... ôi chàng nhắm mắt lại không dám nghĩ tới nữa.

Tú Linh ngửa mặt nhìn lên trần nhà, nói như người ngủ mơ, "Trời xanh hỡi! Tôi bằng lòng đổi mạng tôi cho chàng! Tôi chết không có hại cho ai, nhưng chàng... chàng còn bao nhiêu việc quan trọng cần phải làm, còn bao nhiêu người chờ đợi, chàng không thể chết được."

Vô Tâm nghe xong thốt nhiên rùng mình, bao nhiêu việc không muốn thốt ra, lúc này vì mấy câu nói của Tú Linh lại như dòng nước thuỷ trào ùn ùn kéo tới. Bất giác chàng cũng buột miệng nói theo, "Ta không thể chết, không thể chết được!"

Chàng nói chưa dứt lời, chợt thấy đầu lưỡi hơi mặn mặn rồi nhổ ra một cục máu tươi. Thế là lại ngất đi.

Tú Linh sợ quá khóc ầm lên, ánh nến vàng khè chiếu vào những giọt nước mắt của nàng long lanh như những hạt sương buổi sáng.

Thốt nhiên giữa lúc ấy từ phía xa xa có tiếng hát văng vẳng vọng lại.

Đó là một tiếng hát của một người đàn ông, giọng rất trầm hùng, hát rằng, "Khuôn thiêng chẳng thương hề, trời giáng tai ương. Xót xa thân thế hề, phiêu bạt tha hương..." Giọng ca đầy vẻ bi ai hùng tráng, đêm đông gió lạnh, đủ khiến cho người nghe cảm thấy đứt ruột.

Tú Linh ngừng khóc lắng tai nghe. Chợt thấy tiếng hát im bặt, rồi cửa miếu bật tung ra.

Tú Linh vội ngẩng đầu lên trước mắt đã thấy hiện ra một cái bóng cao lớn lù lù đứng chắn trước ngọn nến. Đó là một người đàn ông tóc dài rủ xuống tận vai, râu quai nón che kín tới nửa bộ mặt, chỉ để lộ đôi mắt lóng lánh như tỏa hào quang khiến cho người ta không dám nhìn thẳng tận mặt, đôi vai rất rộng, đứng gần chật cửa miếu.

Trông hắn uy nghi như một vị thiên thần, nhưng vị thiên thần này chỉ có một cánh tay phải, và một cẳng chân trái, còn tay trái và chân phải thì đã bị chặt cụt.

Nách bên trái hắn còn ôm một bó củi khô, bàn tay phải xách một hồ rượu lớn. Hắn quắc mắt nhìn Tú Linh rồi cũng chẳng nói chẳng rằng, nhảy lò cò vào miếu, vứt bó củi xuống, mở nút vò rượu đưa lên miệng tu ừng ực.

Tú Linh cũng chỉ nhìn hắn một lượt rồi quay đi lấy tay lau ráo vết máu trên mép của Vô Tâm.

Chợt nghe sầm một tiếng, người cụt tay đã đặt mạnh bầu rượu xuống bàn miệng lại nghêu ngao hát.

Tú Linh quay phắt lại gắt, "Ở đây có người bị thương, người không trông thấy sao?"

Người cụt tay không buồn ngoảnh lại, khoanh chân ngồi xuống đất, đưa lưng về phía Tú Linh với tay lấy que củi châm lửa đốt.

Hắn làm như không hề nghe tiếng Tú Linh nói, tay thì đốt lửa miệng vẫn gân cổ ngâm nga, "Xót xa thân thế hề, phiêu bạt tha hương..."

Tú Linh nổi giận đứng phắt dậy nắm lấy vai người cụt tay lắc lắc mấy cái dằn giọng nói, "Ông hát nho nhỏ chứ, để cho người bị thương nằm yên một chút! Tôi không muốn đuổi ông đi đâu."

Người đàn ông thốt nhiên vùng cười ha hả nói, "Hay hay! Cảm ơn, cảm ơn! Ha ha." Quả nhiên hắn thôi không hát nữa!

Tú Linh sẽ thở dài nói, "Ngoài kia gió lạnh lại nhiều sương mù, ông cứ ở đây ngủ đỡ một đêm cũng được, nhưng xin ngồi ra một bên, đừng che khuất đống lửa."

Người kia ngoan ngoãn đứng lên, ngồi sang bên cạnh, đôi mắt sáng quắc, đăm đăm ngó sững Tú Linh sắc mặt tỏ vẻ kinh dị. Hắn lại với lấy chiếc hồ đưa lên miệng tu thêm vài ngụm rượu thốt nhiên lắc đầu cười nói, "Hà hà, lạ quá, lạ quá."

Tú Linh cau mày nói, "Tôi bảo ông nói nhỏ chứ, ông quên rồi sao?"

Người cụt tay nói, "Ờ ờ..."

Nhưng hình như hắn không nhịn nổi, lại buột miệng kêu, "Lạ quá lạ quá."

Tú Linh giận lắm hỏi, "Lạ cái gì?"

Người cụt tay nói, "Những câu gì lão phu định nói đều bị người nói trước cả, như thế không đủ lạ hả?"

Tú Linh cau mày hỏi, "Ông định nói gì?"

Người cụt tay cười nói, "Ta vừa chạy ra ngoài mua rượu kiếm củi, lúc trở về thì chỗ ở giường nệm đều bị người chiếm cứ. Lão phu chưa từng đuổi người, trái lại người còn toan đuổi lão phu. Thế chẳng kỳ lạ là gì?"

Tú Linh ngẩn người ra một lát, rồi ấp úng nói, "À, thì ra đây là chỗ ở của ông đấy? Làm... làm sao bây giờ?"

Người cụt tay nói, "Ngươi đã biết đây là chỗ ở của ta, thì định tính sao?"

Tú Linh ngơ ngác giây lát rồi hỏi lại, "Làm sao bây giờ?"

Người cụt tay phì cười nói, "Ngươi là thằng ngốc hay sao mà ngớ ngẩn thế? Bây giờ người đã biết đây là nhà của lão phu, thì dù không muốn đi cũng phải nói với lão phu xin ngủ nhờ mới phải chứ? Sao lại còn cứ ngồi ỳ ra đó? Có lẽ là người tưởng rằng ta không đuổi được người chứ?"

Tú Linh thở dài nói, "Ông không đuổi được tôi đâu!"

Người cụt tay ngạc nhiên hỏi, "Tại sao lại lạ vậy?"

Tú Linh nói, "Không giấu gì ông, tôi tuy trông bề ngoài yếu ớt nhưng kỳ thực có biết võ công, nếu ông đuổi tôi thì chỉ bị thiệt."

Người cụt tay cười ha hả, "Thật ư!"

Tú Linh gật đầu, "Tôi nói dối ông làm gì? Không tin ông cứ thử xem, nhưng thôi tôi khuyên ông đừng thử là hơn, vì thật ra tôi cũng không nỡ động thủ với ông."

Người cụt tay cười sằng sặc, "Không ngờ người lại từ bi đến thế! Xem chừng giường nệm của lão phu đành phải nhường cho người thật."

Nói dứt lời lão co chân chui vào gần bàn thờ nằm.

Lúc đầu Tú Linh còn nghe tiếng lão uống rượu ừng ực nhưng sau đó một lát đã thấy lão ngáy ầm ầm như kéo gỗ, thì ra lão đã ngủ rồi.

Lúc này gió lạnh ào ào, ngoài cửa đã thấy mưa bay lất phất. Đêm đông mưa gió, càng làm cho lòng người tê tái quặn đau. Tú Linh nhìn Vô Tâm nằm mê man trong áo quan mà hai hàng nước mắt tuôn ra như suối.

Mấy hạt nước mưa bị gió đưa tạt vào miếu, làm cho đống lửa gần tàn, thốt nhiên tắt ngấm.

Tú Linh cũng chẳng buồn cho thêm củi đốt, chỉ ngồi ngây mặt nhìn ra cửa, ruột rối hơn mớ bòng bong.

Thốt nhiên trong màn mưa gió lại thấy hiện ra hai cái bóng đen vừa cao vừa gầy từ phía xa chạy tới như bay.

Chỉ nghe người bên trái nói, "Anh em mình thật là số đen, đã bị một chuyến sai khổ sở thế này, trời già lại không ưa đang tự nhiên thì trời đổ mưa. Chúng mình cứ đội mưa đi cả đêm thế này chẳng khác gì hai con ma đói."

Người bên phải nói, "Vô luận thế nào ta cũng phải tìm kiếm cho kỹ. Chỗ kia có ánh lửa, chắc có người ở, ta hãy vào đó tránh mưa một lát rồi sẽ tính sau."

Vừa nói dứt lời, hai cái bóng đã bay vụt tới trước cửa miếu.

Tú Linh giật mình kinh sợ, chưa biết nên ứng phó cách nào, hai bóng người đã sóng vai bước vào vừa đi vừa rũ những giọt nước mưa dính vào quần áo.

Hai người này cách ăn mặc cũng giống nhau, thân hình cũng cao gầy như nhau. Người bên trái còn đeo một thanh trường kiếm, một ống tay áo trong hình như không có gì buột vào thắt lưng, thì ra hắn cũng bị cụt một tay.

Tú Linh vừa thấy cách ăn mặc của họ, lập tức biến sắc, hai người mới vào đồng thời cũng vừa trông thấy nàng.

Cả hai sắc mặt cùng lạnh như tiền, nhưng con mắt thì hoăm hoắm như mắt cú. Họ nhìn nàng rồi cùng lộ vẻ sửng sốt.

Tú Linh quay mặt nhìn đi chỗ khác, nàng tuy cố làm ra vẻ trấn tĩnh, nhưng quả tim vẫn đập thình thịch vì nàng đã nhìn rõ hai gã ấy đều là nhân vật trong Thất thập nhị địa sát của Nam Cung thế gia. Người cụt tay chính là Nam Hải Mộ Dung Phi.

Thì ra Mộ Dung Phi và người áo đen đi đuổi theo cỗ xe ngựa khi thấy trong xe chỉ thấy kinh sách mà không có Vô Tâm đâu cả. Họ nổi giận vung kiếm chém tên đệ tử Chung Nam, là người đánh xe ngựa một nhát rồi bỏ đi.

Hai người phụng mệnh đi dò xét tin tức Nhâm Vô Tâm, vì không biết đích xác hành tung của chàng nên không dám về báo cáo. Như thế đủ hiểu Nam Cung phu nhân coi Nhâm Vô Tâm như một mối lo tâm phúc, dẫu biết là chàng đã chết, nhưng nếu không có người trông thấy thi thể của chàng thì mụ vẫn chưa yên tâm.

Mộ Dung Phi và gã áo đen tuy đã nổi tiếng hung thần trong võ lâm từ lâu nhưng đối với Nam Cung phu nhân vẫn sợ như cọp, quả nhiên chưa dò được tin tức đích xác không dám về báo, đành phải lần mò vào sâu trong rừng tìm kiếm lại một lượt.

Nếu Vô Tâm không bị thương quá nặng thì lúc này tất chàng đã chạy xa rồi, chúng đuổi theo không kịp dù trong bụng kinh sợ cũng đành phải về báo cáo, dù có bị trách phạt cũng cam.

Không ngờ tình cờ chàng lại chui vào nghỉ trong ngôi miếu đó, và lại không ngờ trời mưa, chúng cũng phải tìm chỗ trú chân nên mới bắt gặp.

Hai gã hung thần đưa mắt cho nhau, gã đứng bên trái cười nói, "Chúng tôi lỡ độ đường tới đây, Chủ nhân có thể cho hai anh em tôi sưởi nhờ một chút được không?"

Tú Linh không dám quay lại chỉ hờ hững đáp, "Các người cứ tuỳ tiện."

Người áo đen cười nói, "Cảm ơn!"

Rồi hắn điềm nhiên ngồi xuống chỉ trong chốc lát ngọn lửa lại cháy bùng lên. Hắn đưa mắt nhìn quanh gian miếu rồi giơ tay báo hiệu cho Mộ Dung Phi.

Mộ Dung Phi lập tức nhảy xổ tới bên cỗ quan tài, Tú Linh đứng bật dậy quắc mắt nhìn Mộ Dung Phi chỉ chờ hắn ta tay là nàng quyết liều tính mệnh tấn công trước.

Không ngờ Mộ Dung Phi chỉ mỉm cười nói, "Vị bằng hữu này ngủ ngon quá nhỉ!"

Rồi hắn lại quay tới bên đống lửa ném thêm mấy que củi vào rồi ngồi xuống sưởi.

Tú Linh nói thầm một mình, "May quá!" Nàng lấy khăn lau khô nước mắt rồi ngồi xuống, quay lại bên đống lửa, thần thái cố làm ra vẻ bình tĩnh an nhàn.

Giữa lúc đó chợt thấy Mộ Dung Phi rút thanh trường kiếm ra, Tú Linh đã giật mình, không ngờ hắn chỉ cầm kiếm rồi nhìn đống lửa miệng lẩm bẩm, "Đống lửa tốt quá, nếu không có nó thì anh em ta phải đi suốt đêm nay ở dưới trời mưa."

Gã áo đen cười khanh khách, "Phải rồi, đúng là đống lửa tốt."

Tú Linh trong bụng hồi hộp, lo lắng vô cùng, nàng tuy không sợ chết nhưng Vô Tâm còn thoi thóp thở, nàng cũng quyết không để chàng lọt vào tay kẻ địch.

Nàng đăm đăm trông ra cửa miếu, chỉ khấn trời chóng tạnh để hai tên kia cút đi cho rồi.

Chợt lại nghe Mộ Dung Phi cười khẩy một tiếng nói, "Từ xưa nay trên đời không biết bao nhiêu phương ngôn vạn ngữ, nhưng tiểu đệ phục nhất có một câu."

Gã áo đen hình như đang nhắm mắt ngủ gà, nghe đồng bạn nói mới mở choàng mắt ra hỏi, "Câu gì?"

Mộ Dung Phi cười hả hả lên giọng ngâm, "Đi mòn gót sắt tìm không thấy, nào biết rằng ngay trước mắt mình... Hà hà, Tống huynh, lửa đủ chưa?"

Tú Linh chợt thấy quả tim như muốn nhảy bật ra ngoài, vội đưa tay chặn lấy ngực. Mộ Dung Phi và người áo đen vùng đứng dậy cười ha hả.

Mộ Dung Phi đứng chắn ngay trước cửa cười một cách nham hiểm nói, "Nhâm Vô Tâm đừng có giả vờ chết, mau ra đây tiếp thiếu gia vài hiệp."

Gã áo đen chợt co một chân lên đá đổ hương án cười nói, "Bằng hữu chui vào gầm mà tưởng che được mắt anh em ta ư? Biết điều thì ra đi."

Người cụt tay trở mình ngồi lên, hình như đang ngủ say vừa chợt tỉnh giấc, lấy tay dụi mắt cười một cách gượng gạo nói, "Hôm nay thật là xui xẻo, nãy đã bị người chiếm mất giường, bây giờ lại bị người đá đổ cả bàn."

Gã áo đen sửng sốt ngây mặt ra nhìn một lúc rồi cười nhạt nói, "Nếu người không có liên can gì tới mấy người kia thì đừng có lắm chuyện."

Người cụt tay nói, "Tiểu nhân chỉ là một kẻ tàn tật, đâu dám lắm chuyện."

Nói xong bò ra góc tường phía xa ngồi co rúm lại một đống.

Gã áo đen lại quay mặt nhìn ra phía ngoài cười gằn, "Nhâm Vô Tâm mày vờ chết làm gì vô ích! Mau ra đây mà chịu chết cho rồi."

Tú Linh vẫn ngồi giữ quan tài, tay đã ngầm tụ chân lực, nhưng thấy hai người kia tuy ăn nói hung hăng cuồng ngạo kỳ thực thì vẫn rụt rè không dám vọng động liền nghĩ thầm, "Hai tên này lúc mới đầu có ý làm oai làm phách, không ra tay ngay, chẳng qua chúng chỉ sợ Nhâm Vô Tâm chưa mất hết công lực nên mượn cớ đốt lửa để điều hành công lực chờ cho sức khoẻ khôi phục mới dám phát tác. Vậy mà lúc này hình như chúng vẫn chưa dám tự tin."

Nghĩ tới đây nàng bèn làm mặt cứng cười nhạt nói, "Các người làm gì mà ồn lên thế? Có muốn ta đánh thức Nhâm tướng công dậy không?"

Nàng biết nếu lúc này nàng sợ hãi chối là không có Nhâm Vô Tâm ở đây thì bọn Mộ Dung Phi đâu phải hạng tầm thường, chúng sẽ đoán biết là Nhâm Vô Tâm sắp chết, tất lập tức ra tay không cần đắn đo gì nữa.

Nghe nàng nói xong, hai tên kia bất giác rùng mình cùng lùi lại phía sau một bước sắc mặt hơi tái.

Tú Linh thấy thế trong bụng mừng thầm, nhưng ngoài mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, quay mặt nhìn đi chỗ khác, không lý gì đến họ nữa.

Hai gã áo đen đưa mắt nhìn nhau, không ai dám ra tay trước, nhưng cũng không tiện bỏ chạy.

Tú Linh ngoài mặt tuy vẫn giữ vẻ lạnh lùng kỳ thực thì ruột gan nóng như lửa đốt. Nàng thấy hai tên nọ cứ đứng ỳ mãi ra, không tiến mà cũng không lui, chỉ sợ chờ lâu lúc nữa, chúng sẽ phát giác ra là nàng nói dối, bèn lên giọng kẻ cả, lạnh lùng nói, "Ta khuyên các người đừng nên chờ Nhâm tướng công tỉnh dậy làm gì, hãy mau mau cút đi là hơn."

Người áo đen ngồi trong xó miếu, đôi mắt long lanh có vẻ cười cợt, lẳng lặng chờ xem diễn biến, lúc này chợt cau mày trong miệng tựa hồ như đang lẩm bẩm, "Hỏng hỏng hỏng to..."

Chợt thấy Mộ Dung Phi ngửa mặt lên trần nhà cười sằng sặc, tiếng cười đó tuy ở trong ý liệu của người cụt tay nhưng lại ở ngoài ý liệu của Tú Linh.

Mộ Dung Phi cười chán rồi lại nói, "Tống huynh này, trên đời kể có hàng ngàn vạn chuyện cổ tích, nhưng trong đó tiểu đệ chỉ có phục mỗi một chuyện."

Trên môi gã họ Tống cũng thoáng hiện một nụ cười hiểm độc hỏi, "Chuyện gì?"

Mộ Dung Phi lại cười ha hả nói, "Chuyện thời Tam quốc, Thục, Nguỵ tương tranh, Gia Cát chết rồi còn loè được Tư Mã sống, chỉ đáng tiếc..."

Hắn đưa cặp mắt sáng như dao nhìn Tú Linh rồi nói tiếp, "Chỉ đáng tiếc là vừa rồi người nói hơi vội vã, nếu người quả thật là người thông minh, cố nhịn đi lát nữa, thì chúng ta có lẽ cũng bị bóng vía của Nhân Vô Tâm đuổi ra khỏi đây rồi thật."

Gã áo đen cũng cười nhạt nói, "Đời nào thầy trò Nhâm Vô Tâm mà lại có lòng tốt khuyên chúng ta chạy đi? Thật là trò cười!"

Tú Linh lúc này mới giật mình tỉnh ngộ, trong bụng vừa hối vừa tuyệt vọng. Nhưng tình trạng đó chỉ xảy ra trong khoảnh khắc, lại tan biến đi ngay, nàng chợt nghĩ mình đã đặt sự sống chết ra ngoài vòng còn sự gì có thể làm cho mình sợ được nữa.

Giữa lúc ấy Mộ Dung Phi đã rút kiếm ra, gã áo đen cũng vung tay bước sấn tới nói to, "Mộ Dung huynh hãy đứng đây lược trận, tên này không đáng để anh em ta cùng ra tay một lúc."

Vừa nói vừa giơ tay lên, tay trái chặn ngang tay phải đánh thẳng nhằm ngực và bụng Tú Linh phóng tới.

Mộ Dung Phi thốt nhiên dừng chân lại, xoay mình đứng chắn cửa miếu, cười nhạt nghĩ thầm, "Tên này mọi khi đối với mình vẫn anh anh em em ra vẻ thân thiết lắm, vậy mà lúc có ăn thì lại nhảy ra tranh công! Hừ, được để coi thử ngón nghề Phù vân thập thất nhị chưởng của người có đủ đối phó với đệ tử Nhâm Vô Tâm không cho biết!" Hắn nghĩ vậy liền thõng mũi kiếm xuống khoanh tay đứng xem.

Lúc này gã áo đen đã nhanh như điện phóng luôn ra bảy chiêu, thế như gió bão liên miên bất tuyệt.

Mộ Dung Phi bất giác cũng giật mình, không ngờ hắn đã luyện được chưởng lực âm nhu tới hoả hầu đó. Phải biết chưởng thế của người áo đen trông thì rất nhẹ nhàng tưởng như không có sức, thực ra thì bá đạo vô cùng. Đối phương chỉ chạm vào một ngón tay của gã cũng đừng hòng sống sót.

Trong khi đó gã áo đen lại đánh ra thêm bảy chưởng nữa, chưởng ảnh phơi phới, quả giống như mây bay gió thoảng bao vây lấy Tú Linh, vậy mà Tú Linh vẫn chưa trả đòn.

Vừa hết mười bốn chưởng, thân hình của nàng đã có vẻ lờ đờ chậm chạp, lẩn tránh cũng khó khăn đôi mắt lại càng hoảng hốt lo sợ.

Gã áo đen càng ra sức tấn công tới tấp lông mày Mộ Dung Phi lại càng nhíu lại.

Người cụt tay ngồi trong bóng tối trông ra bất giác cũng thở dài một tiếng, ông đối với Tú Linh hình như cũng hơi có cảm tình, nhưng ánh mắt lại lộ vẻ dửng dưng hoàn toàn đóng vai khách bàng quang.

Chợt nghe tiếng gã áo đen cười ha hả, "Môn hạ của Nhâm vô Tâm tài nghệ chẳng qua chỉ có vậy! Người dám tiếp ta bảy chưởng nữa không?"

Nói chưa dứt lời, Tú Linh đã cười nhạt, lập tức phóng ra một chưởng.

Thì ra lúc trước nàng cố tình làm bộ kinh hoàng thất thố, mục đích chỉ là để dẫn dụ địch. Nhân vì trong bụng nàng đã không quan tâm gì tới sự sống chết, nên đầu óc rất thảnh thơi bình tĩnh. Trong khi hai bên đấu sức mà giữ được bình tĩnh ung dung đối phó, là đã thắng được đối phương một bực, người áo đen kinh nghiệm chiến đấu tuy dồi dào hơn nàng rất nhiều nhưng vì quá kiêu ngạo khinh địch nên mới bị trúng kế.

Chưởng thế của nàng nguyên đã súc thế từ lâu, nên lúc nàng đánh ra uy lực cực kỳ dũng mãnh.

Gã áo đen cười chưa dứt tiếng, chưởng phong đã ào ào phóng tới, hắn hốt hoảng xoay mình định tránh nhưng đã quá chậm, chỉ thấy một bên sườn tê cứng, tay trái đã không nhấc lên được nữa.

Mộ Dung Phi cũng giật mình, không biết hắn giật mình vì sợ hay vì mừng? Hắn nguyên vẫn định chờ người áo đen bị đối phương đánh bại, mình sẽ xông vào tiếp chiến, nhưng lúc nãy hắn thấy chiêu thức của Điền Tú Linh hung mãnh độc liệt như vậy, bất giác lại đâm lo.

Người cụt tay ngồi trong xó nhà thần sắc đột nhiên biến đổi một cách kỳ dị, lão vùng đứng phắt dậy, đôi mắt long lanh đăm đăm nhìn theo thân pháp của Tú Linh.

Tú Linh đã thắng một chiêu, không còn đắn đo gì nữa, liên tiếp phóng ra bốn chiêu nữa.

Chiêu thức của nàng càng lúc càng quỷ quyệt biến ảo khôn lường, chiêu nào cũng làm cho đối phương phải kinh ngạc, vì chưa từng được trông thấy bao giờ, hắn lúng túng không biết chống đỡ cách nào, càng nguy hơn nữa là tay trái của hắn dã bị thương, thành ra cả một nửa người bên trái bị bỏ trống.

Môn võ công mà Tú Linh dùng đây chính là chưởng pháp độc môn bí truyền của nhà Nam Cung thế gia, trừ dâu con nhà đó, trong giang hồ tuyệt không ai biết được nữa.

Và người nhà Nam Cung thế gia cũng ít khi động thủ với các nhân vật võ lâm, vì thế Mộ Dung Phi và gã họ Tống cũng không nhận ra được.

Mới hết bốn chiêu, người áo đen dã luôn luôn bị dụ vào cái thế cực kỳ nguy hiểm. Hắn sợ quá, toát cả mồ hôi liếc mắt nhìn Mộ Dung Phi, thấy hắn vẫn cầm ngang cây kiếm đứng yên, không có vẻ gì là muốn nhảy vào trợ trận.

Lại qua ba chiêu nữa, mồ hôi hắn đã đọng thành từng giọt, chảy xuống tới cằm, hắn không sao gắng gượng được nữa, bất giác buột miệng kêu lớn, "Mộ Dung huynh mau đến giúp tiểu đệ một tay!"

Mộ Dung Phi lúc này cũng đang ngẩn người ra vì những chiêu thức quỷ bí lăng lệ của Tú Linh. Hắn nghe gã áo đen gọi vội vung thanh kiếm lên xông vào đánh giúp.

Tú Linh cũng tự biết mình tuy chiếm được ưu thế chẳng qua chỉ là nhờ vào sự may mắn đánh lừa đối phương được chốc lát, nhưng nếu hai người cùng tiếp tay giáp công nhất định họ sẽ thắng thế.

Còn đang suy nghĩ, tranh trường kiếm cua Mộ Dung Phi đã như một đạo cầu vồng, rít lên thành tiếng, chém chéo xuống một nhát.

Gã áo đen thở ra một hơi dài, lùi lại ba bước, đoạn thò tay vào mình, lấy ra một cây roi mềm đen nhánh dài chừng bốn thước, vung mạnh một cái, cho thẳng ra như cây bút, điểm vào hai huyệt đạo bên sườn của Tú Linh.

Chỉ thấy tiếng roi vun vút, kèm theo kiếm khí loang loáng, kiếm chiêu của Mộ Dung Phi đã từng nổi tiếng giang hồ, lúc này hắn lại đã súc thế đợi phóng ra cố nhiên là chiêu thức cực kỳ lăng lệ gấp bội lúc thường.

Gã áo đen lúc đầu vì sơ ý khinh thường không dùng vũ khí đến nỗi suýt bị lâm nguy, lúc này trong tay đã có cây roi, nên tinh thần trở nên phấn chấn, luôn luôn thi triển chiêu thức hiểm độc đánh vào sau lưng Tú Linh.

Tú Linh tay không lại phải đấu với hai cường địch nên chỉ qua vài chiêu đã vào thế hạ phong. Nhờ được tâm hồn sáng rõ, không coi cái chết vào đâu, nên mỗi khi gặp hiểm chiêu vẫn liều mạng xông vào, quyết cùng đối phương cùng chết, bắt buộc đối phương phải quay về tự cứu, thủ thế nên còn có thể kéo dài thời gian ra được.

Nhưng lối đánh đó thực vất vả vô cùng, dầu người võ công cao tới đâu cũng không thể cầm cự được mãi.

Mộ Dung Phi cũng đã nhận thấy nhược điểm của nàng bèn xoay tròn thanh kiếm cười ha hả nói, "Cứ đánh mãi thế này, hắn cũng đủ mệt đứt hơi mà chết, chúng ta việc gì cần phải đánh vội?"

Tú Linh nghiến hai hàm răng ngọc, quay mình đi một vòng dùng chiêu "Tinh di hoán đẩu" phóng ra một chưởng.

Chiêu này cũng là một chiêu chí tử, nhưng chính giữa lúc nàng quay mặt đi luồng nhãn quang chợt chạm vào Nhâm Vô Tâm đang nằm trong quan tài, bất giác rùng mình nghĩ thầm, "Nếu ta chết thì chàng sẽ ra sao?... Có khi tới thi thể của chàng chúng cũng không để cho nguyên vẹn?"

Vừa nghĩ tới đấy, trái tim của nàng như thắt lại, chợt quát to một tiếng, "Dừng lại!"

Thân hình nàng đã lùi nhanh về phía sau ba bước.

Lão cụt tay đăm đăm nhìn thân pháp của nàng đầy vẻ mâu thuẫn và thống khổ, hình như trong bụng đang có sự gì rất khó giải quyết tới khi nghe tiếng nàng quát to, lão lại càng thêm kinh ngạc.

Mộ Dung Phi và người áo đen cùng cười nhạt dừng tay lại chia ra đứng hai bên Tú Linh không cho nàng chạy trốn. Mộ Dung Phi lại cười khẩy nói, "Nếu mi muốn đầu hàng thì cũng dáng gọi là thông minh."

Tú Linh trừng mắt nói, "Lúc này nếu ta muốn chạy thì các người cũng không đuổi được ta đâu."

Mộ Dung Phi đưa mắt nhìn quanh, thấy các cửa sổ bốn bên đều đổ nát với thân pháp nhẹ nhàng như cánh bướm của nàng, nếu quả nàng vượt qua cửa sổ mà chạy thì chúng thật khó lòng đuổi kịp. Hắn cúi đầu ngẫm nghĩ một lát, rồi chợt cười ha hả nói, "Có lẽ... nhưng dù sao thì Nhâm Vô Tâm cũng không chạy thoát."

Tú Linh nói, "Quả vậy, lúc này hắn không còn đi được nữa, nếu các người tha cho hắn, thì ta sẽ không trốn, thì dù các người muốn làm gì ta cũng vui lòng."

Mộ Dung Phi ngửa cổ lên trời cười sằng sặc nói, "Tức cười ơi là tức cười! Mi là cái thá gì mà dám đòi thế mạng cho Nhâm Vô Tâm? Ta nói thực cho mà biết, đến mười mạng mi đánh đổi lấy một ngón tay của hắn cũng chưa đủ, đừng có mơ hồ."

Tú Linh cau mặt nói, "Người có biết ta là ai không?"

Nàng nói câu ấy bằng một giọng cực kỳ khó khăn vì nàng thực không muốn cho chúng biết lai lịch của mình nhưng trừ cách ấy ra thì thực tuyệt vô hy vọng.

Mộ Dung Phi sửng sốt một lát, chợt lại cười khanh khách, "Ngươi là ai, hoặc giả cũng là một nhân vật ba đầu sáu tay oai danh hiển hách trong võ lâm chăng?"

Tú Linh đứng thẳng người nghiêm trọng nói, "Ta chính là..."

Nàng vừa nói tới đây bên tai chợt nghe thoáng có một giọng nói là lạ, như rót vào tai, chính là môn nội gia tuyệt học "Truyền âm nhập mật" nói rằng, "Hai người kia dù có bắt được người chúng cũng không chịu tha Nhâm Vô Tâm đâu!"

Tú Linh ngạc nhiên đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy bốn bề gió thổi ù ù, ngọn đèn nghiêng ngả, trong miếu tuyệt không có gì lạ, trừ vị quái khách từ nãy tới giờ vẫn ngồi co ro trong xó tường.

Nàng sửng sốt nghĩ thầm, "Chẳng lẽ người cụt tay kia là một tay nội gia cao thủ, ẩn tích phong trần chăng? Tiếng nói vừa rồi không biết có phải của ông ta không?" Nàng còn đang suy nghĩ, chợt lại nghe cái tiếng nói vừa rồi văng vẳng đưa vào tai, "Lão phu trước đã từng thề không bao giờ động thủ với ai nên không thể giúp người được, nhưng trời hay giúp những người biết tự giúp sao người không cứ đánh nữa đi, biết đâu không thắng? Mà dù có chết thì cũng chết một cách oanh liệt khỏi phải ân hận gì nữa."

Tú Linh nghe xong chợt lại thấy bầu nhiệt huyết bốc lên ngùn ngụt buột miệng hét lớn, "Kính tuân lời tiền bối chỉ dẫn!"

Mộ Dung Phi và người áo đen đang lắng tai chờ nghe nàng xưng danh chợt nghe nàng nói thế, bất giác kinh ngạc sửng sốt, đứng ngẩn người ra một lát rồi Mộ Dung Phi hỏi, "Ngươi là ai, sao không nói ra được? Ngươi nói chuyện với ai thế?"

Tú Linh quát, "Ngươi!"

Tiếng quát kèm theo một chưởng nhằm giữa ngực Mộ Dung Phi nhắm tới.

Mộ Dung Phi vung thanh kiếm lên chặn chưởng thế của nàng lại giận dữ quát, "Giỏi! Thì ra vừa rồi người chỉ tìm cách hoãn binh? Bọn thái gia có cho người thở một lúc cũng không sao mà."

Trong khi nói xong câu đó, hắn đã đánh luôn được bảy chưởng. Chưởng thế của Tú Linh cũng chỉ nhằm vào chỗ sơ hở của mũi kiếm mà tấn công, chân vẫn đứng vững không lui một bước. Chợt gã áo đen cười nhạt một tiếng, ngọn roi của gã đã vun vút điểm vào huyệt khúc trì bên sườn của Tú Linh.

Roi và kiếm hai mặt giáp công chỉ trong khoảnh khắc Tú Linh đã bị lạc xuống hạ phong. Nàng thở dài thầm nghĩ, "Dù thế nào thì hôm nay ta cũng được chết cùng với Nhâm tướng công."

Hai tay nàng chia ra, vừa toan thi triển chiêu "Bác hổ cầm phượng" tay phải điểm thẳng vào cổ tay cầm kiếm của Mộ Dung Phi, tay trái vòng lại bắt ngọn roi của gã họ Tống.

Không ngờ chỉ trong nháy mắt, chiêu thức của nàng chưa kịp thi ra, chợt lại nghe bên tai có người nói, "Không nên dùng chiêu đó."

Tú Linh sửng sốt vội thu chiêu về, người kia lại nói, "Liên đài bái phật, Tà tẩu thất tinh, Thực đảo hoàng long."

Chiêu "Liên đài bái phật" chỉ là thế thủ, chiêu "Tà tẩu thất tinh" là một ngón thua chạy nhưng đến chiêu thứ ba "Thực đảo hoàng long" lại là một thế công rất mãnh liệt, tính chất của ba chiêu hoàn toàn khác nhau, khó lòng thi triển liên hoàn một cách mạch lạc được. Vả lại chiêu "Liên đài bái phật" xưa nay vẫn chỉ dùng để đối phó với một người, lúc này dưới cái tình trạng roi kiếm giáp công nếu sử dụng chiêu đó thực là nguy hiểm vô cùng.

Đổi thử địa vị người khác, trong lúc sự sinh tử tồn vong như ngàn cân treo sợ tóc như lúc này ai dám thi triển ba chiêu chỉ nắm chắc phần bại hơn là phần thắng đó.

Nhưng Điền Tú Linh đã không coi sự sống chết thua được vào đâu, nên cũng chẳng cần đắn đo, lập tức thu chưởng về, thì chân co lại, tay chắp trước ngực,chiêu này chính là chiêu "Liên đài bái phật."

Chỉ thấy hai mắt hoa lên, bên tai gió thổi ù ù, một roi một kiếm thế công cực kỳ lăng lệ vậy mà không chạm được vào một mảnh áo của nàng.

Nhưng lúc này cái thế "Liên đài bái phật" vẫn chỉ là giữ chứ không phải là đánh, đường rút đã bị đối phương vây kín, thì làm sao còn lo thi triển được chiêu "Tà tẩu thất tinh"? Tú Linh trong bụng cũng hơi lo thầm.

Chợt nghe Mộ Dung Phi cười nhạt nói, "Ngươi định chết hả?"

Thanh trường kiếm kèm theo kiếm phong vù vù đánh tới kiếm phong tuy lặng lẽ, nhưng lưỡi kiếm đánh thẳng thành ra phía dưới bên trái hơi để lộ ra một đường trống.

Tú Linh mừng rỡ chân hơi nhích đi, từ trong luồng kiếm phong của đối phương chuồn ra, đó chính là chiêu "tà tẩu thất tinh" chiêu "độc xà tầm huyệt" của Mộ Dung Phi vừa thi triển nàng đã bước vòng ra phía lưng hắn.

Chiêu "độc xà tầm huyệt" mui kiếm chỉ hướng đánh về phía trước, còn phía sau hoàn toàn bỏ trống. Hắn yên trí lừa đối phương tiền lệ đã bị phong, hậu lộ lại bị chặn, tất nhiên không còn lối thoát nữa.

Không ngờ Tú Linh lại lợi dụng ngay, cái giây phút ngắn ngủi đó, thi triển luôn chiêu "tà tẩu thất tinh" là một chiêu đã tưởng không thể nào thi triển được thành thử đang do dự từ chỗ chết thành chỗ sống, đang từ khách vị chuyển sang chủ vị.

Hắn còn đang sửng sốt bàng hoàng thì chiêu thứ ba "thực đảo Hoàng Long" của Tú Linh phóng ra, khiến hắn không còn lối nào thoát ra được.

Chỉ nghe đánh "bịch" một tiếng, hậu tâm của hắn đã bị Tú Linh đánh trúng hai chưởng, miệng phun máu tươi, ngã gục xuống đất.

Tú Linh đã thắng một chiêu, quả tim lại đập thình thịch, chính nàng cũng không ngờ mình lại thành công một cách dễ dàng như thế.

Gã áo đen sợ quá đứng ngẩn mặt ra rồi thốt nhiên thét ra một tiếng cầm roi xông vào.

Trong lúc sợ hãi chiêu thức của hắn cũng thực sự liều lĩnh, Tú Linh đã vững lòng tin tưởng, lại định thi triển chiêu "tam hoàn sáo nguyệt", chiêu này gồm ba thức, thức nọ tiếp thức kia đều là thế công cả.

Không ngờ giữa lúc đó, tai nàng lại văng vẳng nổi lên cái tiếng bí mật vừa rồi, "Không dùng chiêu "tam hoàn sáo nguyệt". Trước hết hãy nhường hắn ba chiêu, rồi sẽ liệu."

Tú Linh lập tức theo lời thu chưởng về, tránh qua ba chiêu, trong bụng chợt bàng hoàng kinh sợ, cái tiếng thần bí kia không những đã đoán rõ được chiêu thức của đối phương, khiến cho mình chiếm được ưu thế, mà lại còn hiểu được cả chiêu thức mình định sử dụng nữa. Nhưng những chiêu thức mình dùng đều là môn bí truyền của Nam Cung thế gia, giang hồ không một ai hay, làm sao người này lại biết?

Nàng vừa tránh hết ba chiêu, lại nghe thấy tiếng nói, "Tà tẩu thiên phong, Phượng hoàng triển xí, Song phong quán nhĩ!"

Hai chiêu trước còn khá, nhưng chiêu thứ ba "Song phong quán nhĩ" là một đòn phải đánh xáp lá cà, mà người áo đen cầm cây roi dài thế kia, làm sao có thể tới gần hắn được?

Tú Linh tuy trong bụng lấy làm kinh dị, nhưng chân vẫn cứ tiến về phía bên cạnh người áo đen.

Gã áo đen quát to một tiếng, quay đầu ngọn roi, dùng điệu "phong quyện lạc điệp" đánh mạnh vào vai trái Tú Linh.

Tú Linh chưa đứng vững, hai tay đã dùng thế "Phượng hoàng triển xí" tay trái vừa vặn chạm phải đầu ngọn roi của gã áo đen, nàng thừa thế nắm chặt ngay lấy đầu roi.

Gã áo đen hoảng hốt vội xoay mình lại, thành ra mặt gã đối thẳng với mặt nàng. Tú Linh không hề do dự, tay trái tuy vẫn nắm chắc ngọn roi, nhưng hai tay đã chia ra hai bên, mỗi tay vạch thành một đường vành cung, rồi hợp lại mà đánh ra, vừa hay thi triển đúng chiêu "Song phong quán nhĩ".

Gã áo đen chưa kịp thốt lên tiếng kêu kinh hoàng, bên tai chỉ nghe thấy tiếng sắc nhọn như cứa vào tre nứa, rồi cả cái sọ đã bị Tú Linh bóp nát như tương, máu tuôn xối xả, thân hình đã rơi xuống bên cạnh Mộ Dung Phi.

Tú Linh chỉ đứng ngẩn người ra, không biết nên mừng hay nên sợ, nàng chỉ cảm thấy cuộc đánh nhau vừa rồi, khác nào như một giấc mơ chỉ trong phút chốc mình đã chuyển bại thành thắng, đánh chết luôn hai cao thủ võ lâm. Thật là một điều quả ư vô lý, nói ra chắc không ai dám tin.

Nàng ngẩng nhìn lên, thấy người cụt tay từ trong đi ra, hai con mắt sáng quắc cũng đang đăm đắm nhìn nàng, nhỡn quang hàm chứa một sắc thái kỳ dị, không biết là vui hay buồn, thông cảm hay thống khổ?

Tú Linh nhìn thấy thái độ của ông là phức tạp như vậy, bất giác cúi đầu xuống, trong bụng hơi sờ sợ, ngần ngừ một lát rồi nói, "Vừa rồi vừa được tiền bối chỉ dẫn... tại hạ..."

Người cụt tay vẫn đăm đăm nhìn nàng, mỉm cười nói, "Đúng vậy!"

Tú Linh nghiêng mình kính cẩn nói, "Cảm ơn cứu mạng, tại hạ không biết phải tạ lại thế nào cho xứng đáng."

Người cụt tay chợt cười ha hả nói, "Ta làm gì? Miễn người không đuổi lão phu ra khỏi đây là được rồi!"

Tú Linh đỏ mặt mỉm cười nói, "Tại hạ có mắt mà không trông thấy Thái Sơn, tiền bối..."

Người cụt tay chợt nín cười xua tay nói, "Ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?"

Tú Linh thấy ông ta hỏi một cách đột ngột như vậy cũng hơi sửng sốt, nàng đứng ngây ra một lúc rồi ấp úng nói, "Tại hạ...tại hạ..."

Người cụt tay lại ngắt lời

- Có lẽ người tuổi dần phải không?"

Tú Linh không muốn cho ai biết rõ tên tuổi, bèn gật bừa. Nhưng người cụt tay hình như lại thiết tha với việc ấy, thấy nàng nhận, sắc mặt hình như bị kích động mạnh, lẩm bẩm nói một mình, "Đúng thật, quả nhiên đúng thật."

Tú Linh mỗi lúc lại thêm kinh ngạc, chỉ đứng đờ mặt, không biết nói gì nữa.

Người cụt tay lại ngẩng lên nhìn nàng một cách buồn bã nói, "Ngươi tốt lắm, tốt lắm! Chỉ phải cái võ công hơi yếu, còn phải tập luyện nhiều mới được."

Tú Linh gượng cười đáp, "Đa tạ tiền bối chỉ điểm... Tiền bối có thể cho tại hạ biết đại danh được không?"

Người cụt tay đưa mắt nhìn đi phương khác, hình như không nghe thấy câu nàng nói, một lúc lâu chợt hỏi?

- Lệnh đường đại nhân gần đây có mạnh khoẻ không?"

Tú Linh giật mình, mở to con mắt ấp úng, "Còn... còn mạnh... Tiền bối... là... là..."

Người cụt tay cười ha hả, "Lão phu chỉ thuận miệng hỏi chơi, chớ có quen biết gì bà ta đâu!"

Rồi lại ngửa mặt lên trời cười một tiếng dài, có lẽ ông ta cố mượn tiếng cười để che giấu những xúc động trong tâm tình. Tú Linh cũng đăm đăm nhìn vào mặt ông ta, quên mất cả những câu muốn hỏi.

Người cụt tay cười xong, lại bước tới bên áo quan hỏi, "Nhâm Vô Tâm với ngươi là thế nào?"

Tú Linh ngần ngừ một lát, rồi gượng cười nói, "Đó là công tử của tiểu nhân..."

Hồi thứ ba mươi tám

Xả thân cứu kỳ hiệp

Người cụt tay thốt nhiên quay đầu lại, giận dữ quát to, "Nói láo! Con cháu nhà Nam Cung thế gia sao lại phải đi làm nô bộc cho người ta?"

Tú Linh chợt thấy lạnh toát cả xương sống, thân hình hơi run run nói, "Sao... sao tiền bối biết?"

Người cụt tay ngẩn mặt ra một lát rồi đáp một cách hững hờ, "Lão phu biết chứ..."

Lão chợt ngửa cổ lên trời cười một hồi dài rồi nói, "Trên đời này có việc gì mà che được mắt lão phu?"

Tú Linh thở dài nói, "Nhâm Vô Tâm với vãn bối tình đồng thủ túc, sống chết có nhau..."

Người cụt tay cúi xuống chăm chú nhìn mặt Vô Tâm một lúc rồi lạnh lùng hỏi, "Có thật là sống chết có nhau không?"

Tú Linh gật đầu, "Quả đúng như thế. Tính mạng vãn bối vừa rồi tuy nhờ được tiền bối cứu cho thoát chết, nhưng... nhưng nếu Vô Tâm vì bị thương nặng mà chết, vãn bối cũng chỉ đành theo xuống tuyền đài..."

Nàng nói đến đấy chợt ứa nước mắt, nghẹn ngào không nói tiếp được nữa. Người cụt tay ngẩn mặt ra nhìn Vô Tâm một lúc rồi thốt nhiên lấy tay vạch con ngươi chàng ra xem, lại nắm tay chàng bắt mạch, đoạn ngẩng đầu trông trời lẳng lặng không nói gì cả.

Tú Linh chợt động lòng, buột miệng hỏi, "Tiền bối vũ công tuyệt thế, y đạo cũng hẳn là hơn người?"

Người cụt tay lại đáp một cách hờ hững, "Có thế thật!"

Tú Linh mừng quá vội nói, "Tiền bối thử xem bệnh hắn liệu còn cứu được không?"

Người cụt tay thở dài nói, "Người này bình thường lo nghĩ nhiều quá đến nỗi lao tâm lao lực, nguyên trong người đã có bệnh sẵn nhưng nhờ nội công thâm hậu, gắng gượng giữ gìn nên bề ngoài không mấy người biết. Có đúng thế không?"

Tú Linh buồn rầu nói, "Tiền bối chưa trông thấy người, mà đoán bệnh thật chẳng sai tý nào."

Người cụt tay nói, "Lần này hắn bị trúng một chưởng, nếu lấy nội công của hắn xem ra thì chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng khốn nỗi thể chất hắn đã suy nhược, nên lúc này nội ngoại giáp công. Dẫu là người mình đồng da sắt cũng không chịu nổi."

Vừa nói vừa lắc đầu thở dài. Tú Linh chợt thấy trái tim như ngừng hẳn lại, chân tay run lẩy bẩy, nước mắt đầm đìa hai chân mềm nhũn, lảo đảo bước lùi lại, lắp bắp nói, "Nếu... nếu thế thì không còn hy vọng cứu được nữa chăng?"

Người cụt tay trừng mắt nói lớn, "Ai bảo là không cứu được nữa? Có lão phu đây, sao lại không còn hy vọng cứu được?"

Tú Linh mừng quýnh, trong một lúc bao nhiêu sự sợ hãi đau khổ, mừng rỡ bất ngờ dồn dập kéo đến, tình cảm của nàng bị kích thích quá mạnh, làm cho nàng không sao chịu đựng nổi liền ngã ngồi xuống đất. Mắt còn chưa ráo lệ, miệng đã tíu tít hỏi, "Tiền bối... tiền bối bằng lòng cứu Nhâm Vô Tâm thật không?"

Người cụt tay thủng thỉnh đáp, "Nhưng lão phu bình sinh không từng giúp không ai cái gì bao giờ. Nếu ta chữa khỏi Nhâm Vô Tâm, thì ngươi sẽ làm gì để trả ơn ta?"

Tú Linh ứa nước mắt nói, "Nếu tiền bối cứu sống Vô Tâm, thì dù bắt vãn bối nhảy vào lửa, vãn bối cũng không dám từ."

Người cụt tay đôi mắt long lanh, thở dài nói, "Vừa rồi lão phu cứu ngươi sống, hình như ngươi cũng chẳng lấy gì làm cảm kích lắm, vậy mà lúc này lão phu mới hứa chữa thương cho Nhâm Vô Tâm, cũng chưa biết chắc hắn có khỏi được hay không, ngươi đã tình nguyện nhảy vào nước lửa để báo đáp! Ôi! Xem thế đủ biết những ai làm bạn với ngươi quả là tốt phước!"

Ông ngừng một lát rồi lại mỉm cười nói, "Lão phu cũng không muốn đòi hỏi gì hơn, chỉ khi nào lão cứu được bạn ngươi khỏi bệnh, ngươi phải quì xuống đất gọi lão một câu "Gia gia" thế là đủ!"

Tú Linh ngẩn người ra một lát, rồi ngập ngừng hỏi, "Đó là...là điều kiện của tiền bối ư?"

Nàng thật không thể ngờ tới tại sao người cụt tay lại ra điều kiện quái gở như vậy? Và như vậy thì có lợi gì cho ông ta?

Người cụt tay cười nói, "Đúng thế, chỉ có một điều kiện ấy thôi. Ngươi bằng lòng chứ?"

Tú Linh đang khóc cũng bật cười nói, "Tiền bối đối với anh em cháu ơn đồng tái tạo, và tiền bối cũng đáng tuổi gia gia cháu, đừng nói tiền bối chỉ bắt gọi một tiếng, dù bắt cháu gọi nghìn tiếng vạn tiếng, cháu cũng vui lòng."

Nói xong lập tức quì xuống toan lạy. Người cụt tay vội xua tay nói, "Thong thả, thong thả! Chờ lão phu cứu sống Nhâm Vô Tâm rồi ngươi sẽ lạy cũng vừa!"

Nói xong duỗi cánh tay ra cười bảo Tú Linh, "Bây giờ ngươi hãy kéo cái tay áo này lên giùm lão phu đã!"

Tú Linh mừng quá, lau vội nước mắt đứng lên cầm ống tay áo ông già, cẩn thận vén cao lên. Ông ta nhìn nàng vén tay áo cho mình, chợt lộ vẻ bồi hồi đau đớn một lúc mới thở dài nói, "Cho thêm củi vào đống lửa đốt to lên, đừng để cho lửa tắt và cũng đừng quay đầu lại. Sáng mai lão phu sẽ đem chàng Nhâm Vô Tâm sống phây phây trả cho nhà ngươi."

Tú Linh cảm kích vô cùng, nghẹn ngào nói không thành tiếng chỉ khom mình vái ông ta một vái, rồi ngồi xổm xuống bên đống lửa cho thêm củi vào, thổi cho cháy bùng lên. Chỉ nghe phía sau lưng nổi lên những tiếng động nho nhỏ, lúc thì là tiếng quần áo sột soạt, lúc thì là tiếng xoa bóp, sau đó là những tiếng xương kêu răng rắc liên tiếp như pháo nổ, mãi mãi không ngừng.

Thốt nhiên bao nhiêu tiếng động lại im bặt, không khí yên lặng như tờ, trong miếu chỉ còn nghe thấy tiếng củi nổ lách tách. Đêm mỗi lúc một khuya, gió mỗi lúc một mạnh, tiết trời cũng mỗi lúc một giá buốt nhưng phía sau Điền Tú Linh vẫn im lìm không một tiếng động.

Nàng chợt cảm thấy lạnh toát cả người, bỗng dưng rùng mình một cái tự nghĩ, "Người cụt tay hành tích quỉ bí và lúc mới gặp, mình đã nói những câu không được lễ độ lắm, tại sao hắn lại tốt với mình như vậy? Biết đâu không phải tất cả chỉ là những thủ đoạn dùng để giết Nhâm Vô Tâm? Giờ này rất có thể hắn đã giết chết chàng hoặc đem chàng đi đâu mất rồi cũng nên!"

Nàng vừa toan quay lại xem, bỗng chợt nghĩ, "Vũ công của hắn cao như vậy, nếu hắn muốn giết cả hai người thì có khó gì? Việc gì phải dùng tới những thủ đoạn ấy? Người ta có lòng tốt, ta đừng nên ngờ bậy!"

Tuy lòng đã nhủ lòng là không nên ngờ bậy mà bụng vẫn thấp thỏm không yên, chỉ muốn quay lại nhìn trộm một tý. Càng nóng lòng sốt ruột, hình như thời gian lại càng đi chậm lại. Nàng ngẩng trông ra bên ngoài, mưa gió đã ngớt phía đông đã lờ mờ ánh sáng, và những mỏm núi xa xa cũng đã thấy hiện ra trên nền trời u ám. Ngay lúc ấy chợt nghe phía sau có tiếng người rên rỉ, hình như tiếng Nhâm Vô Tâm, kế lại nghe tiếng thở hổn hển có vẻ như tiếng ông già cụt tay.

Tú Linh cau mày, trong bụng lấy làm kinh dị. Tiếng rên rỉ mỗi lúc một yếu, tiếng thở mỗi lúc một gấp... Thốt nhiên lại nghe ông già cụt tay quát lên một tiếng, không khác gì tiếng sét đánh ngang trời làm cho người nghe choáng cả màng óc. Tú Linh đầu óc còn đang choáng váng, đã lại nghe tiếng người cụt tay nói, "Được rồi, quay lại đi!"

Nói chưa dứt lời, Tú Linh đã vùng đứng lên quay phắt đầu lại. Người cụt tay đã đứng bên quan tài, quần áo ướt sũng mồ hôi, lồng ngực phập phồng, hơi thở hổn hển. Nàng bước lên mấy bước nhìn vào quan tài, thấy Nhâm Vô Tâm tuy vẫn nhắm nghiền đôi mắt nhưng hơi thở đã điều hòa như người đang ngủ say, sờ vào lòng bàn tay cũng thấy hơi âm ấm.

Tú Linh biết người cụt tay đã không ngại tổn hao công lực chữa chạy vết thương cho Nhâm Vô Tâm, cái lòng hiệp nghĩa xả hỷ cứu nhân ấy đã làm cho Tú Linh vô cùng xúc động, đến nỗi nghẹn ngào không nói nên lời, chỉ sụp quì xuống đất run run nói, "Ơn sâu đức dày của lão tiền bối..."

Người cụt tay tức thì trợn mắt quát, "Sao ngươi vẫn kêu ta là tiền bối?"

Tú Linh cảm kích ứa hai hàng lệ, qua màng nước mắt nàng chỉ mơ hồ nhận thấy con người tàn tật xấu xí, áo quần rách rưới đứng trước mặt mình kia quả là vĩ đại cao quí, đánh kính đáng phục, nếu mình được làm con ông ta cũng đủ vẻ vang danh giá một đời. Bèn vội lau nước mắt, phục xuống đất gọi, "Gia gia, gia gia!"

Tiếng nàng tuy nhỏ nhưng thực là những tiếng thốt từ đáy lòng, không một vẻ gì là miễn cưỡng. Người cụt tay đứng ngây người ra nhìn nàng chằm chằm, trong cặp mắt sắc như mắt chim ưng chợt long lanh mấy giọt nước, miệng lẩm bẩm mấy tiếng rất nhỏ nghe như, "Hài tử...hài tử, hôm nay ta mới được nghe tiếng gọi của con."

Thốt nhiên ông ngửa mặt lên trời cười to mấy tiếng, đưa cao cánh tay còn sót lại lên múa tít đi mấy vòng, miệng thì kêu, "Ta cao hứng quá! Ta cao hứng quá!"

Tú Linh ngẩng lên kinh sợ hỏi, "Gia gia! Gia gia làm sao..."

Người cụt tay vẫn cười ha hả nói, "Ta cao hứng quá!"

Rồi nhảy cẫng một chân, đá bầu rượu lăn lông lốc ra ngoài cửa, cái thân hình cao lớn của ông ta cũng nhảy theo ra. Ông ta tuy chỉ có một chân nhưng thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Tú Linh hốt hoảng chạy ra cửa đuổi theo nhưng chỉ thấy bốn mặt núi cao, hồi âm vang vang không dứt, đâu đây chỉ nghe thấy toàn những tiếng, "Ta cao hứng quá! Ta cao hứng quá!"

Nhưng trong màn sương sớm ảm đạm mịt mù, đã không trông thấy bóng dáng ông ta và chiếc bầu rượu đỏ đâu nữa. Tú Linh đứng ngây người ra một lúc, bất giác nước mắt chảy dòng dòng, thổn thức nói một mình, "Gia gia, hài nhi chưa kịp hỏi tên họ gia gia, sao gia gia đã vội bỏ đi?"

Nàng đứng một lúc khá lâu, không thấy ông già cụt tay trở lại, mới thở dài một tiếng lủi thủi quay vào bên cạnh áo quan. Nhâm Vô Tâm đang ngủ say sưa, nàng không nỡ đánh thức dậy, chỉ dựa lưng vào áo quan mà ngồi.

Đống lửa vẫn còn cháy rừng rực, nàng thấy trong mình ấm áp dễ chịu lại sinh ra buồn ngủ, mi mắt nặng trĩu bèn ngả lưng bên quan tài, thiu thiu ngủ mất. Ngoài trời mây đen mù mịt, lúc này lại lóe lên một chút ánh mặt trời.

Mộ Dung Phi bị thương nặng nằm dưới đất, thốt nhiên mở mắt quay đầu trông trộm Tú Linh. Tú Linh vẫn yên trí là hắn chết thật rồi nên không đề phòng chi hết. Vì mấy ngày nay bôn ba mệt nhọc quá sức nên nàng vừa nhắm mắt đã ngủ say như chết, không còn biết trời đất gì nữa.

Mộ Dung Phi đã lổm ngổm bò dậy, trên môi còn nở một nụ cười nham hiểm, ánh mắt sát khí đằng đằng, hắn cứ bò dần từng bước, từng bước lại phía Tú Linh. Tú Linh vẫn ngủ say, Nhâm Vô Tâm nằm trong áo quan tiếng ngáy vẫn đều đều. Mộ Dung Phi tay đã chạm vào thanh kiếm, dần dần hắn đã nắm được chuôi kiếm.

Ngoài cửa ánh nắng đã tràn vào trong miếu, những chỗ nước mưa hắt vào đêm qua đã khô ráo. Tú Linh vẫn say sưa giấc điệp. Mộ Dung Phi tay lăm lăm chuôi kiếm, mắt hết nhìn Tú Linh lại nhìn Nhâm Vô Tâm, ngần ngừ chưa biết nên giết ai trước. Hắn thấy thanh kiếm nặng trĩu trong tay biết rằng mình tuy chưa chết, nhưng chân lực không còn được bao nhiêu, không biết một nhát kiếm có thể giết nổi một mạng không, điều ấy còn chưa dám quyết định, huống hồ lại còn muốn giết cả hai người.

Vì thế nên hắn mới phải phân vân, không biết nên giết ai, đừng giết ai? Hắn thấy Nhâm Vô Tâm nằm trong áo quan, vẻ mặt bình thản hơi thở điều hòa, biết rằng chàng chưa chết mà cũng có lẽ không bị trọng thương như hắn tưởng; nếu hắn giết Tú Linh trước mà chàng tỉnh dậy, thì chắc mạng hắn cũng không còn; còn nếu hắn giết Vô Tâm trước, nhỡ Tú Linh thức dậy thì làm sao?

Hắn tuy là người nham hiểm độc ác nhưng lại không nhanh trí nên đã bỏ lỡ mất cơ hội tốt, nếu hắn cứ quả quyết hạ thủ Tú Linh trước thì Vô Tâm bị trọng thương vừa khỏi, khí lực chưa phục hồi, dẫu có muốn chống lại hắn cũng chưa đủ sức. Đằng này có cơ hội tốt hắn đã bỏ lỡ mất rồi, ánh mặt trời chiếu qua khe cửa sổ vào trong miếu, bị thanh kiếm của Mộ Dung Phi phản chiếu soi thẳng vào mắt Tú Linh.

Tú Linh đang ngủ say chợt thấy mi mắt đau nhói, bèn giật mình mở choàng mắt ra, chợt trông ngay thấy một bóng người cao lớn, tay giơ cao thanh kiếm, miệng nhăn nhó cười một cách hung ác. Cái bóng thấy nàng tỉnh dậy vội quát to một tiếng, cầm kiếm đâm thẳng vào ngực nàng. Tú Linh hốt hoảng vội lăn đi một vòng xa tới mấy thước, vai bên trái tuy bị mũi kiếm đâm trúng, nhưng may không can gì đến những chỗ yếu hại.

Mộ Dung Phi thấy đánh không trúng lại định đuổi theo đánh nữa, không ngờ lực bất tòng tâm, tay cầm kiếm đã run run làm sao còn đủ sức tấn công được nữa? Tú Linh trong lúc kinh hoàng lập tức sấn lên, tay trái ráng sức phóng ra một luồng tiềm lực, thân hình hơi nghiêng đi lách qua làn kiếm quang của đối phương mà tiến.

Môn vũ học kì dị đó chính là một chiêu cứu mệnh bí truyền của Nam Cung thế gia, trên đời không mấy người giải nổi. Mộ Dung Phi còn đang sửng sốt Điền Tú Linh đã bước sấn tới bên cạnh, tay phải liên tiếp đánh vào hai đại huyệt "Nhũ huyệt" và "Huyền cơ" ở ngực bên trái của Mộ Dung Phi. Thanh kiếm ở tay phải của hắn đã bị luồng tiềm lực của Tú Linh gạt hắn ra một bên, cánh tay bên trái không có, lúc này thấy Điền Tú Linh phóng chưởng ra còn tránh sao kịp. Trong lúc cuống lên, hắn chợt xúc động linh cơ, hét lớn, "Hãy khoan!"

Tú Linh tay đã đặt lên huyệt "Huyền cơ" của hắn nhưng chưa hạ thủ, sẵn tiếng hỏi, "Ngươi còn muốn nói gì nữa?"

Mộ Dung Phi biết lúc này tính mạng mình đã ở trong tay đối phương, trên trán hắn mồ hôi nhỏ xuống tong tong, thốt nhiên ném thanh kiếm kêu to, "Thiếu phu nhân, phu nhân tưởng tôi không nhận ra phu nhân ư?"

Mộ Dung Phi thấy đối phương dùng toàn chiêu thức của Nam Cung thế gia, lại chợt nhớ tới câu chuyện có liên quan đến thiếu phu nhân Điền Tú Linh mà hắn mang máng được nghe mấy hôm nay, nên trong lúc bí quá hắn chợt nảy trí khôn, định bụng cứ gọi liều may ra trúng thì hay lắm. Kỳ thực hắn cũng không dám quả quyết có phải người này đúng là Điền Tú Linh cải trang thực không?

Tú Linh nghe hắn nói bất giác tái mặt, bàn tay định ấn vào ngực hắn cũng hơi run run. Mộ Dung Phi thấy thế mừng thầm, biết là mình đoán không sai, liền nghĩ ra một kế cười nói, "Phu nhân số hãy còn đỏ, nên trời mới xui khiến tại hạ nhận ra phu nhân, nếu không..."

Nói đến đấy hắn lại cố ý lắc đầu thở dài, nín lặng không nói nữa. Tú Linh không dằn nổi tính tò mò, buột miệng hỏi, "Nếu không thì làm sao?"

Mộ Dung Phi cười ha hả nói, "Nếu không thì Mộ Dung Phi cố nhiên sẽ chết về tay phu nhân, mà phu nhân cũng sẽ phải hận ngàn đời."

Tú Linh cau mày hỏi, "Ngươi nói thế là nghĩa làm sao?"

Mộ Dung Phi ngửa mặt lên trời cười "hắc hắc" nói, "Nếu phu nhân muốn nghe câu chuyện bí mật...hắc hắc..."

Rồi hắn lại im lặng không nói nữa. Kỳ thực trong bụng hắn có chuyện bí mật gì đâu, chẳng qua hắn chỉ cố ý kéo dài thời gian, để nặn óc tìm một câu chuyện có thể uy hiếp Tú Linh được, có thế thôi. Tú Linh ra thêm sức mạnh vào năm đầu ngón tay, ấn vào ngực Mộ Dung Phi giận dữ quát, "Ngươi có nói không thì bảo!"

Huyệt "Huyền cơ" là một trong ba mươi sáu yếu huyệt trong mình, bình thường bị người ta chạm nhẹ phải cũng đau điếng người không sao chịu nổi, huống hồ đằng này tay Tú Linh lại hàm súc nội kình, xuất thủ tính từng phân thốn hẳn hoi, tuy là đặt trên tử huyệt nhưng chỉ cố ý làm cho hắn đau đớn, chớ chưa muốn bắt hắn phải chết vội.

Mộ Dung Phi tuy mồ hôi đã toát ra như tắm, nhưng vẫn cố cắn răng chịu đựng nói, "Nói thì đằng nào cũng nói, nhưng không phải dễ dàng thế đâu?"

Hắn càng làm bộ bí mật, Tú Linh lại càng nghi ngờ sốt ruột muốn nghe ngay, tay trái nàng bèn nắm lấy huyệt "Khúc trì" trên cánh tay phải hắn, quát to, "Ngươi còn chưa chịu nói hả?"

Mộ Dung Phi chỉ cảm thấy cánh tay đau như dao tiện thấu suốt tới quả tim, nước mắt ứa ra nhưng ngoài miệng vẫn cố nhăn nhở cười. Tú Linh tự nghĩ, "Hắn đau đến chết vẫn cố cắn răng không nói, chắc chuyện này quan trọng lắm chớ chẳng chơi?"

Taynàng ấn mạnh thêm một chút nữa, giọng nói càng gay gắt, "Nếu ngươi vẫn gan lỳ không nói, ta sẽ bóp gãy nốt cánh tay này của ngươi cho mà coi!"

Mộ Dung Phi làm bộ chịu không nổi, run run nói, "Phu nhân, xin hãy...hãy nới tay một chút."

Tú Linh cười nhạt, "Ngươi cứ gan nữa đi!"

Ngón tay nàng quả nới ra một chút, nhưng bàn tay vẫn không dời yếu huyệt của hắn. Mộ Dung Phi làm bộ thở dài nói, "Phu nhân bội phản Nam Cung thế gia, quả thật mật lớn tày trời. Nhưng phu nhân há không sợ thủ đoạn của Thái phu nhân làm cho người ta cầu sống không được, cầu chết cũng không xong ư?"

Tú Linh chột dạ nghĩ thầm, "Bà Tổ đã ngầm hạ độc dược trong cơ thể ta, không phải là bắt ta chết ngay mà yên chuyện đâu, coi chừng bà ta có thể bắt mình phải chịu trăm cay ngàn đắng chết đi sống lại, đúng như lời Mộ Dung Phi nói: Cầu sống không được, cầu chết không xong! Biết làm thế nào bây giờ?"

Mộ Dung Phi biết là nàng đã trúng kế bèn lại giả bộ buồn rầu, thở dài nói tiếp, "Dù phen này ra đi phu nhân đã quyết liều một chết, nhưng tất thế nào lòng cũng còn vương một chút tâm sự chưa xong mà đã chết sớm, há chẳng đáng tiếc lắm ru?"

Tú Linh giật mình hỏi, "Sao ngươi biết ta còn vướng chút tâm sự?"

Mộ Dung Phi ngửa mặt lên trời than, "Tình thiên đa hận sự, sống chết hai đường khôn tỏ. Ôi! Sống chết mơ hồ, sống chết mơ hồ!"

Tú Linh kinh sợ nghĩ thầm, "Hay là hắn biết... biết việc của...của phu tế ta?" Nàng lại buột miệng hỏi, "Ngươi biết chàng còn sống à? Ngươi có biết chàng ở đâu không?"

Mộ Dung Phi giả vờ giật mình ấp úng nói, "Việc của...của thiếu chủ nhân, tại hạ làm sao mà biết được?"

Tú Linh cười nhạt, "Nếu ngươi biết thì cứ việc nói thẳng ra, việc gì còn phải vờ đóng kịch như thế?"

Mộ Dung Phi lắp bắp, "Nhưng... nhưng nếu tại hạ nói rõ việc... việc của thiếu chủ nhân ra thì... thì... ôi!"

Hắn càng nói mập mờ, Tú Linh lại càng nóng muốn biết, bèn gắt, "Trong giang hồ tuy ai cũng bảo là chàng chết rồi, nhưng ta không tin. Nếu ngươi nói được hiện thời chàng ở đâu, ta sẽ tha chết cho."

Mộ Dung Phi thấy nói liều như vậy, ngờ đâu lại dò trúng được tâm sự Tú Linh, trong bụng tuy đắc ý nhưng ngoài mặt vẫn giả vờ nhăn nhó, thở ngắn than dài. Rồi chợt tắc lưỡi nói, "Thôi, phu nhân có muốn giết tại hạ, xin cứ ra tay cho!"

Tú Linh cười nhạt, "Bà Tổ ta thủ đoạn tuy lợi hại nhưng cô nương đây cũng không phải là người bụng dạ nhân từ. Nếu ngươi nhất định không nói thật, ta cũng sẽ có thủ đoạn khiến cho ngươi cầu sống không được, cầu chết không xong cho mà coi!"

Mộ Dung Phi hình như cũng hơi giật mình, run run nói, "Tại hạ chỉ cầu chóng chết, quyết không dám nói rõ chỗ công tử trị... trị thương!"

Tú Linh choáng người, không biết vì sợ hay vì mừng, vội hấp tấp hỏi, "Sao sao, ngươi biết chỗ ở của chàng à?"

Mộ Dung Phi nhăn nhó nói, "Thái phu nhân sợ trong giang hồ nếu có người biết là công tử chưa chết, tất sẽ gây thành một trường đại loạn, nên mới đưa công tử đến một chỗ bí mật để dưỡng thương, việc này chỉ có vài người biết trong số có cả tại hạ. Nhưng mấy người biết việc đó đã từng thề độc không được tiết lộ với ai. Tại hạ dẫu có gan tày trời cũng không dám nói ra."

Tú Linh giận dữ quát, "Nếu ngươi không nói, ta cũng băm vằm ngươi ra làm trăm ngàn mảnh, ngươi hãy suy nghĩ cho kỹ đi đã."

Mộ Dung Phi mừng thầm nói, "Nhưng dù tại hạ có nói thực, phu nhân chắc cũng chẳng tin."

Tú Linh nói, "Cố nhiên. Ta còn muốn ngươi đưa ta đến tận nơi, khi nào trông thấy người, lúc đó ta mới tin và thề không làm khó dễ gì cho ngươi cả."

Mộ Dung Phi nói, "Nhưng tại hạ cũng làm sao dám tin phu nhân?"

Tú Linh nói, "Ta muốn giết ngươi lúc nào cũng được, hà tất phải bày trò?"

Mộ Dung Phi ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Nhưng còn Nhâm Vô Tâm? Nếu phu nhân cho hắn đi theo thì dù chết tại hạ cũng không dám đưa phu nhân đi."

Tú Linh cũng ngẩn người ra, không biết tính thế nào cho tiện nàng không nỡ bỏ mặc chàng đấy mà đi một mình, còn đem chàng đi theo thì quả không tiện chút nào.

Mộ Dung Phi thấy nàng do dự, lại nói tiếp, "Phu nhân nghĩ thế nào, xin quyết định ngay cho."

Tú Linh bất giác đưa mắt nhìn Vô Tâm đang nằm ngủ say sưa trong quan tài, rồi quả quyết nói, "Đằng nào ta cũng phải đưa chàng đi, nếu ngươi sợ lộ chuyện thì dọc đường ta sẽ điểm huyệt cho chàng cũng được."

Mộ Dung Phi không biết làm sao, đành phải gật đầu. Tú Linh liền buông tay ra rồi bước về phía quan tài, nhưng đôi mắt vẫn theo dõi cử chỉ của hắn. Tú Linh chợt nghĩ, "Biết đâu hắn không cố ý dụ ta vào vòng mai phục của Nam Cung thế gia?" Nàng bèn giả vờ hỏi bằng một giọng không chú ý lắm, "Ngươi tính đưa ta đi đâu?"

Mộ Dung Phi sửng sốt không biết nên đi đâu, bèn nói bừa, "Chỗ công tử trị thương ở trong dãy loạn sơn thuộc tỉnh Cam Túc. Ta cứ thẳng phía Tây đi là tới."

Hắn nói liều thành ra lại trúng vào nơi mà Vô Tâm định tới. Tú Linh mừng lắm , liền giơ tay điểm vào "thụy huyệt" của chàng. Nếu nàng đưa Vô Tâm đi về phía Tây, tất thế nào đi đường cũng bị địch nhân phát giác. May có Mộ Dung Phi dẫn đường, hắn không dám để người nhà Nam Cung thế gia bắt gặp nàng, vì nếu biết đã bị lộ tung tích tất nàng sẽ giết hắn trước. Do đó hắn hết sức tránh những nơi mà hắn biết là có tai mắt nhà Nam Cung thế gia mai phục.

Sự việc biến chuyển lại thành ra may mắn, có lẽ bên trong đã có tạo hóa an bài, nhưng đó là những điều mà chính Điền Tú Linh và Mộ Dung Phi cũng không ai ngờ tới. Tú Linh cúi xuống bế Nhâm Vô Tâm lên, khi qua trước mặt Mộ Dung Phi nàng chợt giơ tay điểm luôn vào bốn huyệt "Tương đài", "Kỳ môn", "Chương môn" và "Bạch hải" của hắn.

Mộ Dung Phi cười một cách đau khổ nói, "Tại hạ đã bị thương về chưởng của phu nhân, dẫu phu nhân không điểm huyệt tại hạ cũng không trốn được cơ mà?"

Tú Linh chỉ lạnh lùng ra lệnh, "Đi trước đi!"

Mộ Dung Phi bị điểm huyệt, chân lực tuy đã mất nhưng chân vẫn đi lại được như thường. Hắn quả theo lời nàng tiến lên trước dẫn lộ. Hai người đi chừng một giờ mới được bốn năm dặm. Tú Linh thấy Mộ Dung Phi mồ hôi đẫm trán, hơi thở hổn hển biết không phải hắn cố ý làm trò, nên cũng không nỡ giục giã.

Lại đi một đoạn nữa, chợt thấy Mộ Dung Phi rảo bước đi về phía trái mấy bước, rồi cúi xuống bới bới ở dưới đất. Tú Linh cau mày nói, "Nếu ngươi muốn giở trò, thì hãy coi chừng!"

Mộ Dung Phi vẫn hì hục bới, một lát sau đã thấy hắn moi dưới đất lên được bảy tám chiếc trứng rùa. Tú Linh thấy thế bất giác bật cười, nghĩ thầm, "Nếu không có hắn cùng đi, chắc ta đành chịu chết đói mất!"

Mộ Dung Phi bới trứng xong, lại lấy cây hỏa tập vơ một nắm lá khô đốt lên rồi bỏ trứng rùa vào nướng. Mỗi người ăn vài quả trứng rùa và uống mấy ngụm tuyết đọng trong hốc đá, đã thấy tinh thần phấn chấn. Tú Linh cười nói, "Cám ơn ngươi!"

Hai người đi đến chiều mới được hơn mười dặm, bốn bề núi non xanh ngắt khí lạnh ghê hồn, trước mặt lại hiện ra một con đường hẹp. Mộ Dung Phi chú ý nhìn qua rặng cây um tùm một lát, rồi chợt bỏ con đường tắt đi len vào rừng. Tú Linh sẵng giọng hỏi, "Ngươi định đi đâu đấy?"

Mộ Dung Phi cười nói, "Trong những gốc cây ở đây đều có ám hiệu của Nam Cung thế gia, nếu ta đi vào con đường mòn đó, chỉ chừng một dặm sẽ bị chúng phát giác."

Tú Linh giật mình nghĩ thầm, "Cũng may tên này chưa chết lại dẫn đường cho ta, nếu ta đi một mình thì thế nào cũng bị vướng vào vòng vây của họ."

Nàng có biết đâu rằng Mộ Dung Phi chỉ là một kẻ ích kỷ, coi tính mạng của mình quý hơn vàng, lúc này hắn chỉ tìm mưu tính kế thoát thân, còn đối với sự thành bại của nhà Nam Cung thế gia hắn đâu có quan tâm đến. Tới nửa đêm, Tú Linh tìm được một chỗ khe núi tránh gió, bèn điểm huyệt đạo cho Mộ Dung Phi và đặt Nhâm Vô Tâm nằm xuống nệm cỏ, rồi ngồi ngủ một lát.

Đi ròng rã ba ngày liền, Tú Linh dần dần đã hơi tín nhiệm Mộ Dung Phi, không phòng ngừa cẩn thận như trước nữa. Một hôm đi đến đại tân quan tức là biên cảnh Cam Túc, buổi tối hai người liền tìm vào một tòa miếu hoang ở ngoài châu thành nghỉ ngơi.

Lúc này Mộ Dung Phi thân hình chỉ còn gầy bằng cái que, bất thành nhân dạng. Tú Linh hình dung cũng tiều tụy bơ phờ, duy có Nhâm Vô Tâm vì suốt ngày chỉ li bì ngủ nên không đến đỗi thay đổi lắm. Tú Linh thấy bộ dạng Mộ Dung Phi như vậy, cũng động lòng thương hại bèn nói, "Thôi đêm nay ta hãy tạm không điểm huyệt ngươi để cho ngươi ngủ được một giấc, sáng mai mà lấy sức đi tiếp."

Người bị điểm huyệt tiếng rằng ngủ say, nhưng các bắp thịt, đầu xương không được thoải mái. dẫu có ngủ mà vẫn không hết mệt nhọc. Khi nghe Tú Linh nói vậy, Mộ Dung Phi tỏ vẻ cảm kích thốt nhiên ứa nước mắt, quì phục xuống đất nghẹn ngào nói, "Tại hạ thật đáng chết! Tại hạ đã nói dối phu nhân!"

Tú Linh sửng sốt, hấp tấp hỏi, "Cái gì? Hay là ngươi... ngươi quả không biết chỗ ở của... của chàng?"

Mộ Dung Phi lắc đầu, "Điều đó tại hạ đâu dám nói dối... chỉ vì... chỉ vì"

Nói đến đấy hắn chợt thò tay vào mình lấy ra một chiếc lọ nhỏ bằng ngọc màu bích lục, rồi tiếp, "Tại hạ vừa gặp phu nhân lẽ ra phải đưa ngay thuốc giải độc cho phu nhân mới phải, nhưng tại hạ lại vì tư tâm mà giấu đi, nay thấy phu nhân đối với tại hạ tốt quá, nên tại hạ không đành tâm giấu..."

Tú Linh chợt động lòng hỏi, "Thuốc giải độc gì?"

Mộ Dung Phi than rằng, "Thái phu nhân đã liệu trước là ngày phu nhân bị thuốc độc phát chỉ còn trong vòng năm ba hôm nữa, vì thế nên mới sai tại hạ giắt thuốc giải sẵn trong mình, hễ tìm thấy phu nhân thì phải đưa ngay."

Tú Linh cười nhạt nói, "Ta đã bội phản bà ấy, khi nào bà ấy còn có lòng nhân từ sai ngươi đem giải dược đến cứu ta nữa?"

Mộ Dung Phi buồn rầu nói, "Chính thế, Thái phu nhân chỉ muốn chính mắt được trông thấy phu nhân chết đi sống lại, chịu đủ thiên ma bách chiết rồi mới cam lòng, nếu phu nhân cứ thế mà chết thì Thái phu nhân còn làm sao thỏa chí báo thù được nữa?"

Tú Linh ngồi ngây ra một lúc, rồi thở dài nói, "Không ngờ bà ấy lại giận ta đến thế?"

Mộ Dung Phi nói, "Loại giải dược này có thể kéo dài độc tính được tới một năm, trong vòng một năm đó Thái phu nhân sẽ sai người bắt phu nhân về, Thái phu nhân sợ bọn tại hạ không đủ sức bắt được phu nhân nên mới trao thuốc giải độc cho cầm phòng. Tại hạ thiết nghĩ phu nhân sống thêm được một năm nữa, cũng có thể liễu kết được tâm sự, chả hơn là chết ngay bây giờ ư?"

Tú Linh chú ý nhìn hắn, trong bóng đêm chỉ trông thấy trên mặt hắn vẫn còn long lanh ngấn nước mắt, hình như những lời hắn nói toàn là chí thiết chân thành và hợp tình hợp lý, liền tự nghĩ, "Cứ xem cử chỉ của hắn mấy hôm nay cũng không đến nỗi gian ác lắm, và hắn muốn lừa ta hà tất phải dùng đến cái kế ngu xuẩn đó."

Nghĩ vậy liền đỡ lấy chiếc lọ ngọc mở ra đưa lên mũi ngửi thử, chỉ thấy hương thơm ngào ngạt xông lên nức mũi. Nàng sinh trưởng trong nhà Nam Cung thế gia, đối với các loại thuốc độc trên đời nàng cũng nhận biết khá nhiều, nên vừa ngửi hơi thuốc, nàng đã biết ngay không phải thuốc độc.

Nhưng dù sao nàng vẫn không dám tin hẳn, lại đưa trả Mộ Dung Phi rồi nói, "Nếu thật là thuốc giải độc, thì ngươi thử uống trước cho ta xem nào!"

Mộ Dung Phi ngần ngừ một lúc rồi nói, "Tại hạ đã muốn lấy lòng tin của phu nhân, thì dù trong lọ đựng thuốc độc tại hạ cũng dám uống."

Hắn nói dứt lời liền mở lọ ra, ngửa cổ dốc một nửa vào miệng. Tú Linh đăm đăm nhìn hắn, thấy hắn quả uống hết nửa lọ thuốc, trong bụng cũng hơi tin nhưng lại nghĩ, "Nếu là thuốc độc thì ít ra cũng phải hai ba giờ mới ngấm. Ta hãy chờ xem." Nàng liền bảo hắn, "Ngươi cứ đi ngủ trước đi, lát nữa ta sẽ gọi dậy."

Mộ Dung Phi khom lưng nói, "Đa tạ phu nhân."

Nói xong liền nằm xuống, chỉ một lát sau đã thấy hắn ngáy ầm ầm. Tú Linh không hề nhắm mắt, chờ tới ba tiếng đồng hồ mới gọi Mộ Dung Phi dậy, thấy hắn vẫn khỏe mạnh như thường, không hề có vẻ gì khác lạ bất giác nghĩ thầm, "Xem thế đủ biết nếu trong bình này không phải là thuốc giải, thì cũng quyết không phải là thuốc độc. Ta cứ uống chắc cũng vô hại."

Nàng càng nghĩ càng thấy những lời Mộ Dung Phi nói tuyệt không có gì giả dối, bèn ung dung mở bình ngọc ra, dốc hết chỗ thuốc dở vào miệng. Đêm tối càng âm thầm, gió càng lúc càng mạnh. Mộ Dung Phi nằm co ro trong xó miếu, hình như đang lim dim, kỳ thực thì hắn vẫn chú ý theo dõi từng cử chỉ của Tú Linh.

Tú Linh uống thuốc xong cảm thấy chân tay dần dần ấm áp, thân thể thư sướng dễ chịu vô cùng, nàng tự mừng thầm là thuốc giải có công hiệu. Nàng đã định rằng hễ uống thuốc vào mà thấy trong mình khó chịu, thì lập tức điểm ngay tử huyệt của Mộ Dung Phi, nay thấy thuốc tựa hồ linh nghiệm bèn cười nói với hắn, "Thứ thuốc này hình như có sức làm cho người ta hết mệt nhọc. Ngươi có buồn ngủ thì cứ nằm xuống mà ngủ một giấc nữa đi."

Mộ Dung Phi chỉ tủm tỉm cười, không đáp. Tú Linh cũng ngồi xếp bằng tròn vận công điều tức cho thuốc chóng ngấm. Trong phút chốc nàng cảm thấy dưới bụng con hình như có một luồng khí huyết đưa thẳng lên cổ. Nàng giật mình mở mắt nhìn, lại thấy Mộ Dung Phi mở mắt cười toe toét, đang đăm đăm nhìn mình. Nàng biết là có biến, vừa định đứng lên chợt thấy tứ chi mềm nhũn, không sao gắng gượng được nữa.

Tú Linh giận lắm thét lên, "Ngươi... ngươi dám"

Mộ Dung Phi cười ha hả nói, "Phu nhân lúc này tuy trách mắng tại hạ, nhưng nếu chờ chút nữa thấy trong mình thư thái, chỉ sợ lại phải nhờ ơn tại hạ thôi."

Giọng cười của hắn nghe thật bỉ ổi đê tiện. Tú Linh rùng mình, trong mình cảm thấy bứt rứt, những ý nghĩ bậy bạ cứ lởn vởn trong óc, lâu dần hai má nóng như lửa đốt, máu huyết trong người như muốn phun tóe ra. Nàng sợ quá, vội quát hỏi, "Ngươi dùng thứ... thứ thuốc gì mà..."

Nàng tuy cố lấy sức hét thật to nhưng giọng đã yếu quá, tiếng hét chỉ lí nhí trong miệng, không sao thoát ra được. Nàng chỉ mong Nhâm Vô Tâm thốt nhiên tỉnh dậy, nhưng chàng đã bị điểm huyệt quyết không thể nào tỉnh dậy được trước khi trời sáng. Mộ Dung Phi lại cười ha hả, "Thuốc độc tầm thường làm sao có thể che mắt được thiếu phu nhân nhà Nam Cung thế gia? Thứ thuốc này dược liệu chính của nó là nhung hươu hòa lẫn với tinh túy chất xạ hương, lại thêm một ít xương giống dị thú ở Nam Hải vào nên công dụng lại càng linh hiệu, nhiều cô con gái khao khát muốn dùng mà còn không được kia!"

Ta nên biết loại nhung hươu tính rất lạ, đàn ông uống vào thì thân thể càng thêm tráng kiện, nhưng con gái uống thì lại phát sinh tà niệm, không sao nén được. Tú Linh xưa nay chưa từng được trông thấy hay nghe thấy có thứ thuốc kì dị như thế bao giờ, nên mới dễ dàng mắc hợm.

Lúc này trong mình nàng tuy bứt rứt khó chịu nhưng đầu óc vẫn chưa mất hết trí khôn, bởi vì nàng còn là con gái nên đối việc trai gái, sự cảm thụ không mãnh liệt bằng đàn bà. Mộ Dung Phi đắc ý nhơn nhơn, đôi mắt đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào Tú Linh không chớp, miệng cười hì hì nói, "Phu nhân lúc này đã cảm thấy dễ chịu chưa? Qua lát nữa thì...hi hi..."

Mộ Dung Phi vốn tính gian hiểm nên tuy hắn đã tin tưởng mười phần, nhưng vẫn chưa dám khinh cử vọng động chỉ đứng xa xa mà ngó, thỉnh thoảng lại buông ra một câu cực kỳ thô bỉ, bẩn thỉu. Tú Linh đôi má càng đỏ, hơi thở càng gấp, đôi mắt long lanh đưa qua đưa lại, thốt nhiên kêu to một tiếng tiếng thân thể mềm như sợi bún, nằm phục xuống đất miệng không ngớt rên rỉ.

Mộ Dung Phi cả mừng xăm xăm chạy đến, bất đồ Tú Linh chợt nghiến chặt hàm răng, vươn mình phóng một chưởng vào giữa ngực hắn. Mộ Dung Phi trong lúc bất ngờ không kịp phòng bị, chỉ nghe "vù" một tiếng thân hình đã lộn đi tới mấy thước. Tú Linh lúc này sức tuy đã yếu nhiều, nhưng Mộ Dung Phi cũng vừa bị trọng thương chưa khỏi, lại thêm mấy hôm nay đi đường vất vả, nhịn đói nhịn khát nên chỉ vừa bị Tú Linh đánh một chưởng nhẹ, khí huyết của hắn đã sôi lên, xương cốt đau như tiện, bò dậy không nổi.

Tú Linh đánh xong một chưởng, thân thể cũng theo đà ngồi bật dậy, tay rút thanh trường kiếm chính là thanh kiếm của Mộ Dung Phi mà nàng đã đoạt được, gắng gượng đứng lên, lừ lừ đi lại phía Mộ Dung Phi, giơ kiếm toan chém. Hắn sợ quá vội kêu, "Phu nhân...đừng..."

Tú Linh đã giơ thanh kiếm lên nửa chừng, mũi kiếm lại tù từ chìm xuống, nàng chỉ cảm thấy trong mình như có hàng ngàn vạn con sâu con kiến đang lúc nhúc len lỏi trong các thớ thịt, đến nỗi không sao gắng gượng nổi, bàn tay bất giác cứng đờ ra rồi thanh kiếm rơi tuột xuống đất. Thân hình cũng ngã khuỵu xuống.

Mộ Dung Phi thở ra một hơi dài như vừa trút được gánh nặng. Lúc này hắn chỉ cầu lấy thoát thân, lại sợ Tú Linh giả vờ như thế để dụ địch, bèn len lén lùi ra mấy bước rồi gắng gượng quay mình chạy ra cửa miếu.

Nhưng vừa ra tới cửa miếu, hắn bỗng giật mình lùi lại mấy bước, ngã ngồi xuống đất. Thì ra hắn vừa trông thấy hai người mặc đồ đen, bịt mặt đang thủng thỉnh đi tới. Mộ Dung Phi vừa ngã xuống, hai người cũng vừa vào tới trong cửa. Bốn con mắt hau háu nhìn quanh một lượt, người bên trái tỏ vẻ đắc ý cười hì hì, "Thật không ngờ... không ngờ công lớn lại rơi vào tay anh em mình!"

Mộ Dung Phi lại thấy tinh thần phấn chấn, ưỡn ngực nói, "Các ngươi là ai? Giữ chức gì?"

Hai người áo đen lạnh lùng đáp, "Chúng ta là môn hạ Nam Cung thế gia!"

Hồi thứ ba mươi chín

Đường tuyết gian nan

Mộ Dung Phi đã đoán hai người này chức vị tất ở dưới mình nên lại càng tăng thêm can đảm, bèn lên mặt hống hách hỏi, "Các ngươi đã là môn hạ Nam Cung thế gia, sao trông thấy bản tọa lại không xưng danh báo chức?"

Hai người áo đen đưa mắt nhìn nhau rồi chợt cùng đưa tay lên, kéo mảnh khăn đen che mặt xuống. Mộ Dung Phi chú ý nhìn thấy người bên trái tuổi còn rất trẻ, mày rậm mắt to thủng thỉnh nói, "Trương Phong, thuộc hạ Địa Cương."

Người bên phải hơi lớn tuổi hơn, cười nói, "Vương Vĩnh Hào, môn hạ Địa Linh."

Mộ Dung Phi cười ha hả đứng phắt dậy, mới đầu hắn tưởng hai tên này là người trong "Thất thập nhị địa sát" đã biết rõ hành vi bất trung của hắn, nên theo dõi đến đây mới sợ hoảng hốt đến thế, lúc này biết mình đoán lầm trong bụng đã vững, bèn cười nói, "Hai ngươi đến đây để đón bản tọa phải không?"

Vương Vĩnh Hào cười hì hì nói, "Chính là đến đón các hạ và luôn tiện đưa các hạ quy thiên."

Mộ Dung Phi tái mặt nói, "Gì? Ngươi nói cái gì?"

Vương Vĩnh Hào nói, "Thượng cấp đã dặn rằng, bất cứ gặp các hạ ở đâu đều phải tiễn các hạ sang Tây Thiên tức khắc."

Mộ Dung Phi trừng mắt quát, "Hỗn láo! Bổn tọa một lòng tận trung với nhà Nam Cung thế gia cho tới giây phút này, lẽ nào thượng cấp lại dặn các ngươi như thế? Chắc các ngươi nghe lầm rồi!"

Vương Vĩnh Hào toét miệng cười nói, "Việc các hạ thượng cấp biết cả rồi, nếu không có các hạ dẫn đường thì hai người kia làm sao lại trốn tới đây được?"

Mộ Dung Phi chợt cười ha hả nói, "Dù cho thế nữa thì hai người dám đấu thử với mỗ chăng?"

Hắn cố làm vẻ cứng cỏi hách dịch, tỏ ra là mình vẫn uy phong như trước không ngờ gã họ Vương Vĩnh Hào lại cười sằng sặc nói, "Uy danh của ta so với Nam Hải Mộ Dung Phi cố nhiên cao thấp khác xa nhau lắm, nhưng trời cho đôi mắt ta không đến nỗi mù, nên ta coi tướng ngươi lúc này thật không đáng là địch thủ của ta!"

Hắn nói xong, hai thân hình vạm vỡ đã bước xấn tới hai bên Mộ Dung Phi. Mộ Dung Phi hốt hoảng vội đứng lên, nhưng lại ngã phịch ngay xuống. Hai gã áo đen đồng thời rút dao ra chém tới, Mộ Dung Phi chỉ kịp rú lên một tiếng thê thảm, máu tươi tức thì bắn tóe lên như mưa.

Hai gã áo đen cầm dao lau vào đế giày cho sạch máu, chợt nghe trong miếu có tiếng ú ớ nói mê và tiếng rên rỉ lúc đứt lúc nối đưa ra. Hai người cùng chú ý nhìn vào, chỉ thấy một gã thiếu niên ăn mặc lối thư đồng nằm cong queo dưới đất, hai mắt nhắm nghiền, hai bàn tay trắng nõn cứ ôm lấy bụng mà xoa, miệng luôn luôn rên rỉ, cuộc chém giết vừa rồi hình như gã không biết gì hết.

Tuy gã mặc quần áo đàn ông nhưng lúc này vì lăn lộn mãi dưới đất, vạt áo quấn chặt vào người, nên ai để ý nhìn cũng nhận ra đó là một người con gái. Vương Vĩnh Hào đôi mắt trợn tròn, miệng há hốc. Trương Phong cũng cảm thấy bứt rứt cả người, Vương Vĩnh Hào lắp bắp nói, "Chỉ...chỉ sợ đây...đây chính là Ngũ phu nhân nhà ta?"

Trương Phong chỉ ậm ừ không đáp. Vương Vĩnh Hào vội kéo tay hắn nói nhỏ, "Không được đâu, lỡ cấp trên biết thì chết!"

Trương Phong chợt giằng tay ra gắt, "Mặc kệ..."

Rồi hắn xăm xăm bước lại gần nàng. Vĩnh Hào quát to một tiếng, phi thân đá vào thân hắn một cái bằng trời giáng, Trương Phong đang lúc thần hồn như si như dại thốt nhiên bị một cái đá bất ngờ, thân hình bắn cao lên mấy thước. Hắn gầm lên một tiếng, lại toan xông vào. Vương Vĩnh Hào nói, "Ngươi đã muốn chết thì ta cùng chết một thể cũng được, nhưng ngươi định chiếm cả một mình thì không xong?"

Trương Phong giận lắm quát, "Đồ khốn! Ngươi phải nhường cho lão tử hưởng trước mới được!"

Vương Vĩnh Hào cười khảy, "Vì cớ gì ta phải nhường ngươi trước?"

Trương Phong đáp, "Vì cái này!"

Nói xong giơ tay thoi một quyền vào giữa ngực gã họ Vương. Gã họ Vương ngồi thụp xuống tránh được một quyền, rồi lại dùng thế "Thu phong tảo lạc diệp" chân phải xoay tròn đi một vòng, quét ngang hai chân Trương Phong. Trương Phong không tránh, chỉ giơ quyền lên dùng thế "Thiết ngưu canh địa" đánh xuống, "bịch" một tiếng quyền đã đánh trúng đầu vai của Vương Vĩnh Hào, đồng thời hai chân hắn cũng bị Vương Vĩnh Hào quét trúng, lập tức cả hai cùng ngã nhào xuống đất.

Hai gã áo đen toàn là chân nông phu chỉ quen đánh nhau bằng đòn cán, dao quắm. Lúc này chúng đã liều mạng một mất một còn đâu còn kể gì đến chiêu này thức nọ, nên đứng ngoài chỉ nghe thấy những tiếng đấm đá huỳnh huỵch, được cái da thịt họ đều dày dặn nên không ai đến nỗi bị thương.

Choảng nhau một lúc, cả hai đều thở hồng hộc như trâu, Vương Vĩnh Hào chợt quát to, "Dừng lại!"

Trương Phong vừa thở vừa nói, "Dừng cái gì? Cứ đánh nữa đi, ai sợ?"

Miệng tuy nói cứng, kỳ thực hắn cũng muốn dừng lại để thở một chút. Gã họ Vương nói, "Chúng mình có đánh nhau mãi dù có chết cũng chẳng được ích gì, bất nhược chúng ta đánh cuộc bằng cách sai quyền, xem ai trước ai sau có hơn không?"

Trương Phong nghe cũng có lý bèn nói, "Hừ, sai quyền thì sai, tay này đâu có sợ!"

Vương Vĩnh Hào gật đầu nói, "Nghe ta đếm. Một, hai, ba thì cả hai cùng bắt đầu."

Trương Phong nói, "Để ta nói. Một, hai, ba..."

Tayhắn vừa đưa ra, Vương Vĩnh Hào thốt nhiên giơ chân móc một cái làm cho hắn ngã ngửa người ra. Trương Phong giận lắm, chửi, "Đ... m..."

Tiếng chửi chưa thốt ra hết cửa miệng, Vương Vĩnh Hào đã cưỡi lên lưng y xiết tay vòng vào cổ, cười nói, "Đừng oán lão tử độc ác, chỉ nên oán ngươi dám đòi hưởng trước lão tử! Hà hà!"

Hai tay hắn dần dần xiết chặt, Trương Phong trước còn cố chống cự vùng vẫy sau mãi cũng đuối sức, tuy nhiên hai tay hắn vẫn quờ quạng dưới đất như muốn bấu víu lấy vật gì. Gã họ Vương Vĩnh Hào mồ hôi cũng đầm đìa đầy trán, nhưng trên môi vẫn nở một nụ cười đanh ác. Lúc này bên ngoài song cửa đã lờ mờ có tia sáng chiếu vào, làm cho bộ mặt tái xanh của gã càng tăng thêm phần hung dữ.

Trương Phong đang quờ quạng dưới đất chợt ngón tay chạm phải một vật gì lạnh lạnh, thì ra gã đã với được thanh kiếm. Gã mừng lắm nhưng hai tay gã lúc này đã cứng đờ, không nắm vững chuôi kiếm mà hai mắt cũng hoa lên, không trông rõ gì nữa. Gã họ Vương đưa tay lên vuốt mồ hôi trán, thở ra một hơi dài, mắt hắn hết nhìn cái thây ma nằm dưới đất lại nhìn Tú Linh, miệng nhăn nhở cười một cách cực kỳ khả ố.

Hắn vừa đứng lên bước lại chỗ Tú Linh, chợt nghe bên tai nổi lên một tiếng quát sẽ, tức thì cả cái thân hình lực lưỡng của hắn đã bị văng vào một góc tường miếu. Bức tường trát đất lâu ngày đã vữa hết vôi, lúc này lại bị thân thể hắn đập vào làm cho bụi đất rơi lả tả, hắn chỉ kịp rú lên một tiếng thảm thiết, máu tươi phun ra như suối nằm chết ngay đơ dưới đất.

Trong ánh sáng ban mai, chỉ thấy Nhâm Vô Tâm vẻ mặt hầm hầm đứng bên cạnh Điền Tú Linh, lồng ngực vẫn còn phập phồng thở dốc. Chàng không hiểu sao sự thể lại diễn biến nhanh đến thế? Chàng chỉ nhớ rằng chàng vừa ngủ một giấc dài, lúc tỉnh dậy thì thấy không những thời gian địa điểm đều biến đổi khác hẳn, mà sức khỏe của chàng cũng hồi phục một cách rất nhanh chóng. Chàng nhìn Tú Linh nằm lăn lóc dưới đất với mấy cái xác chết, trong bụng cũng hơi lờ mờ đoán được một vài phần.

Giữa lúc đó Tú Linh cũng vừa chợt tỉnh dậy, nhưng thần trí của nàng hình như vẫn còn lơ mơ, chưa nhận thức được hoàn cảnh rõ rệt. Vừa trông thấy Nhâm Vô Tâm nàng chợt đứng vùng lên, rồi bất thình lình nhảy vụt ngay vào lòng chàng. Vô Tâm giật mình kinh sợ, vội giơ hai tay đón lấy tay nàng. Lúc đó chàng mới nhận ra toàn thân nàng nóng bỏng như lửa, lại thấy hai gò má nàng đỏ ửng, miệng vẫn rên rỉ nói mê.

Chỉ trong thoáng chốc, Vô Tâm đã hoảng nhiên tỉnh ngộ, chàng kinh sợ nghĩ thầm, "Sao nàng lại uống phải thứ thuốc bậy này?"

Chàng vừa nghĩ vừa lấy tay điểm vào ba huyệt đạo của Tú Linh, rồi bế nàng đặt lên thần án chỗ chàng nằm ban nãy. Tú Linh tuy đã bị điểm huyệt nhưng đôi mắt của nàng vẫn đăm đăm nhìn chàng, nửa như ai oán nửa như van lơn, tựa hồ đang cố đè nén những nỗi thống khổ.

Vô Tâm chợt nghĩ, "Thứ thuốc này tất là của một trong ba cái xác nằm kia đã đánh lừa nàng uống. Vậy thì trong mình chúng tất có giải dược?" Chàng nghĩ vậy liền đi lại gần ba cái xác, thò tay vào mình chúng khám xét. Quả nhiên chỉ một lát sau, chàng đã tìm thấy một chiếc lọ bằng ngọc bích lục ở trong mình Mộ Dung Phi. Sau khi đưa lên mũi ngửi, chàng biết ngay đó chính là giải dược.

Mãi tới khi chàng đã mặc sống áo và thắt lưng lại cho Tú Linh tử tế, nàng mới từ trong giấc mộng si mê tỉnh dậy, đưa mắt nhìn quanh tưởng như mình vẫn còn ở trong mơ.

* * *

Núi Bàn Chủng vị trí ở phía Tây địa hạt Cam Túc đó là một nơi núi hiểm đá xấu, địa thế cheo leo, từ xưa đến nay rất ít người qua lại. Vào buổi chiều tà, trên con đường hẻm trong núi chợt có hai bóng người đi tới. Lúc này tuy đã vào tiết mộ xuân mà hai cái bóng vẫn mặc áo lông cừu, đội mũ lông điêu che gần hết nửa mặt.

Hai người đi một cách vội vàng hấp tấp, chẳng nói chẳng rằng đó là Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh, thì ra ngọn núi Bàn Chủng này chính là khu vực Tử Cốc. Vô Tâm đã được nghe Tú Linh kể hết những chuyện xảy ra mấy hôm trước, chàng vừa kinh sợ lại vừa lấy làm may mắn; nếu Mộ Dung Phi không đuổi kịp thì hai người đã không đến nỗi lâm vào vòng nguy hiểm, nhưng nếu không có hắn dẫn đường thì hai người lại khó lòng tới được Tử Cốc.

Càng đáng ngờ hơn nữa là lai lịch của người đàn ông cụt tay, người này không những hành tung quỷ bí, võ nghệ cao cường, mà hình như lại còn thông hiểu cả những thế võ của nhà Nam Cung thế gia nữa. Và ông ta với mình không quen thuộc sao lại chịu tổn hao chân khí, khẳng khái cứu mình như vậy?

Chàng đoán chắc thân thế con người bí mật đó tất phải có liên quan mật thiết với Tú Linh, nhưng việc này đầu dây mối nhợ còn nhiều phức tạp, trong một thời gian ngắn chưa thể phanh ra được. Điền Tú Linh thì chỉ băn khoăn không hiểu tại sao tiết trời đang ấm áp thế này mà Vô Tâm lại bắt mặc áo lông cừu đội mũ lông điêu? Tuy trong lòng nghi hoặc nhưng vì cuộc tai biến vừa qua, nàng vẫn chưa hết sượng sùng bẽn lẽn, nên trong lúc đi đường nàng chỉ lẳng lặng, không hề lên tiếng.

Hai người men theo đường núi đi ước chừng được hai dặm, tiết trời mỗi lúc một lạnh, hai bên vách núi đã thấy ngấm sương và hoa tuyết, đường đi cũng mỗi lúc một gập ghềnh, đang đi chợt thấy một vách đá sừng sững chắn ngang trước mặt, đỉnh núi cao chót vót sát tới tầng mây, trông không biết đến đâu là hết.

Vô Tâm chợt dừng lại nói nhỏ, "Cửa Tử Cốc ở trên vách núi, cách mặt đất tới năm sáu trượng, cô nương sửa soạn sẵn nhé!"

Tú Linh gật đầu. Vô Tâm hít một hơi dài lùi lại ba bước lấy đà, rồi nhảy vọt một cái, thân hình đã như con vượn bám vào vách đá leo lên. Chỉ trong chốc lát, trên núi đã thấy thả xuống một sợi dây thật dài, kế lại nghe tiếng Vô Tâm từ trên cao vọng xuống, "Lên đi!"

Tú Linh cũng bắt chước phương pháp của chàng nhảy lên níu lấy sợi dây. Tiếng rằng nhờ có dây đỡ sức mà lúc leo lên tới đỉnh núi, nàng còn phải thở dốc một hồi.

Cảnh vật nơi đây thật âm u kì dị, tước bích đến đây thì ăn lõm vào sườn núi phẳng, rộng ước hơn một trượng, cửa vào cốc cũng vuông chừng một trượng, bên ngoài có những tảng băng rắn như đá che lấp cả cửa hang. Có lẽ vì băng tích tụ đã lâu ngày nên đã ngả thành màu lam sẫm, càng tới gần càng lạnh buốt, nếu không thông thuộc đường lối quyết không ai có thể tìm ra được cái cửa đó.

Vô Tâm cuộn sợi dây cất đi rồi xăm xăm bước lên trước, tay giơ hỏa tập soi đường, trong màn sương u ám ánh lửa lại biến thành màu biếc xám. Tú Linh theo vào, chỉ thấy bên trong là một cái hang sâu, ngoài rộng trong hẹp thăm thẳm không biết đâu là đáy, hai bên vách núi cứng như sắt và có lẽ vì quanh năm sương gió thấm dầm, thành ra trên mặt đá có nhiều vết lở tróc, sần sùi như vảy cá, lúc này bị những lớp tuyết ngoài cửa hang phản ánh và bóng lửa chập chờn chiếu vào, cảnh tượng trông càng huyền ảo.

Ngẩng trông lên, chỉ thấy bốn bề vách đá bao bọc cao sát tới tầng mây, bên trên còn lờ mờ phủ một màn sương mỏng khiến cho người đứng bên trong, có cái cảm giác như đang đi xuống Hàn băng quỷ ngục ở dưới Cửu u. Tiếng gió rít lên va vào bốn vách đá dội lại nghe như tiếng ma gào. Tú Linh nghĩ thầm, "Nơi này gọi là Tử Cốc, thật là xứng đáng."

Đi sâu vào cốc chừng hơn mười trượng tiếng gió đã dịu bớt, nhưng khí lạnh lại càng tăng. Trong cốc địa thế tuy bằng phẳng nhưng chỗ nào cũng phủ đầy sương nên rất khó đi, mà bởi sương tuyết phủ lâu ngày biến thành khí lạnh xuyên thấu qua gót chân, đâm xuyên lên tới tim óc.

Đang đi chợt thấy một bóng người cầm thanh trường kiếm sừng sững hiện ra trước mặt, thân hình hơi cúi xuống thanh kiếm hơi đưa lên, hình như đang sắp sửa xông tới. Tú Linh giật mình vội đứng dừng lại, nhưng Vô Tâm vẫn thản nhiên làm như không trông thấy, cứ việc giơ cao hỏa tập rảo bước lướt qua. Tú Linh lấy làm lạ bèn cũng bước theo, khi đến gần mới nhận thấy cái bóng đó là một chàng thiếu niên, mình mặc toàn đồ gấm vóc thêu hoa rất nổi, thanh kiếm trong tay cũng sáng loáng như nước.

Nhưng khi nhìn kỹ mới biết rằng chàng thanh niên áo quần tuy còn mới nhưng người đã chết cứng tự bao giờ, mặt mũi đã co rúm lại băng dính đầy cả hai bên mép, bị ánh lửa chiếu vào trông lại càng dễ sợ. Tú Linh hoảng hốt rú lên một tiếng.

Vô Tâm vội nói, "Người này chết đã lâu năm, nhưng vì ở đây thời tiết lạnh quá nên thây không bị rữa nát."

Tú Linh hỏi, "Nếu chết đã lâu, sao không đem chôn đi?"

Nhâm Vô Tâm than rằng, "Hai vị tiền bối trong Tử Cốc hành động kì dị, mình không thể đoán được đâu! Các ngài để cái xác này ở đây có lẽ chỉ cốt làm cho cửa hang Tử Cốc tăng thêm phần khủng bố!"

Tú Linh sợ hãi nói, "Nếu vậy chắc bên trong còn nhiều xác nữa?"

Vô Tâm gật đầu rồi giơ cao cây hỏa tập rảo bước đi lên. Địa thế mỗi lúc một dốc, Vô Tâm phải từ từ đi chậm lại, đi được một quãng lại gặp mấy cái xác nữa. Những cái xác này đều giữ đúng tình trạng lúc chết, thân thể vẫn đứng thẳng, quần áo vẫn đẹp đẽ nhưng râu tóc đã rũ kín xuống tận cằm, khiến người trông thấy phải hết vía.

Tú Linh rùng mình, chợt cảm thấy trên trán lạnh buốt như dao cắt, nàng đưa tay lên xoa, bất ngờ những giọt mồ hôi của nàng đã đọng lại thành những cục băng nhỏ như hạt tấm. Ngẩng trông lên, cây hỏa tập trong tay Vô Tâm đã lụi dần hình như sắp tắt, nàng vội kêu, "Kìa, cây hỏa tập..."

Nàng nói ra mới biết giọng mình đã lạc hẳn đi, hai bên đứng cách xa ba thước dù có hét lên chắc cũng không nghe tiếng. Thì ra tiếng nói vừa buột ra khỏi miệng liền bị ngay khí lạnh kết lại, da thịt cũng tê cứng, dẫu có muốn trổ thuật khinh công cũng không đủ sức, hơn nữa nếu chân không bước cẩn thận, lỡ bị ngã xuống chắc cũng khó lòng bò dậy được.

Lại đi một lúc nữa, mới nghe tiếng Nhâm Vô Tâm vọng lại, "Đến đây là hết trường cốc, phía dưới là "Phong huyệt" tức là lớp cửa thứ hai của Tử Cốc. Huyệt này sâu hơn năm trượng, lúc này chắc cô nương không còn đủ sức nhảy vào nữa. Vậy cứ nhắm mắt lại rồi men theo vách băng mà tuột xuống, hoặc giả cứ nắm tay tôi mà bước lần đi, nhưng cũng phải cẩn thận lắm mới được vì lỡ trượt chân một cái thì khốn!"

Tiếng chàng nói lúc đứt lúc nối, rõ ràng là chàng đã phải gắng hết sức mới nói nổi được bấy nhiêu câu. Tú Linh thấy chàng tỏ vẻ tha thiết săn sóc tới mình, trái tim dường như cũng cảm thấy ấm áp đôi chút. Lúc này cây hỏa tập thốt nhiên đã tắt ngấm, trong bóng tối lạnh lùng Vô Tâm đã nắm chặt lấy tay nàng, lại nghe tiếng chàng nói, "Cô nương phải ngẩng mặt lên vận khí, đứng cho vững dựa lưng vào vách, thế được rồi, nào đi thôi!"

Tú Linh thấy bàn tay bị nắm chặt, thân hình không tự chủ được cứ thế trôi tuồn tuột xuống. Vô Tâm nói huyệt này chỉ sâu chừng hơn năm trượng chỉ cốt làm cho Tú Linh được yên tâm. Kỳ thực thì huyệt sâu tới hai chục trượng và từ trên xuống dưới đường đi dốc ngược, băng đóng rất dày và trơn không còn chỗ nào để chân được nữa.

Tú Linh cố giữ thân hình cho vững nhưng lại không sao dằn nổi tính tò mò, sẽ hé mắt ra trông, lúc này hai người đã đi được quá nửa đường, đám sương mù trước mặt đã dần dần loãng bớt cảnh vật bốn bề cũng đã dần dần trông tỏ. Xuống tới nơi này còn lảo đảo bước lạng đi mấy bước, Vô Tâm phải kéo lại mới đứng yên được.

Nơi đây là một cái huyệt sâu chu vi rộng chừng hơn mười trượng, trước mặt là một sườn núi cao chót vót hình thế cheo leo hơi ngả về phía trước, che mất quá nửa nóc huyệt trên sườn núi lởm chởm những hòn quái thạch, hình giống như những loài ác thú thời tiền cổ nhe nanh giơ vuốt như chực cắn người, lại hình như sắp rơi cả xuống huyệt địa thế cực kỳ hiểm trở.

Hai bên vách băng cũng cao chót vót lên mấy trăm trượng mới dựa vào sườn núi, chỉ còn để chừa một khoảng rất hẹp ở chính giữa. Đứng dưới nhìn lên chỉ thấy một luồng ánh sáng len qua khe hở chiếu vào trong huyệt. Tú Linh tới đây mới cảm thấy những cảnh thần kỳ của tạo hóa, thân mình chỉ nhỏ bằng con sâu cái kiến.

Trên mặt đất hạt sương đọng lại như hoa tuyết, địa thế bằng phẳng vòng quanh khu đó còn có một hàng lan can bằng đá, cao chừng bảy tấc gồm mười tám cây cột đá, trên cột khắc những cảnh khổ não trong mười tám tầng địa ngục, lúc này dưới ánh sáng ảm đạm tuy trông không được rõ lắm, nhưng nhờ bóng tối bút pháp lờ mờ bút pháp lại trở nên linh hoạt như thực.

Chính giữa hàng lan can có một cây cột đồng thân to bằng chiếc chén uống rượu, cao hơn đầu người cắm sâu vào tảng đá, sắc đồng óng ánh màu biếc sẫm, nhác trông cũng biết vật này ít nhất cũng được trên một trăm năm. Tú Linh đưa mắt nhìn qua cảnh vật một lượt, trong bụng không khỏi run sợ sẽ hỏi Vô Tâm, "Đây có phải là Tử Cốc không? Sao không thấy hai vị tiền bối?"

Vô Tâm nghiêm nghị đáp, "Hai vị tiền bối kỳ nhân tuy cùng ở trong Tử huyệt, nhưng chỗ tĩnh tu của các ngài lại không ở một chỗ, chỉ có ngày Sóc ngày Vọng mới gặp nhau mà thôi."

Ngừng một lát, chàng lại tiếp, "Hai vị lão nhân gia một vị ở phía trên sườn núi trong một cái động cao nhất, còn một vị lại ở sâu thẳm dưới lòng đất. Mỗi lần tôi muốn cầu kiến, lại gõ vào cái cột đồng kia báo hiệu."

Tú Linh hỏi, "Gõ vào cột đồng người ở trên sườn núi có thể nghe thấy đã đành, còn người dưới đất làm sao nghe thấy được?"

Vô Tâm đáp, "Cây cột này dài tới mấy trượng, một phần lớn chôn sâu dưới đất đến tận chỗ giường nằm của lão nhân gia, ta chỉ cần gõ vào đầu gậy bên này là người ở đầu gậy bên kia sẽ biết ngay tức khắc."

Chàng ngưng một lát rồi lại tiếp, "Nhưng chúng ta đến đây hôm nay thật không may lại gặp phải kỳ hai vị kỳ nhân đang tọa quan. Không biết đến bao giờ mới được tiếp kiến?"

Tú Linh giật mình nghĩ thầm, "Nếu phải ở đây chờ mấy ngày thì không khéo chết cóng mất!" Nàng đang nghĩ vẩn vơ đã thấy Vô Tâm nhảy qua hàng lan can, dùng hai ngón tay sẽ gõ lên cột đồng mấy tiếng. Tức thì cột đồng ngân lên những tiếng như tiếng chuông, hồi âm vang vang khắp động, mãi mãi không dứt.

Một lát sau tiếng chuông dần dần yên lắng mà Tú Linh vẫn còn nghe thấy những tiếng "coong coong" ở trong tai. Nhưng trên sườn núi và dưới đất vẫn yên tĩnh như tờ, tuyệt không có tiếng ai đáp lại.

Tú Linh cau mày buột miệng than, "Chúng ta không may thật!"

Vô Tâm mỉm cười, chỉ một tảng đá tròn ở trước mặt nói, "Hòn đá này chất nó giống như một loại "Ôn ngọc" ở núi lửa, vậy nên trời lạnh thế này mà băng sương không thể đọng được. Ta tạm dùng nó làm giường nằm cũng có thể đỡ rét."

Tú Linh cúi xuống nhìn quả thấy chất đá đẹp như ngọc, sờ tay vào tuy không thấy ấm nhưng cũng đến nỗi lạnh như những tảng đá khác. Hai người cùng ngồi trên tảng đá xếp bằng tròn dưỡng thần. Một lúc lâu Tú Linh sẽ mở hé mắt ra, cảnh vật lúc này trông đã rõ hơn ban nãy. Nhãn quang của nàng chợt chạm phải cây cột đá trước mắt, trên cột vẽ cảnh rút lưỡi trong tầng địa ngục thứ bảy.

Chỉ thấy mấy tên quỉ đầu trâu mặt người cười một cách độc ác, mặt mũi vênh váo nom rất dễ sợ, ngục này chuyên trừng trị những kẻ lừa đảo thuyết khách, đàn ông bạc tình đàn bà lắm điều, những người này đều quì la liệt dưới đất. Người thì đang hả miệng kêu, kẻ thì đang dập đầu xin tha mạng thần tình y hệt như thực.

Tú Linh tuy không muốn nhìn nhưng con mắt vẫn không sao dời ra chỗ khác được. Mà càng trông nàng càng cảm thấy rợn tóc gáy, bên tai tưởng như nghe thấy cả tiếng quỉ gào. Nàng rùng mình bất giác ngồi nhích lại gần Vô Tâm. Giữa lúc ấy Vô Tâm cũng vừa mở mắt ra nhìn nàng, mỉm cười hỏi, "Cô nương thấy dễ chịu chưa?"

Tú Linh đỏ mặt, gượng cười đáp, "Cũng hơi dễ chịu!"

Vô Tâm lại nhắm mắt nhập định. Tú Linh cũng nghiêng mình vừa định nằm xuống một lát, bất đồ chính giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng sắt khua loảng xoảng và tiếng xích sắt kéo lê từ ở dưới lòng đất đưa lên, và trong đó hình như xen lẫn cả tiếng thở dài, nghe thật thê lương ảo não.

Thoạt đầu Tú Linh còn tưởng là mình xem những bức hình kia mà phát sinh ảo tưởng, nhưng khi nàng áp tai xuống đất nghe lại càng rõ hơn. Hình như dưới đó có không biết bao nhiêu oan hồn đang đi đi lại lại than thở, cố nghiến răng chịu đựng để khỏi thốt ra những tiếng kêu gào.

Chỉ trong chớp mắt nàng cảm thấy một luồng hơi lạnh đang từ gan bàn chân xông lên tới xương sống, bất giác làn nhỡn quang của nàng lại dính vào cây cột đá. Nàng sợ run lên cầm cập, buột miệng rú lên một tiếng rồi nhảy về phía Nhâm Vô Tâm.

Vô Tâm giật mình mở choàng mắt ra hỏi, "Cô nương làm sao thế?"

Tú Linh ngồi dựa vào lòng Vô Tâm, tay trỏ xuống đất nói bằng một giọng run run, "Tướng công nghe... nghe xem tiếng gì ở dưới này?"

Vô Tâm lắng tai nghe ngóng một lúc rồi lắc đầu, "Có tiếng gì đâu?"

Tú Linh ngẩn người ra lại áp tai xuống đất, quả nhiên không nghe thấy tiếng gì nữa. Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Nếu cô nương có lạnh thì hãy khoác thêm cái áo của tại hạ cho ấm!"

Tú Linh từ trong lòng chàng nhảy ra lạnh lùng nói, "Cảm ơn công tử tôi không rét!"

Nàng vừa thẹn vừa giận, tự nghĩ, "Có lẽ hắn cho là ta cố ý bịa đặt ra chuyện ấy để lấy cớ ngồi gần hắn chăng?" Nàng giận dỗi ngồi ra phía sau, định bụng hễ còn nghe thấy cái tiếng ấy nữa sẽ lôi chàng dậy cho chàng nghe.

Lại qua một lúc lâu, cái tiếng kỳ quái vừa rồi không còn nghe thấy nữa, mà chỗ khe trống trên đỉnh sườn núi cũng đã thấy ánh sáng mặt trời hắt vào trong huyệt, cái bóng đen của cây đồng trụ cũng đã dịch sang cái cột đá chỗ Nhâm Vô Tâm ngồi. Cây cột đá này chính là chỗ Tú Linh vừa ngồi ban nãy, trên khắc cái thảm cảnh rút lưỡi trong địa ngục. Nhưng lúc này bóng tối đã mất, hơi lạnh đã giảm bớt, những nỗi sợ hãi của Tú Linh cũng không còn nữa.

Đang lúc nàng ngẫm nghĩ tức cười vì những sự hãi hùng đêm trước, thì chợt nghe dưới đất nổi lên một tiếng "cạch" nho nhỏ, chiếc cột đá bị bóng tối bao trùm thốt nhiên chuyển động. Tú Linh vừa toan đánh thức Vô Tâm, nào ngờ chàng đã đứng bật dậy sẽ nói, "Hai vị lão nhân gia đã hết thời kỳ bế quan. Cô nương sắp được gặp người rồi đó."

Chàng nói chưa dứt cây cột đá đã ngả sang một bên, trên đầu cột chợt hiện ra một cửa động tối om om. Cây cột này nguyên đã lớn bằng người ôm nên miệng động cũng vừa đủ một người chui lọt. Chợt lại nghe phía dưới chân cột một giọng già nua, xa xôi văng vẳng đưa lên, "Phải Vô Tâm tới đó không?"

Vô Tâm cung kính đáp, "Dạ phải!"

Cái giọng già nua lại đưa lên, "Xuống đi!"

Vô Tâm sẽ kéo áo Tú Linh chưa kịp lên tiếng, chợt lại nghe một giọng già nua khác từ trên sườn núi văng vẳng đưa xuống, "Đứa con gái cùng đi với ngươi là ai thế?"

Giọng nói tuy nhỏ như sợi tơ bay nhưng cũng nghe rõ cái ý giận dữ. Vô Tâm hơi rùng mình, gượng cười đáp, "Vị cô nương đây tuy là đệ ngũ đại phu nhân trong Nam Cung thế gia, nhưng... nhưng..."

Chàng ấp úng mãi không tìm được câu đáp, phía trên đã nghe tiếng cười nhạt hỏi, "Nhưng thế nào?"

Vô Tâm ngập ngừng đáp, "Nhưng nàng đã mấy lần cứu mạng cho tiểu bối, lại bị Nam Cung phu nhân bức bách không chỗ dung thân, vì thế tiểu bối đưa nàng lại đây cầu kiến hai vị lão nhân gia, sau đó sẽ liệu khu xử."

Trên sườn núi chỉ nghe "hừ" một tiếng rồi không thấy nói gì nữa. Vô Tâm vì cớ tôn kính "Tử Cốc nhị kỳ" nên khi mới tới chân núi, chàng và Tú Linh đã tìm cách trừ bỏ những nét dịch dung trên mặt. Lúc này Tú Linh thấy sắc mặt chàng đầy vẻ băn khoăn áy náy, mới biết chàng đem mình tới đây quả là một việc cực kỳ mạo hiểm, liều lĩnh.

Trong phút chốc, nàng chợt cảm kích chàng vô hạn liền nói to lên rằng, "Vãn bối đến đây chỉ cầu được bái kiến hai vị lão tiền bối một lần, quyết không dám làm rộn chỗ thanh tu của hai vị và thề không bao giờ dám tiết lộ những sự có liên quan nơi đây. Nếu hai vị lão tiền bối vì cớ đó mà trách Nhâm tướng công thì vãn bối xin tình nguyện rút lui ngay, không dám ân hận gì cả."

Chợt nghe vị lão nhân dưới đất thở dài nói, "Ngươi đã đem nàng đến đây thì thôi cũng được."

Nhưng trên sườn núi lại nổi lên một tiếng cười nhạt nói, "Đã vậy, ngươi hãy lên đây một mình để ta hỏi."

Vô Tâm nhìn Tú Linh nói sẽ, "Chờ đây một tí, mà đừng có làm gì nhé!"

Tú Linh vừa gật đầu, Vô Tâm đã nhảy vọt lên sườn núi bên trái. Nàng đưa mắt nhìn theo, thấy trên sườn núi có rất nhiều cột băng, có thể đứng vào đó mà leo dần lên được. Nhâm Vô Tâm trèo lên những cột băng đó, người mỗi lúc một nhỏ dần. Lên tới hơn mười trượng thân hình chàng chợt biến mất. Lúc này cảnh vật xung quanh lại yên lặng như tờ.

Thốt nhiên cái giọng ông già ở dưới đất lại văng vẳng đưa lên, "Nghe Nhâm Vô Tâm nói thì chắc ngươi là vợ góa của Nam Cung Thọ phải không?"

Tú Linh giật mình, kính cẩn thưa, "Thưa vâng ạ!"

Tiếng nói dưới đất lại đưa lên, "Ngươi đã nhờ Nhâm Vô Tâm đưa tới đây, chắc trong bụng có sở cầu điều gì? Nhưng lão phu nói trước cho mà biết, vô luận ngươi muốn cầu điều gì tất cũng phải có điều kiện trao đổi."

Tú Linh ngần ngừ một lát rồi nói, "Dù vãn bối không cầu xin việc gì nhưng lão tiền bối có việc muốn sai khiến, vãn bối cũng xin tuân lệnh."

Người dưới đất cười nói, "Không ngờ ngươi lại lanh lợi như vậy? Có lẽ những tính ấy đều do Tổ bà của ngươi truyền cho ngươi chăng?"

Giọng cười lạnh như băng thép khiến người nghe cũng phải rợn tóc gáy, Tú Linh không biết đáp lại làm sao. Chờ một lúc không thấy tiếng nói đưa lên nữa, nàng mới ngồi xếp bằng tròn, ngẩng lên trông trời.

Chờ mãi tới trưa mới thấy Nhâm Vô Tâm xuất hiện ở trên sườn núi, thân hình chàng nhẹ nhàng như một cánh chim tà tà bay xuống chỗ có những cây cột băng, lúc ấy mới dừng lại hít hơi một lần nữa đoạn phơi phới nhảy xuống, thân pháp cực kỳ đẹp mắt. Tú Linh thấy thế biết là công lực của chàng đã hồi phục như cũ, trong bụng cũng được an ủi lại thấy sắc mặt của chàng có vẻ tươi tỉnh nhẹ nhõm, bất giác mỉm cười vừa toan cất tiếng hỏi, chàng đã xua tay nói, "Tôi còn phải xuống dưới này một lúc đã."

Nói dứt lời chàng đã chui vào địa huyệt, Tú Linh đành chỉ đưa mắt nhìn theo, nhẫn nại ngồi chờ. Nhưng lần này Vô Tâm chỉ vào huyệt một lát lại ra ngay, nói với Tú Linh, "Con đường này vừa hẹp vừa tối, cô nương đi cẩn thận nhé!"

Chàng vừa nói vừa cầm tay nàng kéo đi, trong huyệt quả nhiên tối mò mò, không trông thấy gì cả. Tú Linh chỉ nghĩ tới lát nữa nàng sẽ được nghe những điều bí mật có liên quan đến đời nàng, do chính miệng vị kỳ nhân trong động nói ra mà đã thấy lòng mừng khấp khởi, nên không còn để ý đến quang cảnh bên ngoài nữa.

Thoáng chốc đã ra khỏi con đường địa đạo tới một gian thạch thất, vuông vắn chừng hơn một trượng. Trong nhà chỉ có một chiếc giường, một chiếc bàn và một cái hỏa lò bằng đá nho nhỏ. Cách trần thiết cực kỳ giản đơn, bên cạnh giường còn có một cánh cửa hẹp. Tú Linh trông khắp bốn phía không thấy ai cả, chắc là vị lão nhân ở bên trong cánh cửa đó.

Nhâm Vô Tâm kính cẩn lên tiếng cầu kiến, bên trong cửa có tiếng đưa ra, "Cứ vào!"

Tú Linh hồi hộp theo Vô Tâm bước vào trong cửa, đầu cúi gầm xuống không dám nhìn lên. Chợt nghe tiếng ông già hỏi, "Đây là Điền cô nương ư?"

Giọng nói rất ôn hòa, không có vẻ gì là hung ác. Tú Linh "dạ" một tiếng rồi ngẩng đầu lên, thấy gian thạch thất này hình bát giác bề rộng cũng như gian ngoài, cách trần thiết cũng không kém phần giản đơn. Trên chiếc giường đá trước mặt, có một vị lão nhân tóc bạc phơ phơ ngồi xếp bằng tròn, mình mặc chiếc áo rộng chế bằng các loại da thú ghép lại, mắt đang đăm đăm nhìn nàng.

Hồi thứ bốn mươi

Thạch lao

Tú Linh liếc mắt trông trộm, thấy diện mạo ông già cũng chẳng khác gì những ông già tầm thường mấy tý, lòng kính sợ cũng giảm bớt vài phần. Nàng hơi thất vọng, nhưng cũng quỳ xuống thi lễ, thưa rằng, "Vãn bối Điền Tú Linh tham kiến tiền bối."

Ông già gật đầu nói, "Ngươi đến đây vì việc gì ta đã biết rồi, nhưng lúc này ta vẫn chưa tiện nói rõ. Ngươi ráng chờ hai hôm nữa hãy hay."

Nàng vừa đứng lên, ông già lại nói, "Ngươi đã gặp lão phu, vậy hãy ra ngoài chờ đợi lúc nào Vô Tâm xong việc, sẽ đưa ngươi về."

Tú Linh không biết nói sao, đành hướng vào lão nhân và vái một cái rồi tức khắc quay ra.

Ra tới căn phòng ngoài, nàng đua mắt nhìn quanh, thấy bốn bề tối tăm lạnh lẽo, lại cảm thấy thân mình tứ cố vô thân, đi đến đâu cũng bị ngươi hắt hủi, bất giác hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, rồi ngả mình nằm xuống chiếc giường đá.

Thốt nhiên nàng lại nghe cái giọng ồ ồ của ông già cất lên sau cánh cửa hẹp, "Ít lâu nay, hành động của ngươi ở bên ngoài, ta tuy không biết tường tận, nhưng nhất định là thiếu sự cẩn thận, dù hôm nay ngươi đem người con gái đến đây thì đủ hiểu. Có lẽ ngươi không nghĩ rằng người ấy rất có thể là gian tế của nhà Nam Cung thế gia, cốt theo ngươi tới đây để xem xét những sự bí mật của ta chăng?"

Tiếp theo đó là tiếng đáp của Nhâm Vô Tâm. Nhưng chàng nói nhỏ quá, cố lắng tai nghe cũng không rõ. Có thể đó chỉ là những lời biện hộ cho nàng.

Lại nghe tiếng ông già hừ một tiếng rồi nói, "Thôi đừng nói nữa! Chả lẽ với sự hiểu biết của ta lại không bằng ngươi sao?"

Tú Linh nghe đến đây trong bụng lại càng uất ức, khó chịu. Kế đó lại thấy hai người bàn sang chuyện khác.

Tú Linh nghe Vô Tâm báo cáo với ông già những mưu mô sắp đặt của mình, bất giác cũng giật mình kinh sợ. Nàng cũng biết Vô Tâm là một bậc kỳ tài nhưng không ngờ sách lược của chàng lại tinh tế chu mật đến thế. Bà tổ nàng lại độc ác khôn ngoan, cũng chưa chắc phen này đã thắng nổi chàng. Kế lại nghe chàng hỏi, "Vũ công của Nam Cung phu nhân hiện nay đã vào bậc kinh thế hãi tục, phen này bà ta lại bế quan tu luyện, thì bọn tiểu tử làm sao mà đối địch nổi? Vả lại đến bây giờ trong giới giang hồ cũng chưa ai biết môn vũ công bà ta luyện là môn gì?"

Lão nhân cười nhạt nói, "Thế gian vạn vật có tương sinh tương khắc, công phu nào có người luyện được, thì tất cũng có người phá được, ngươi đừng lo."

Tú Linh còn đang lắng tai nghe, chợt thấy lão nhân quát, "À, to gan thật, dám nghe trộm à?"

Tiếp theo đó, chỉ nghe sầm một tiếng, hai cánh cửa đã đóng sập lại. Tức thì trong gian thạch thất lại tối đen như mực.

Tú Linh vừa sợ vừa giận, định đứng lên tìm lối ra ngoài nhưng khi sờ tới chỗ cánh cửa, chỉ thấy là một phiến phẳng lỳ, không còn dấu vết gì nữa, cả cánh cửa vào phòng lão nhân cũng vậy.

Tú Linh run sợ nghĩ thầm, "Lão thấy ta nghe hết việc bí mật nên định giết ta để diệt khẩu. Nhưng chả lẽ Nhâm Vô Tâm lại yên lòng để ta chết đói chết rét ở đây ư?"

Nghĩ một lúc, nàng lại tự nhủ, "Nhưng Nhâm Vô Tâm đối với ta có tình ý gì đâu? Hắn chỉ lo tìm mưu tính kế để trừ nhà Nam Cung thế gia, còn ngoài ra không hề để ý việc gì nữa... Hắn sở dĩ đem ta đến đây, chẳng qua chỉ là để lợi dụng ta... Vả hắn sợ lão già kia như cọp, khi nào còn dám mở miệng xin cho ta nữa?"

Nàng vừa tự trách mình, vừa oán hận Vô Tâm, lúc đau đớn, lúc thì giận dữ, tâm trạng rối bời.

Thời gian không biết trải qua bao lâu, Tú Linh nhẩm tính có lẽ đã đến ba bốn ngày, trong ba bốn ngày ấy, nàng vừa đói vừa khát, vừa lạnh vừa rét. Nếu trong lòng nàng không mong manh một tia hy vọng là thế nào Nhâm Vô Tâm cũng đến cứu mình thì nàng có lẽ đã cắn lưỡi chết từ lâu.

Nhưng càng mong mỏi mắt, tia hy vọng mỗi lúc một tan dần, nếu quả Nhâm Vô Tâm có ý cứu nàng thì sao để lâu đến thế? Vả dù chàng không cứu được thì ít nhất cũng phải tìm cách gì thông tin cho nàng yên tâm chứ.

Nàng càng nghĩ càng đau đớn, nước mắt chảy dòng dòng, bất giác ngửa mặt lên trời lẩm nhẩm nói, "Nhâm Vô Tâm ơi! Phen này ta chết về tay ngươi, ta chỉ tự oán hận mình, nhưng sau khi ta hóa thành lệ quỉ thế nào ta cũng báo thù."

Nàng vì yêu mà thành thù, vì đau thương mà thành oán hận, nên giọng nói đầy vẻ đau đớn xót xa.

Nàng nức nở một lúc rồi lại nói, "Bà Tổ ơi, cháu thật có lỗi với Bà Tổ, nhưng cháu chết đi thế nào cũng hóa thành lệ quỉ giúp lão nhân gia một tay làm cho những kẻ tự xưng là nhân nghĩa đạo đức đều chết trong tay bà tổ mới hả."

Nàng nói đến đây thốt nhiên tung mình nhảy lên, đầu va ngay vào hòn đá trên trần nhà. Trong bóng tối không biết có máu phun ra hay không nhưng thân hình nàng đã mềm nhũn, rồi ngã nằm sóng sượt dưới đất.

Ước chừng một lúc không lâu, trên vách đá chợt nứt ra một khe nhỏ, rồi một bóng ngươi lách mình đi vào. Chỗ khe đá nứt không phải là hai cánh cửa lớn vừa rồi, nên bóng tối vẫn mờ mờ, không trông rõ bóng người mới tới, chỉ biết hắn có vẻ thông thuộc đường lối, nên không phải sờ soạng lần mò, đi được vài bước, hắn dừng lại lấy cây hỏa tập trong mình châm, nhưng ánh lửa chỉ lóe lên rồi tắt ngay.

Nhưng trong giây phút đó cũng đủ cho ta nhận rõ, đó là một ông già thân thể cao lớn, râu tóc bạc phơ, trong khi cử động xem võ công có vẻ bình thường, nhưng tuyệt không phải là ông già mà Tú Linh gặp hôm vào động.

Ông ta nhờ ánh lửa lóe lên đã trông rõ chỗ Tú Linh nằm, bèn vội cúi xuống ôm xốc nàng lên, rồi hấp tấp lùi ra khỏi thạch thất.

Vách đá hở lại khép lại như cũ, bên ngoài cũng tối đen như mực, chợt nghe một giọng lạnh lùng cất lên hỏi, "Không ngờ con gái mà tính khí cũng cương liệt như vậy, hãy xem nàng còn sống hay chết? Nếu còn sống thì chữa chạy ngay đi, sau này còn có việc dùng tới."

Người đàn ông này sờ tay bắt mạch cho Tú Linh rồi nói, "Không những chưa chết mà vết thương cũng không lấy gì làm nặng lắm. Có lẽ vì nàng đã đuối sức lâu rồi."

Cái giọng lạnh lùng lại cất lên, "Thôi được, thế cứ đặt nàng xuống đây là được rồi."

Người đàn ông có vẻ kinh ngạc hỏi, "Để nàng ở đây, thế lỡ nàng phát giác sự bí mật thì sao?"

Người trong bóng tối cười ha hả nói, "Ngươi thì biết cái gì, chính ta muốn để cho nàng biết những bí mật đó. Thôi, ngươi đi làm cơm đi, nhớ nấu cho... tướng công một bát thạch giải vì hắn thích món ấy lắm."

Người đàn ông vâng lời, đặt Tú Linh xuống đất rồi khúm núm đi ra, thoáng chốc đã hòa mình vào trong bóng tối.

Qua một lúc lâu, Điền Tú Linh chợt cựa mình rên rỉ, thì ra nàng đã từ trong hôn mê dần dần hồi tỉnh.

Nàng cố gượng xoay ngươi lại chợt cảm thấy trên đầu đau như búa bổ, trong tai chỉ nghe tiếng gió ù ù, mà lúc trước nằm trong thạch thất không hề nghe thấy, nàng lấy tay sờ xuống đất, cũng không thấy nền đá nữa, quả thật nơi nàng nằm đây không phải là thạch thất.

Nàng chợt rùng mình, nghĩ thầm, "Hay là ta chết rồi nên oan hồn bay đến đây chăng?"

Giữa lúc ấy, nàng lại nghe có tiếng khóa xích sắt kéo lê sền sệt trên mặt đất. Những tiếng đó nghe rất mơ hồ, lúc đứt, lúc nối nhưng cũng đủ để cho ngươi nghe rợn tóc gáy.

Tú Linh cau mày thầm nhủ, "Có lẽ đây là địa ngục cũng nên? Mình đã liều chết, còn sợ gì nữa? Ta thử đứng lên đi xem những tiếng ấy ở đâu mà ra?" Nàng liền lập tức đứng lên sờ soạng đi lần về phía trước. Địa thế nơi này tuy gập ghềnh khó đi, được cái ít lâu nay nàng đã tập quen với những con đường hẻm núi, nên cũng không lấy gì làm khó khăn lắm.

Cái tiếng khóa sắt càng lúc càng rõ, dần dần nàng còn nghe thấy cả tiếng rên rỉ, Tú Linh lại chợt nhớ đến hôm đầu tiên đến tử cốc, nàng áp tai xuống đất, cũng nghe thấy những tiếng giống hệt như thế. Thì ra nơi đây vẫn còn ở trong tử cốc.

Tú Linh chợt nảy tính tò mò, rảo bước tiến mau hơn. Chợt trông thấy trước mặt có ánh sáng lờ mờ rọi lại. Ánh sáng tuy cực kỳ yếu ớt, nhưng cũng đủ cho nàng nhận thấy đây là một căn động vừa hẹp, vừa dài, bốn mặt quái thạch chìa ra như răng ma.

Lúc này nàng đã nghe rõ trong những tiếng khóa sắt lệt sệt, và những tiếng rên rỉ đó còn có lẫn cả tiếng chân bước nặng chình chịch.

Nàng đi được chừng ba bốn trượng thì đến cuối động, trên vách đá có gắn một chiếc đèn bằng đồng, ánh sáng ảm đạm, bầu đèn lâu ngày đã hoen rỉ.

Dưới ngọn đèn có một cánh cửa sắt, những tiếng xích sắt va chạm, và tiếng rên rỉ đều ở bên trong cửa vang ra. Trên cánh cửa có buộc một sợi xích sắt rất lớn, khóa bằng đồng, chìa khóa treo ngay ở trên sợi dây xích. Ngoài ra bên trên cửa, còn khắc bốn chữ "Vong nhập giả tử" lớn tướng.

Tất cả bấy nhiêu thứ hợp lại, rõ ràng là một cửa địa ngục không sai, Tú Linh lúc này đã quyết liều một phen, nên không biết sợ là gì, cầm ngay chiếc chìa khóa, mở cửa ra.

Nàng phải tốn nhiều hơi sức mới mở được cánh cửa sắt khổng lồ nhích ra một chút.

Tiếng mở cửa vừa ken két nổi lên, tức thì những tiếng dây sắt kéo lê, tiếng bước chân huỳnh huỵch và cái tiếng rên rỉ bên trong cũng đồng thời im bặt.

Tú Linh lách mình bước vào, thốt nhiên giật mình lùi lại mấy bước, đăm đăm nhìn về phía trước.

Ánh đèn trong phòng còn tối hơn ánh đèn ngoài cửa, không khí cực kỳ lạnh lẽo âm thầm. Nhưng trong phòng trống rỗng không có ai cả.

Nàng cố lấy can đảm, đằng hắng một tiếng rồi hỏi, "Có ai trong này không? Ra cho tôi hỏi một tý."

Nàng hỏi luôn ba bốn câu, không có tiếng ai đáp lại, Nàng đánh liều giơ hai tay lên chặn ngực, rồi từ từ tiến vào.

Vào tới giữa phòng, trông khắp bốn phía cũng không thấy gì lạ, thốt nhiên nghe phía sau nổi lên một tiếng "cách" nhỏ, nàng giật mình vội quay đầu lại, chỉ thấy một ngươi đầu tóc rũ rượi, che gần kín khuôn mặt, trông như một cái thây ma, khắp mình đều trói bằng dây sắt, đang định xông lại phía nàng, nhưng hắn vừa cựa mình, chiếc xích sắt đã va xuống đất cành cạch, nên mới bị Tú Linh nghe thấy.

Nàng trông hình dạng ngươi ấy, bất giác kinh sợ dựng đứng người ra, hai chân mềm nhũn, cơ hồ lê đi không nổi.

Người lạ nhìn trừng trừng vào mặt nàng giây lâu không chớp, thân hình cũng đứng sững như pho tượng gỗ. Tú Linh định thần một lúc, rồi hỏi bằng một giọng run run, "Ngươi... ngươi là người hay ma? Và đây là đâu?"

Người kia hình như cũng ngạc nhiên vì câu hỏi của nàng, một lúc mới thủng thỉnh nói, "Ngươi trông ta giống người hay ma? Ngươi nhận thấy nơi đây có phải là nhân gian không?"

Tú Linh sửng sốt, nàng nghe giọng nói của hắn vừa khô khan vừa the thé như tiếng quỷ khóc. Tú Linh không sao tự chủ được, bất giác lùi lại mấy bước. Người đàn ông cười khanh khách nói, "Đây chính là quỷ vực mà ta đã lâu lắm không được ăn gan người sống, hôm nay bỗng dưng ngươi lại dẫn xác đến để ta chén một bữa cho khoái khẩu."

Hắn vừa cười nói vừa kéo lê xích sắt tiến dần về phía Tú Linh. Tú Linh sợ quá, khắp mình nổi gai ốc lên, chân cứ lùi dần về phía cửa.

Gã đàn ông tuy đeo xích sắt đầy mình, nhưng còn nhanh nhẹn hơn nàng, hắn nhảy một bước chắn ngang lối đi, hai tay giơ ra, miệng nhăn nhở cười nói, "Ngươi đã vào đây lại còn muốn chạy à?"

Tú Linh vừa sợ vừa tức, giơ tay phóng một chưởng vào giữa ngực gã đàn ông, nhưng sức lực của nàng lúc này đã yếu quá, nên chiêu thức không đủ để làm hại người.

Gã đàn ông thấy vậy vội cầm xích sắt giơ ngang lên đón lấy chưởng phong.

Tú Linh lùi lại một bước, phóng luôn ra ba chiêu, gã đàn ông vẫn cười khanh khách, nhẹ nhàng đón lấy, mà hình như hắn còn đoán trước được cả cách biến hóa chiêu thức của nàng nữa.

Tú Linh nóng lòng sốt ruột, chỉ muốn đánh cướp lấy một đường mà chạy, bèn cố gắng chút hơi tàn, tay phải một chưởng, tay trái một quyền liên tiếp phóng hơn bảy chiêu.

Bảy chiêu đó chính là bí kỹ của Nam Cung thế gia, chiêu thức kỳ quỉ, biến hóa vô cùng. Tú Linh lúc này chân lực tuy đã gần kiệt, nhưng vì nàng liều mạng mà đánh, nên uy lực vẫn còn lợi hại lắm.

Không ngờ gã đàn ông vẫn cười một cách đanh ác nói, "Vũ công thế gian đánh thế nào được ma?"

Hắn chỉ sẽ giơ tay lên, tiếng xích sắt kêu lẻng xẻng, hóa giải luôn bảy chiêu của nàng một cách dũng dị, có một điều lạ là mỗi chiêu Tú Linh sắp sửa phóng ra, hắn đã biết trước mà chặn ngay từ đầu.

Tú Linh sợ hãi, vượt qua người hắn mà chạy, không ngờ hắn đã nhanh nhẹn xoay mình, giang tay chắn ngang lối đi của nàng.

Tú Linh thét lên một tiếng, nằm xuống đất lăn đi mấy vòng, rồi lại lổm ngổm bò dậy, ngẩng đầu nhìn lên. Gã đàn ông vẫn kéo lê sợi xích sắt, lắc lư tiến về phía nàng, miệng vẫn luôn cười, tiếng cười nghe giống hệt tiếng gầm gừ của loài thú dữ.

Tú Linh lùi mãi, lùi mãi, bất đồ lưng chạm ngay phải vách đá, không còn lối nào thoát được nữa. Gã đàn ông vẫn cười nhăn nhở, cong mười đầu ngón tay lên xông tới.

Tú Linh rú lên một tiếng, hai đầu gối mềm nhũn, sụp quỳ xuống đất, mười đầu ngón tay lạnh buốt của gã từ từ chạm vào cổ nàng, Tú Linh nhắm nghiền hai mắt chờ chết.

Không ngờ lúc ấy gã đàn ông rụt tay lại, cất tiếng cười sằng sặc, tỏ vẻ đắc ý vô cùng, Tú Linh lấy làm lạ, lại hé mắt ra nhìn.

Chợt nghe gã vừa cười vừa nói, "Điền Tú Linh, sao ngươi không mở mắt ra?"

Tú Linh kinh ngạc quá đỗi, vội mở to mắt kêu lên, "Sao... sao ngươi lại biết tên ta?"

Quái nhân cười khanh khách nói, "Ngươi không nhận ra ta ư? Thử nghĩ kỹ lại xem, ta là một oan hồn đã bị chết ở trong tuyệt nham ngày trước!"

Tú Linh bất giác sợ hãi run lên, chăm chú nhìn vào mặt hắn, dưới ánh đèn lờ mờ, chỉ trông một bộ mặt đã bị mái tóc che kín quá nửa, hàm răng trắng nhỡn, nhọn hoắc, có vài chiếc đã bị gãy, duy có đôi mắt, nhìn kỹ thì hình như đã trông thấy ở đâu.

Gã đàn ông lại cười gằn nói, "Thử nghĩ lại xem... nghĩ lại xem... ta là người mà hồi nhỏ ngươi ghét nhất!"

"Vậy... vậy ra ngươi là Nam Cung..."

Gã đàn ông ngửa cổ lên trời cười nói, "Đúng rồi... ta là hắn... ha ha... không ngờ hôm nay ngươi lại phải quỳ ở trước mặt ta, oán khí bao nhiêu năm nay ta mới gọi là được thở ra một chút."

Tú Linh đăm đăm nhìn con người trước mắt, trong bụng rộn lên những ý tưởng mâu thuẫn, không biết sợ hay mừng? Phải chăng đây chính là người mà mấy tháng nay nàng đã chịu đủ trăm cay nghìn đắng, trèo non lặn suối đi tìm? Nhưng lúc này đứng trước mặt hắn, nàng lại thấy sợ sệt, kinh hoảng, chỉ lăm le muốn chạy trốn.

Nàng chú ý nhìn kỹ thấy hình dạng người này rõ ràng là một phần người, chín phần quỷ, đâu còn cái vẻ ung dung tiêu sái củaNam Cung công tử năm xưa? Chắc hẳn từ dạo đó đến giờ, chàng đã chịu đựng không biết bao nhiêu nỗi cực nhục thống khổ.

Nghĩ đến đấy, nàng chợt cảm thấy thương hại, bèn ứa nước mắt nói, "Tại sao chàng lại bị giam ở đây?"

Người quái chợt im tiếng cười, cặp mắt tràn đầy oán hận nói, "Ta khổ tâm bố trí bao nhiêu lâu nay, chỉ vì ta đã biết..."

Chàng vừa nói tới đấy, chợt thấy ngoài cửa có một bóng người phơi phới bay vào, giơ ống tay áo phất một cái, tức thì một luồng hương thoang thoảng từ trong ống tay áo bay ra.

Tú Linh vừa trông thấy bóng người, mũi đã hít ngay phải luồng hương thơm, tức thì đầu óc mê man, không còn biết gì nữa.

Mãi tới khi tỉnh dậy, Tú Linh mở mắt ra nhìn, chỉ thấy da trời xanh ngắt, mây trắng phất phơ, chim chóc trên cành véo von ca hát, bốn bề cây cối xanh um, cỏ non trải kín mặt đất như tấm thảm, thì ra đây là một khu rừng.

Tú Linh giật mình kinh sợ, gắng gượng ngồi lên, thấy mình vẫn mặc áo lông cừu, mũ lông điêu, nhưng sờ vào mình chỉ thấy mồ hôi ướt đầm. Nàng ngạc nhiên nghĩ thầm, "Quái lạ, ta đang nằm mơ hay sao thế này?"

Hồi tưởng lại những việc vừa xảy ra, đầu óc vẫn còn bàng hoàng kinh sợ, không hiểu vừa rồi là mộng hay bây giờ là mộng? Nhưng khung cảnh trước mắt đây đã chứng tỏ cho nàng biết rằng hiện thời nàng không mơ ngủ.

Giữa lúc đầu óc nàng chưa phân biệt được rõ ràng, chợt nghe có tiếng xe ngựa lọc sọc đang đi từ phía xa đưa lại.

Tú Linh đang muốn tìm người hỏi thăm xem đây thuộc về địa phương nào, nên không tìm chỗ nấp, thoáng chốc đã thấy chiếc xe ngựa tiến lại gần rồi đỗ lại.

Tú Linh đã nhìn rõ thấy cỗ xe sơn son thiếp vàng bóng lộn, cả mấy con ngựa kéo trông cũng khỏe mạnh lực lưỡng, rõ ràng nòi ngựa quý.

Màn xe vừa vén lên, bên trong đã thấy bốn thiếu nữ mặc áo trắng từ trong xe nhảy ra, người nào cũng mặc xiêm dài quét đất, tóc rủ ngang vai, cười nói ríu rít như những con chim vành khuyên, nhảy nhót tiến vào rừng.

Tú Linh mừng lắm, định chạy ra hỏi thăm, chợt ngắm lại bộ quần áo lấm láp xộc xệch của mình, bất giác hơi ngượng, vội đưa tay lên vén gọn mái tóc, sửa lại nếp áo, thủng thỉnh đi ra, nhưng đầu vẫn cúi gằm xuống, không dám nhìn lên.

Tới trước mặt bốn thiếu nữ, nàng dừng lại khép tà áo, thỏ thẻ nói, "Xin hỏi bốn vị cô nương..."

Nàng chưa nói dứt lời chợt nghe tiếng cười khúc khích, nàng vội ngẩng đầu lên đã thấy bọn thiếu nữ quỳ rạp cả xuống đất. Rồi một ngươi cao nhất bọn cười nói, "Mới một tháng không gặp mà phu nhân đã không nhận ra bọn nữ tỳ ư?"

Tú Linh giật mình sửng sốt, hỏi, "Các người là...là ai?"

Người con gái lại ngẩng đầu lên nói, "Oanh Oanh xin bái kiến phu nhân!"

Thì ra bọn này chính là tỳ nữ nội trạch nhà Nam Cung. Ba người kia cũng vừa ngẩng đầu lên, Tú Linh lặng người đi một lát, mới thốt được nên lời, "Oanh Oanh, Yến Nhi, sao các người lại đến nơi này?"

Oanh Oanh cúi đầu cười nói, "Bọn tiểu tỳ đến đây cốt chỉ để đón phu nhân!"

Tú Linh còn chưa biết là mình ở đây là đâu, vậy mà bọn tỳ nữ nhà Nam Cung thế gia đã biết mà đến đón, thật là một sự lạ lùng. Nàng bất giác buột miệng hỏi, "Sao các ngươi biết ta ở đây?"

Oanh Oanh cười nói, "Phu nhân quên rằng chính phu nhân đã thông tin cho Thái phu nhân, nên Thái phu nhân mới sai bọn tỳ nữ đi đón."

Tú Linh đứng ngẩn ra như người bàng hoàng trong mộng, tự nghĩ, "Vô lý, sao ta lại thông tin cho họ? Hay là trong lúc hôn mê, ta quả có làm việc ấy, mà rồi lại quên đi chăng? Chả có lẽ..."

Oanh Oanh, Yến Nhi thấy nàng cứ đứng ngây người, chẳng nói chẳng rằng, bèn đưa mắt cho nhau, rồi cùng bước lên, mỗi người một bên nắm lấy tay áo nàng, Yến Nhi nói, "Xin mời phu nhân lên xe kẻo Thái phu nhân đợi!"

Tú Linh chau mày nói, "Bà Tổ ta..."

Nàng nói chưa dứt lời, Oanh Oanh vội cười nói, "Từ hôm phu nhân đi, Thái phu nhân nhớ lắm, lúc nào cũng khen phu nhân là ngươi tốt, chỉ phải tính nhẹ dạ nghe lời những kẻ không ra gì xúi bẩy. Nay nếu phu nhân trở về thì không những Thái phu nhân vui vẻ mà bọn tỳ nữ cũng rất mừng."

Tú Linh chợt ứa nước mắt, nghẹn ngào nói một mình, "Ta đoán không sai, trên đời này quả không có ai tốt với ta bằng Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ, chỉ có Bà Tổ..."

Nói chưa dứt lời, nước mắt nàng đã tràn xuống hai gò má. Hai tên thị nữ thấy thế mừng thầm, lại dùng những lời đường mật ôn tồn dụ dỗ, hết sức nói tốt cho Thái phu nhân. Xem chừng Tú Linh đã xiêu lòng, bốn tên thị nữ liền xúm xít đỡ nàng lên xe.

Tú Linh cũng quyết định trở về bên Bà Tổ, chỉ có ở đấy nàng mới được êm ấm và tôn nghiêm, chỉ có ở đấy nàng mới không bị người ra khinh rẻ và hắt hủi.

Lúc này nàng lại thấy hối hận, tại sao nàng lại phản bội Bà Tổ là người đã yêu thương che chở cho nàng từ bé, mà tự đem mình hy sinh cho những kẻ xa lạ rẻ rúng nàng, khinh miệt nàng, chẳng quá ngu dại quá ư?

Nàng đưa tay áo lên gạt nước mắt, rồi để mặc bọn thị nữ dìu lên xe.

Cũng trong lúc ấy trên sườn núi phía xa, dưới bóng cây rậm có một bóng người lom khom, đang chú ý theo dõi bọn Tú Linh. Tuy mặt hắn đã bị cành lá che khuất, không nhìn được rõ, nhưng đôi mắt hắn sáng chói như hai luồng điện, đứng đằng xa vẫn trông thấy rõ.

Mãi tới khi cỗ xe đã đi khá xa, cái bóng mới lủi vào đám cây rậm, biến mất.

Vô Tâm ở trong thạch thất, thấy vị lão nhân nhắm mắt ngồi yên, hình như đã nhập định. Chàng cũng đành ngồi bên cạnh điều tức chờ đợi.

Trong thạch thất không phân rõ ngày đêm, chàng ngồi như thể không biết trải qua bao lâu, lão nhân mới mở mắt ra hỏi, "Ban nãy ngươi vào thăm lão quái vật trước, lão có nói gì không?"

Ông ta gọi lão quái vật tức chỉ vị lão nhân ở trên sườn núi, người này hành tung còn thần bí hơn ông ta nhiều.

Vô Tâm nghe hỏi, mỉm cười nói, "Lão nhân gia chỉ hỏi đệ tử về những việc vừa qua, rồi xua tay bảo đệ tử đi ra."

Lão nhân mỉm cười, "Lão quái vật gần đây tính nết lại càng cổ quái, ngươi đã lâu không đến, nên không biết có bữa lão muốn nếm thứ dấm cá ở Tây Hồ. Ngươi thử nghĩ xem ở đây đến cá gỗ cũng không có chứ đừng nói cá dấm, thế là lão làm ầm lên, la hét om sòm. Lại một hôm lão đánh cờ với ta, cờ chưa tàn cuộc, lão nhất định đòi ra cốc, nói là ở đây chịu tội thế là đủ rồi, một hai đòi lão Tạ phải đưa đi ngay, lão Tạ tuy không dám trái lệnh, nhưng cũng không làm nổi, tình trạng thật lúng búng tức cười."

Lão nhân miệng cứ thao thao bất tuyệt, nói toàn chuyện vu vơ, nhưng tuyệt không nhắc gì đến Tú Linh, Vô Tâm tuy thắc mắc nhưng không dám hỏi, chỉ đành lẳng lặng ngồi nghe.

Một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng gõ nhẹ trên bức vách, thì ra trên bức vách còn có một cánh cửa ngầm.

Vô Tâm đứng lên mở cửa, bên ngoài có một người đầu tóc bạc phơ, khom lưng bước vào, tay bưng một chiếc khay, lão trông thấy Vô Tâm chợt hớn hở reo lên, "Nhâm tướng công về từ bao giờ thế? Nếu biết tướng công về thì lão nô đã nấu thêm một bát canh thạch giải rồi."

Vô Tâm trông thấy ông lão ấy cũng vui vẻ lắm, nhưng còn vờ làm mặt giận nói, "Lâu lắm không gặp, sao ngươi vẫn gọi ta là Nhâm tướng công? Nếu ngươi còn gọi như vậy, ta sẽ gọi ngươi là Tạ lão tiền bối cho mà coi!"

Lão nhân cũng sầm mặt nói, "Trưởng ấu có thứ tự, lớn nhỏ có phân biệt, trên dưới xưng hô không thể loạn được, lão nô theo hầu lão gia mấy chục năm trời, chả lẽ điều ấy cũng không biết?"

Ông già ngồi trên giường cười nói, "Lão ấy cố chấp lắm, thôi cứ để tùy lão muốn gọi thế nào thì gọi."

Lão Tạ đặt chiếc khay xuống bàn, rồi quay lại cười nói với Vô Tâm, "Độ này thạch giải sẵn lắm, để lão nô nấu một bát canh thật ngon mang lên tướng công xơi."

Nói xong lão lại khom mình lui ra. Lão nhân bảo Vô Tâm, "Ngươi lại đây ăn một chút cơm cho đỡ đói."

Vô Tâm nghe lời cầm bát cơm lên ăn, bất giác nhìn ra gian phòng ngoài lẩm bẩm, "Còn... nàng... nàng..."

Lão nhân sầm mặt nói, "Nàng... nàng cái gì? Ta không để nàng chết đói đâu mà sợ. Ngươi ở trong này dụng công học tập, đừng suy nghĩ vớ vẩn. Để ta truyền cho ngươi mấy môn vũ công tuyệt thế, mới có thể đối phó được với môn ma công của nhà Nam Cung thế gia."

Vô Tâm lại thấy tinh thần khấn khởi.

Lúc này chàng mới chợt nhớ đến cánh tay trắng của Lan cô, bèn đem chuyện mình suýt chết về cánh tay ấy thế nào, nhất nhất kể hết cho lão nhân nghe.

Trong khi nghe chàng nói, sắc mặt lão nhân có vẻ xúc động. Ông dựa lưng vào vách đá, đôi mắt lim dim, hình như đang cố đem trí tuệ và kinh nghiệm trường đời mấy chục năm để thử giải thích một việc thần bí mà có lẽ loài người không sao giải thích nổi.

Vô Tâm nín thở ngồi chờ, không dám kinh động. Một lúc lâu, lão nhân chợt mở mắt, thở dài nói, "Theo chỗ ta biết thì trong vũ lâm năm xưa có một vị kỳ nhân, tên gọi "Tồi tâm sứ giả". Người này chết đã một trăm năm. Khi sinh thời cũng ít người biết rõ hành tung, và vũ công của ông ta thâm hiểm thế nào, nhưng trong giới võ lâm, ai nghe tên ông ta cũng phải kinh hồn táng đởm."

Vô Tâm buột miệng hỏi, "Đã không ai biết vũ công của ông ta thế nào thì sao lại sợ?"

Lão nhân nói, "Nhân vì hồi ấy trong giang hồ đồn rằng "Tồi tâm sứ giả" có một môn ma công rất thần kỳ, có thể buộc người nào nhìn ông ta một cái, là phải nghe theo mệnh lệnh của ông ta. Cái thuật ma công huyền bí ấy ngày xưa cũng có tương truyền, vũ lâm gọi là "Nhiếp tâm thuật" ai bị thuật ấy mê hoặc tức thì thần trí bị hôn mê, rồi hoàn toàn bị người thi hành thuật hiếp chế. Có người còn làm cả những việc mà sức mình không thể làm nổi, thế mới lạ chứ!"

Ông lão thở dài một tiếng rồi tiếp, "Những sự ấy rất khó giải thích, chỉ có thể lấy vài việc ra làm ví dụ, đại khái như có người không biết một chút gì về vũ công nào, nhưng một khi đã bị cái thuật nhiếp tâm làm mê thì người thi thuật muốn bắt hắn nhảy lên cao ba trượng, hắn cũng nhảy được một cách dễ dàng, hay hoặc bắt hắn phải so tài với tay vũ lâm cao thủ khác, hắn sẽ không ngần ngại gì mà nhận lời ngay. Chẳng những thế, trong khi động thủ, hắn còn có thể thi triển được những chiêu thuật mà hắn chưa từng biết bao giờ."

Vô Tâm chăm chú ngồi nghe, sắc mặt luôn luôn thay đổi.

Lão nhân lại tiếp, "Những việc ấy đều hoàn toàn vượt ra ngoài lý lẽ mà người ta có thể giải thích được, nhưng đó là sự thật hẳn hoi, không phải là chuyện bịa. Ta chỉ có thể tạm giải thích đó là lực lượng của một loại tinh thần, chưa thể quyết đoán được."

Ai cũng tưởng "Tồi tâm sứ giả"đã có cái thuật "Nhiếp hồn" như vậy, tất có thể thu xách quần hào, muốn sao được vậy, trong giang hồ còn ai dám trái lệnh. May được cái ông ta tuy có dị tài, nhưng tâm địa cũng tốt, bình sinh không làm điều gì ác, nên không đến nỗi gây sóng gió trong giang hồ. Nhưng còn Nam Cung phu nhân...

Ông ta trầm ngâm một lát rồi nói tiếp, "Hiện này tuy mụ dùng phần nhiều là các vị thuốc để chế ngự quần hào, nhưng theo lời ngươi nói về "Tố thủ Lan cô" thì quyết không chỉ mụ ta hiếp chế cô ta bằng dược lực thôi không, ta cho rằng tinh thần ngươi con gái này đều hoàn toàn bị mụ khống chế, nên đã quên hết cả thân thế, cũng như thời gian và vạn vật."

Vô Tâm chợt nghĩ ra, vội nói, "Phải rồi, hèn gì mà mấy chục năm nay, dung nhan của Lan cô vẫn không thay đổi, thì ra nhờ nàng quên hết cả ngày tháng, nên mới bảo tồn được dung nhan mãi mãi không già."

Chàng nói đến đấy, lão nhân thốt nhiên biến đổi, nhưng chỉ một thoáng lại trở lại bình thường. Vô Tâm không để ý đến điều đó, vẫn thản nhiên nói tiếp, "Nam Cung phu nhân vũ công tuy cao, cũng không có gì đáng sợ. Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh đã ngầm đưa tin cho đệ tử, nói là ma lực mà Nam Cung phu nhân luyện, toàn là ở "Tố thủ Lan cô" cả. Mấy lần "Tố thủ" xuất hiện, tuy đều chưa đạt tới mức tột cùng, nhưng với ma lực kinh nhân ấy, cũng đủ làm cho người ta không sao kháng cự nổi, đệ tử động thủ với nàng cũng không sao tránh thoát được một chưởng, nếu để nàng luyện thành công hẳn rồi, tất Nam Cung phu nhân sẽ phát động toàn diện, lúc ấy làm sao mà ngăn chặn được."

Lão nhân mỉm cười nói, "Ta đã nói, muôn vật trên đời, đều có sinh có khắc, đã có "Tố thủ Lan cô" thì lại có khắc tinh của Lan cô xuất hiện."

Vô Tâm vội hỏi, "Khắc tinh ấy là gì? Và bao giờ xuất hiện?"

Lão nhân lại cười nói, "Khắc tinh ấy biết đâu không phải là ngươi? Lại biết đâu không phải mấy hôm nữa xuất hiện?"

Vô Tâm mừng rỡ nói, "Có lẽ lão nhân gia đã tìm được cách khắc phá vũ công của nàng rồi chăng?"

Lão nhân gật đầu, "Phàm người bị thuốc độc làm mê, tất phải có thuốc giải, điều đó việc gì phải nghĩ!"

Yên lặng một lát, Vô Tâm chợt hỏi, "Có điều đệ tử rất lấy làm lạ, không hiểu Lan cô với nhà Nam Cung có quan hệ gì? Và cũng không hiểu tại sao Nam Cung phu nhân lại khống chế được nàng?"

Lão nhân trầm ngâm một lát rồi nói, "Việc này ta cũng không rõ lắm, chỉ biết rằng Lan cô với Nam Cung Minh, chủ nhân đời thứ nhất nhà Nam Cung thế gia và Nam Cung phu nhân cùng một vị ma đầu vũ lâm nữa, trong chỗ bốn người đó đều có đầu dây mối nhợ quan hệ rất phức tạp. Nam Cung Minh không những đã vì nàng mà bất hòa với Nam Cung phu nhân, vả lại cái chết của ông ta, hình như cũng có ít nhiều liên quan đến nàng. Nhưng nội tình ra sao, thật không ai biết."

Hồi thứ bốn mươi mốt

Tận tụy cứu võ lâm

Vô Tâm lại hỏi, "Còn vị ma đầu võ lâm kia là ai?"

Lão nhân nói, "Vị ma đầu ấy tính tình lại rất cổ quái, tuy có vũ công tuyệt thế, mà bình sinh không muốn cho ai biết tiếng, tên họ của hắn trong vũ lâm, họa chăng có độ ba bốn người biết. Chính ta cũng chỉ biết hắn là một người rất đẹp trai trong thời ấy, mà Nam Cung Minh cũng là một vị phong lưu công tử, còn Nam Cung phu nhân và Lan Cô cũng đều là bậc thiên hương quốc sắc, nguyệt thẹn hoa nhường."

Ông thở dài một tiếng rồi lại tiếp, "Kể bốn người ấy mà thành hai đôi vợ chồng, thì trên đời tưởng không còn cặp giai ngẫu nào hơn, nhưng khuôn thiên cắc cớ, lại xui khiến cho bốn người ở với nhau tại một chỗ, đến nỗi... ôi!"

Nói đến đấy, ông thốt nhiên im bặt. Vô Tâm sốt ruột giục, "Đến nỗi làm sao?"

Lão nhân thủng thẳng đáp, "Nói tóm lại thì tình cừu ràng buộc quả nhiên kỳ diệu vô cùng. Sau đó ra sao, ngươi cứ đoán cũng biết."

Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Cứ tình lý mà suy, thì lão ma đầu nguyên đã cùng Lan cô sớm thành giai ngẫu, nhưng lão lại say mê Nam Cung phu nhân, còn Nam Cung Minh thì lại bị Lan cô mê hoặc, vì thế mà giai ngẫu trở thành oán ngẫu, phải không?"

Lão nhân gật đầu, chàng lại tiếp, "Thế là giữa Nam Cung phu nhân và Lan cô trở thành hai tình địch. Sau đó hai người đàn ông kia chết đi, Lan cô mới lọt vào tay Nam Cung phu nhân. Nam Cung phu nhân bèn dùng dược lực và thuật nhiếp tâm làm cho Lan cô bị mê lú mất bản tính. Nhưng vũ công của Nam Cung thế gia vốn là nội gia chính tông, vậy mà Nam Cung phu nhân lại biết rất nhiều công phu bàng môn tả đạo, cái thuật nhiếp tâm là một thuật cực thiên tà, giang hồ không ai biết, Nam Cung phu nhân sở dĩ biết thuật ấy có lẽ là lão ma đầu kia bí mật truyền lại cho mụ. Vậy thì lão ma đầu đó tất có quan hệ với vị "Tồi tâm sứ giả" nhất định không thể không được."

Lão nhân đăm đăm nhìn chàng hồi lâu, rồi nói, "Ngươi quả là một đứa trẻ thông minh hiếm có, chính ta cũng đoán như vậy, nhưng chưa dám xác định. Ngươi hãy tạm lưu lại đây bảy ngày, chờ ta nghiên cứu phương pháp phá môn vũ công của Lan cô. Ngươi thử cố nhớ lại những chiêu thức của cô ta sử dụng thế nào, nói lại cho ta rõ."

Vô Tâm ở lại trong thạch thất bảy ngày, tinh thần và vũ công đều tiến tới trông thấy. Trong thời gian đó, chàng chỉ thắc mắc về Điền Tú Linh, không biết tâm trạng của nàng thế nào, nhưng mỗi lần nhắc tới lão nhân lại gạt đi, nên chàng cũng không dám gặng hỏi.

Thời gian bảy ngày đã qua, chàng liền từ biệt lão nhân.

Ông ta cũng không giữ, chỉ ân cần dặn chàng hành sự phải kín đáo. Rồi đưa chàng ra cửa. Ra đến gian ngoài, không trông thấy Tú Linh, chàng tái mặt vội hỏi, "Lão nhân gia, Tú Linh..."

Ông già thủng thẳng đáp, "Đi rồi!"

Vô Tâm đăm đăm nhìn ông, ấp úng hỏi, "Nhưng... nhưng lão nhân gia đã đem... đem nàng..."

Lão nhân sầm mặt gắt, "Ta làm gì nàng?"

Vô Tâm cúi đầu nói, "Đệ tử không có ý gì khác, chỉ vì Điền cô nương đã cứu mạng cho đệ tử, đệ tử lại đưa nàng tới đây, thế tất phải có bổn phận..."

Ông già cau mày ngắt lời, "Ta biết rồi, nhưng ở đây cần phải giữ bí mật, không phải ai cũng có thể bước chân vào được. Ta đã sai người đưa nàng xuống núi, tính mạng vẫn an toàn, ngươi đừng lo."

Vô Tâm biết ông già quyết không nói dối, nên cũng hơi yên tâm. Chàng toan lên núi bái biệt vị lão nhân kia, chợt thấy lão Tạ chạy ra nói, "Nhị lão gia dặn tôi thưa với Nhâm tướng công là người đã bế quan, tướng công khỏi phải lên chào nữa."

Lão lại cười nói tiếp, "Lần này tướng công trở về sơm sớm, lão nô sẽ để phần tướng công thật nhiều thạch giải thật ngon."

Vô Tâm mỉm cười bái biệt lão nhân, và từ giã lão Tạ, rồi thoăn thoắt bước lên Hắc cốc.

Khi ra tới chỗ mấy bộ hài cốt, chàng bỗng giật mình dừng lại, mắt trợn tròn xoe. Thì ra chàng vừa trông thấy phía sau hai cỗ thi hài cũ, lại mới thêm hai cái xác nữa. Hai người này đều mặc võ phục đen, trạng thái lúc chết trông thật đáng sợ.

Vô Tâm định thần nhìn kỹ, thấy hai xác chết tuy đã lạnh cứng, nhưng rõ ràng là khi cùng Tú Linh vào cốc, chàng đã để ý nhận xét, tuyệt không thấy hai cái xác đó, vậy thì trong thời gian chàng ở trong động, hai người đó mới lẻn vào, và ai đã giết họ?

Chàng cúi xuống xem xét tỷ mỉ, xem hai người này chết vì cớ gì, nhưng không tìm thấy vết thương, cũng không thấy có vết máu. Chỉ thấy bốn con mắt lồi cả ra ngoài, hình như họ bị tay cao thủ nào đó dùng nội công đánh chết.

Trong vũ lâm hiện thời, những người có nội công tuyệt đỉnh như vậy rất hiếm. Vô Tâm nghĩ mãi vẫn không đoán ra là ai, tại sao lại đến đây đánh chết hai người này, rồi biến đi mất tích.

Chàng còn đang suy nghĩ, chợt nghe từ phía xa xa, có tiếng quát tháo văng vẳng đũa lại. Vì con đường trong cốc khí lạnh buốt như kim châm, nên tiếng nói vừa ra khỏi miệng lại lập tức bị đông kết lại, không thể đưa đi xa được. Vậy mà tiếng quát tháo đó có thể truyền tới tai chàng, đủ hiểu người ấy tất phải có nội lực kinh nhân, trung khí sung mãn.

Vô Tâm giật mình, vội tung mình chạy đi như bay, chỉ vài ba lần nhô lên hụp xuống trong đám sương mù phía trước, quả đã trông thấy bóng người phấp phới, đao kiếm lấp loáng.

Chàng dừng bước lại , nấp sau một mỏm đá, rồi len lén đi dần ra. Khi còn cách hơn một trượng, chàng mới lờ mờ nhận thấy mấy bóng người trước mặt.

Chỉ thấy ba người đàn ông mặc võ phục đen, tay cầm đơn đao bản hẹp đang vây xung quanh một người tầm vóc cao lớn, vượt hẳn thường nhân.

Loại binh khí của ba người này tuy vẫn thường thấy ở trong giang hồ nhưng cách họ thi triển thật là quỉ quái, quái dị vô cùng. Người cao nhất tay phải múa con dao lên như cơn gió lốc, liên tiếp đánh ra theo phép liên hoàn, dao nọ nối dao kia, liên miên bất tuyệt, không để cho đối phương kịp thở.

Một người cầm dao tay trái, đao pháp tuy cũng giống người kia, nhưng lại toàn đi ngược đường, làm cho người ta không biết đâu mà phòng được. Và đường đao của hai người, một đi thuận, một đi nghịch, phối hợp lại thành không còn một khe hở nào.

Còn người bé nhỏ nhất lại thi triển môn đao pháp Địa thăng là một môn hiếm thấy ở trên giang hồ. Con đường này đã hẹp lại tối, dưới đất thì lởm chởm những huyền băng mà hắn thi triển môn đao pháp đó, quả khiến cho người ta phải kinh sợ.

Trong ba người này, dù phải đối phó với một người cũng khó khăn thay, huống hồ đằng này lại ba người tiếp tay nhau, trên dưới tung hoành, kẻ hô người ứng, dù không sơ hở chút nào, dù cho các vị chưởng môn Thiếu Lâm hay Vũ Đương, cũng khó lòng chiến thắng được bọn họ.

Nhưng người cao lớn đứng trong đám đao quang lấp lánh đó, chỉ dùng tay không đón đỡ ba ngọn đao dài, mà vẫn tỏ ra ung dung nhàn hạ, không những không bị lạc hạ phong mà còn công nhiều hơn thủ.

Chỉ thấy mỗi lần ông ta vung chưởng lên đều kèm theo một luồng chưởng phong cực kỳ mãnh liệt, vũ công cao cường và nội lực thâm hậu ấy,Vô Tâm từ khi hành tẩu giang hồ đến nay, quả chưa từng thấy bao giờ. Có lúc đối phương chém qua một đao, rõ ràng không còn chỗ nào né tránh nữa, vậy mà ông ta chỉ khẽ ngả người qua một chút là đã nhẹ nhàng tránh thoát.

Mục lực như Nhâm Vô Tâm mà cũng chịu phép, không hiểu thân pháp của ông ta biến hóa thế nào.

Chàng lẳng lặng nhẩm tính mấy cao thủ võ lâm đương thời, những người đó mình không biết mặt, nhưng tuyệt không thấy có ai có công lực thâm hậu và thân pháp kỳ quái như người này.

Chỉ trong phút chốc, mấy người áo đen, hình như cũng tự biết không thể cầm cự lâu được nữa, thế tất phải đánh một canh bạc cuối cùng, ba lưỡi dao dài đành kết thành một màng lưới, dần thu hẹp lại, mắt trông thấy ba mũi dao nhọn sáng loáng phóng ra, hình như đều chĩa cả vào người cao lớn, nhưng trong không đầy một nháy mắt đó, ông ta đã lọt ra khỏi lưới đao, nếu người áo đen biến chiêu không nhanh, ba lưỡi dao dài tất phải đâm trúng lẫn nhau.

Vô Tâm càng xem, càng kinh hoàng, chàng biết cái lối đánh giáp la cà như vậy, tình trạng lại càng nguy hiểm, sự sống chết thắng bại chỉ trong khoảnh khắc. Nhưng vì cả hai bên đối với chàng cũng không quen biết, chưa rõ ai là bạn, ai là thù, có khi cả hai bên cùng là kẻ thù cũng chưa biết chừng, vì thế nên chàng không định ra tay giúp ai cả.

Đứng xem một lúc, chàng chợt nhận thấy bóng người cao lớn đứng giữa lưới đao, chưởng tuy lanh lẹ, nhưng trong chiêu thức hình như luôn luôn có chỗ sơ hở, mấy người áo đen đánh sát lại gần, chính là nhắm vào những chỗ sơ hở đó, họ hy vọng trong trường hợp cần phải đánh nhanh tay, đối phương không thể dùng chưởng phong hùng hậu để bù đắp vào những chỗ sơ hở được. Chỗ dụng tâm độc ác của họ như vậy, chính Nhâm Vô Tâm cũng không ngờ tới.

Một cao thủ nội gia tuyệt đỉnh, mà chiêu thức còn những chỗ sơ hở, điều ấy càng làm cho Vô Tâm phải kinh ngạc.

Chàng leo lên, bước lần thêm mấy thước nữa, khi giáp đến tận nơi, mới nhận ra người cao lớn đó chỉ là một người tàn phế, vừa rồi vì sương mù nhiều quá, nên mãi lúc này chàng mới nhận rõ.

Người đã bị tàn phế, võ công dù cao đến mấy, chiêu thức cũng không sao tránh khỏi sơ hở. Nếu là một chọi một, thì những chỗ sơ hở đó cũng không lấy gì làm ngại lắm, nhưng lúc này ông ta phải chống đối với ba cao thủ, ba thanh dao dài, từ bốn phía đổ dồn tới, trên dưới giáp công, dẫu có ba đầu sáu tay, cũng chưa chắc đã phòng ngự xiết, huống hồ đằng này ông ta chỉ còn một cánh tay và một cẳng chân.

Vô Tâm còn đang ngậm ngùi tiếc rẻ, óc chàng thốt nhiên chợt nhớ tới người dị nhân đã liều mạng cứu mình dạo nọ, chàng tuy chưa biết mặt ông ta, nhưng cứ nghe lời Tú Linh miêu tả hình dáng, diện mạo vị ân nhân đó, đem so với con người khôi vỹ kia, thật không sai tý nào. Chàng gật gù nghĩ thầm, "Đúng rồi, đúng là vị ân nhân của mình rồi! Chắc chắn không sai! Ta phải cứu mới được".

Lúc này người cụt tay đã bị đối phương khám phá nhược điểm, tình thế mười phần nguy ngập, Vô Tâm sẽ len lén bước ra thân hình nhích đi như con cá bơi, lừ lừ tiến về phía sau người áo đen, bốn người đang mải đánh nhau, không ai để ý.

Chàng liền xếch ngược lông mày, thét lên một tiếng, tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng, một chiêu hai thức phóng ra thật nhanh.

Người áo đen nghe tiếng thét, giật mình kinh sợ, chưa kịp xoay trở thì hai luồng chưởng phong như vũ bão, đã từ phía sau phóng tới.

Hắn đã từng gặp đại địch nhiều lần, nên không cần quay lại, cũng biết người đánh phía sau võ công cao tuyệt, dẫu có tránh được chiêu đầu, thì những chiêu sau liên miên tiếp tới, chắc cũng khó lòng đỡ nổi, bèn xoay người ghé chân rút đao về dùng chiêu Bát phương phong vũ múa thành một luồng đao quanh như bóng mây, che kín thân thể, đó chính là một thế thủ tuyệt diệu.

Vô Tâm chẳng những không lui lại tiến thêm một bước thi triển chiêu vô thượng tuyệt học Phân quang tróc ảnh hai tay không sấn vào trong luồng đạo quang, miệng quát, "Còn chưa buông à?"

Người áo đen thấy con dao trong tay bỗng dưng chặt cứng, thì ra sống dao đã bị Vô Tâm nắm chặt, hắn hoảng hốt vội ráng sức rút dao về, nhưng chẳng khác bọ ngựa lay cột đá, bọ ngựa tuy ráng hết hơi tàn, mà cột đá vẫn trơ trơ không chuyển. Hắn vừa toan vứt dao bỏ chạy, nào ngờ một luồng chân lực đã từ mũi dao tuôn xuống, hắn chỉ cảm thấy hổ khẩu như muốn bật tung ra. Vô Tâm lại quát, "Nằm xuống!"

Thanh trường đao lập tức bị đu về phía trước, chiêu đao đã điểm vào ba đại huyệt Tương đài, Nhũ toàn, Huyền cơ của hắn. Gã áo đen chỉ kịp "hự" một tiếng, rồi ngã lăn xuống đất.

Còn hai gã kia, lúc này vẫn dùng hai thanh dao dài vây kín người cụt tay, nhưng đã không chiếm được ưu thế như lúc ban đầu.

Hai người trong bụng đã hơi hoang mang, lại thấy đồng bọn đã bị Vô Tâm hạ, lại càng hoảng hốt, bèn huýt sáo ra hiệu cho nhau, cùng chém dứ một dao, rồi toan bỏ chạy.

Người cụt tay vội quát, "Chạy đi đâu?"

Ông ta dùng chiêu Vân long thám trảo năm ngón tay chìa ra như năm lưỡi câu, tóm lấy cổ tay gã áo đen, xiết mạnh, gã đau quá vừa buông rơi con dao xuống đất, lại bị đối phương bồi luôn cho một chưởng, thế là ngã gục.

Bên kia, Vô Tâm cũng dùng thế liên hoàn điểm ba huyệt đạo của một người áo đen khác. Ta nên biết ba người áo đen này đều có võ công tuyệt thế, nếu không gặp lúc họ thất đảm kinh hồn, thì Vô Tâm làm sao có thể đắc thủ nhanh chóng như vậy được.

Người cụt tay thấy ba địch thủ đã bị đánh ngã, bèn vươn cổ hú lên một hơi dài, làm cho cả tòa trường cốc dài mấy trăm trượng đều vang lên những tiếng "oang oang" như tiếng chuông lớn đổ hồi, mãi mãi không ngớt, đủ tỏ là trong bụng ông ta hào hứng vô cùng.

Đợi cho hết tiếng vang vang, người cụt tay mới vuốt chòm râu rối dưới cằm, cười nói, "Hẩy tay một cái mà cường địch đã bị bắt, vũ công của bằng hữu giỏi quá!"

Vô Tâm cũng cười nói, "Không dám!"

Người cụt tay đang cười chợt ngừng lại nói, "Nhưng ta với bằng hữu không quen biết nhau bao giờ, sao bằng hữu lại ra tay giúp ta? Ngươi đã ở trong cốc ra, tất phải biết người bị ngươi đánh ngã vừa rồi là ai chứ?"

Vô Tâm cười thầm tự nghĩ, "Người này thật cuồng ngạo, ta cứu hắn thoát nạn, mà hắn còn hạch sách sằng, không trách Tú Linh bảo hắn là một quái nhân, trên đời hiếm có cũng đúng." Chàng nghĩ vậy liền đằng hắng một tiếng dài, rồi nói, "Tiền bối không nhận ra tại hạ ư?"

Người cụt tay hai mắt sáng như điện, nhìn trừng trừng vào mặt Vô Tâm một lát, miệng lẩm bẩm nói, "Trông mặt hơi quen quen thật..."

Trong cốc lúc này quả thật hơi tối, Vô Tâm bước lên hai bước, mỉm cười nói, "Tiền bối!"

Người cụt tay thốt nhiên reo to một tiếng, "À thì ra ngươi!"

Rồi ông ta ngửa cổ lên trời cười sằng sặc, Vô Tâm thấy thế biết là mình đoán không sai. Người cụt tay cười xong nắm lấy tay chàng lắc mạnh rồi nói, "Thiên đạo tuần hoàn, không ngờ người cứu ta hôm nay, lại chính là người ta cứu bữa trước. Thật là trời có mắt."

Nghe giọng nói của ông ta vừa có vẻ vui mừng, vừa cảm khái, Vô Tâm cũng lấy làm sung sướng, khom mình thi lễ mà rằng, "Tại hạ may mắn, lần này tình cờ lại được báo đáp tiền bối chút đỉnh, đã thấm vào đâu với cái ơn cao dầy của tiền bối."

Người cụt tay chợt nghiêm sắc mặt nói, "Đúng thế, người chẳng qua trong khi vô ý cứu ta, còn ta thì lại cố ý cứu ngươi. Từ nay trở đi giữa ta với ngươi không ai thiếu nợ ai nữa. Lần sau nếu thấy ngươi bị nạn, ta cũng không cần phải cứu, hoặc ngươi thấy ta bị nạn cũng vậy."

Vô Tâm bật cười nghĩ thầm, "Thật là quái nhân." Chàng chưa kịp nói gì, ông già cụt tay đã cúi xuống nhặt con dao dài, chống thay làm gậy, quay mình toan đi. Vô Tâm vội gọi, "Tiền bối hãy thong thả, tại hạ..."

Người cụt tay quay lại trừng mắt hỏi, "Ai là tiền bối của ngươi? Ngươi thấy ta già thật sao?"

Vô Tâm sửng sốt giây lâu, rồi cười lấy lòng, "Cái ấy..."

Người cụt tay chợt cười ha hả, "Chúng ta tuy không thiếu nợ nhau, nhưng cuộc gặp gỡ hôm nay cũng kể như có duyên với nhau, ta định đi mua rượu để cùng ngươi thống ẩm mấy chén cho vui."

Nói xong lập tức phơi phới bay đi. Ông ta tuy chỉ còn một chân, nhưng hành động rất mau lẹ, bước đi không hề nghe thấy tiếng, Vô Tâm cũng đi theo.

Hai người tới một eo núi nhỏ, ông già cụt tay mới dừng lại, thò tay vào khe vách đá, lấy ra một chiếc bầu lớn, rồi cười khanh khách nói, "Cả cơ nghiệp của ta chỉ có cái bầu này, nó mới thật là tính mạng của ta, thân ta dù bị người đả thương cũng không sao, chớ cái hồ này thì tuyệt đối không thể để cho ai đập vỡ được, vậy nên mỗi khi giao thủ với ai, ta phải giấu nó ở một chỗ thật kín đã... hì... hì, rượu này tuy không ngon, nhưng cũng đủ để khử hàn, tráng đởm. Ngươi thử nếm chơi vài hớp."

Trong khi nói, ông ta đã đổ lấy uống một ngụm, chỉ thấy một mùi vị cay cay đưa từ cổ họng xuống đến dạ dày, bất giác buột miệng khen, "Ngon... khà khà, rượu ngon!"

Người cụt tay chợt cười ha hả, lại đỡ lấy bầu. Hai người cứ luân lưu thống ẩm, cùng cảm thấy thư sướng dễ chịu. Giao tình của họ dường như cũng gần thêm một chút.

Vô Tâm nghĩ thầm, "Ông già này cũng là người có tính tình, nhưng lại cố tình ra vẻ cổ quái, lãnh khốc, bên trong tất phải có ẩn ý gì, hoặc giả ông ta còn có một tâm sự đau thương, không thể nói ra được chăng? Ta phải dò xét dần mới được." Nghĩ vậy, chàng liền lên tiếng, "Tiền... ờ quên... huynh đài"

Chàng nói chưa dứt lời, ông già lại trừng mắt, "Ta không phải tiền bối của ngươi mà cũng chẳng phải huynh đài của ngươi."

Vô Tâm mỉm cười nói, "Vậy thì tại sao các hạ lại đến đây? Và tại sao lại đánh nhau với mấy tên áo đen?"

Người cụt tay vỗ mạnh vào chiếc bầu rượu nói, "Có một việc ngươi không hỏi, ta cũng muốn hỏi ngươi."

Vô Tâm nói, "Các hạ cứ hỏi!"

Người cụt tay nói, "Ngươi có biết một gã đệ tử phái Nam Hải kiếm, kiếm pháp cũng đã luyện tới sáu bảy thành hỏa hầu, gã cũng chỉ có một cánh tay."

Vô Tâm không đợi ông già hỏi dứt lời đáp, "Mộ Dung Phi, người ấy nhất định là Mộ Dung Phi. Sao các hạ lại biết hắn?"

Người cụt tay cười hì hì nói, "Hôm ấy ở trong ngôi miếu hoang núi Chung Nam, hắn chỉ lăm le muốn giết ngươi."

Vô Tâm đỏ mặt cười gượng, "Thế thì đúng gã rồi, nhưng hiện thời gã không còn sống nữa."

Ông già gật gù, "Gã chết thật rồi, nhưng không phải ở trong ngôi miếu đó. Sau khi từ biệt các ngươi, ta đi thẳng tới địa phận Tam túc, đêm ấy định tìm một ngôi miếu hoang ngủ đỡ, không ngờ lại trông thấy thi thể của Mộ Dung Phi ở cửa miếu. Vậy mà ta cứ yên trí hắn chết ở sau núi Chung Nam rồi, lúc này trông thấy xác hắn ở đấy, không khỏi kinh ngạc..."

Vô Tâm thở dài liền đem những lời Tú Linh thuật lại, kể sơ qua cho người cụt tay nghe. Người cụt tay lắc đầu, "À bên trong lại còn có một đoạn quanh quéo như vậy mà ta đâu có biết. Vì thế hôm ấy trông thấy xác Mộ Dung Phi, trong bụng không khỏi ngờ vực."

Vô Tâm nói, "Hôm ấy chúng tôi sơ ý quá, quên không đem chôn hắn đi. Nhưng không biết các hạ tới đấy, cách đây đã bao lâu rồi?"

Người cụt tay đáp, "Ta tới ngôi miếu hoang vào đêm trăng tròn. Đêm ấy trăng sáng vằng vặc như ban ngày, ta đang cúi xuống xem kỹ xác hắn, chợt nghe phía xa có tiếng quần áo, bay phần phật, nghe tiếng gió cũng biết người sắp đi tới vũ công cũng khá cao, và không chỉ có một người."

Ông đưa bầu rượu lên nhấp một hơi, rồi tiếp, "Ta không muốn sinh chuyện lôi thôi, bèn vội nấp vào một chỗ kín. Dưới bóng trăng trông rõ ba người mặc võ phục đen, sóng vai đi tới. Có lẽ họ cũng định vào miếu trú chân."

Vô Tâm buột miệng hỏi, "Ba người ấy có lẽ là ba người đánh nhau với các hạ khi nãy chăng?"

Người cụt tay chau mày nói, "Chính đấy, nhưng trong khi ta nói chuyện, ngươi không được hỏi xen. Nếu ngươi cứ dúng mồm vào, ta sẽ không nói nữa."

Vô Tâm mỉm cười ngồi im, ông ta lại nói tiếp, "Ba người trông thấy xác Mộ Dung Phi cùng kêu lên một tiếng, rõ ràng là họ có quen biết gã kia. Sau đó họ xúm lại mai táng cho gã. Ta chợt nảy tính tò mò, muốn biết ba người kia là ai, và cũng muốn điều tra xem tại sao Mộ Dung Phi lại đến đây mà chết, lại cũng muốn tìm hiểu các người với bọn họ có thù oán gì, liền lập tức theo dõi họ. Hà hà, ba người kia vũ công đều vào hạng khá, vậy mà suốt dọc đường, không hề khám phá ra một kẻ tàn phế đang theo dõi."

Ba người ngày đi đêm nghỉ, hành tung cực kỳ bí mật, hình như không muốn gặp mặt ai. Nhưng mặc dầu họ đi đến chỗ hẻo lánh nào, cũng có người chờ đón liên lạc. Những người này hành động đều hết sức cẩn thận, tuy trong lúc vắng vẻ cũng ghé tai nhau thì thầm, ta cố lắng tai nghe, cũng chỉ loáng thoáng câu được câu chăng, không rõ ra là chuyện gì, thỉnh thoảng họ lại nhắc đến thằng bé họ Nhâm, hình như lần này họ sang phía tây, là cốt để đối phó với thằng bé ấy.

Vô Tâm kinh sợ nghĩ thầm, "Ba người này nhất định là người trong Nam Cung thế gia, không còn hồ nghi gì nữa. Có lẽ họ đã biết hết hành tung của mình, nên đi gấp tới đây để ngăn cản, không cho mình về nữa chăng."

Người cụt tay vẫn tiếp tục kể, "Ta tuy không biết thằng bé họ Nhâm là ai, nhưng nghe giọng lưỡi bọn này thì hình như chúng đối với gã họ Nhâm vừa giận vừa sợ. Ta bèn quyết định theo đến cùng, xem chúng thuộc về đảng phái nào. Nhưng lúc đó ta bất quá chỉ định đi xem cho biết, chớ tuyệt không có ý muốn gây chuyện với chúng. Bọn kia hình như cũng không có mục đích, chỉ đi quanh quẩn trong vòng năm ba dặm, tựa hồ muốn tìm kiếm vật gì, hay chờ đợi ai. Lúc nào cũng đề phòng cẩn thận như sắp sửa đánh nhau to, thậm chí lúc đi ngủ, chúng cũng cử người thay phiên nhau canh gác, không dám biếng nhác. Luôn trong mấy ngày như vậy, ta đã thấy sốt ruột, không ngờ giữa lúc ấy, người mà chúng chờ đợi đã đến thực."

Vô Tâm suýt buột miệng hỏi, nhưng chợt nhớ ra, lại vội vàng im miệng. Người cụt tay vẫn thủng thỉnh nói, "Sáng sớm hôm ấy, ba người đã mua sẵn rượu ngon, gà béo, chờ đến gần chiều, mới đem đến một cái nhà gần bãi tha ma. Ta thấy thế biết chúng đã hẹn với người nào đến đó hội họp. Nhưng mãi tới hết giờ tý, vẫn chẳng thấy ma nào đến, ba người hình như đói quá, bụng réo ầm ầm, nhưng vẫn không dám đem rượu thịt ra ăn. Thấy tình huống đó, ta đoán người chúng đợi, tất phải là một nhân vật quan trọng, nên cũng cố nhịn đói khát, nằm phục trong xó tối, không dám cựa. Chờ một lúc khá lâu, quả nhiên có một bóng người phơi phới đi lại, người này mặc áo dài màu xám, trong khi đi vai không động, chân không co, tựa như cưỡi gió mà đến."

Lúc này gió đêm lạnh lẽo, trong bãi tha ma quạ kêu cú rúc, cái bóng người xuất hiện lúc ấy chẳng khác gì một bóng ma, người yếu vía trông thấy không khỏi rùng mình.

Người cụt tay ngừng lại lát, rồi lại tiếp, "Lúc ấy ta chỉ muốn xem cho rõ cái mặt mũi cái bóng đó, vì trong giang hồ những người luyện khinh công tới bậc ấy chẳng được bao nhiêu. Nháy mắt đã thấy cái bóng đó tiến lại gần, ta chú ý nhìn thấy mặt hắn như chàm đổ, râu quai nón lởm chởm, trông còn dữ hơn mặt ác quỷ."

Nhưng khi nhìn kỹ, mới biết bộ mặt dữ đó chỉ là mặt người. Tuy nhiên trong cái tình thế nghiêm trọng như thế này mà hắn đeo mặt nạ đến, thật là một sự ra ngoài ý liệu của ta, cho đến bây giờ ta vẫn chưa hiểu rõ dụng ý của hắn làm thế để làm gì? Nếu là chơi đùa, thì không phải lúc, mà nếu chỉ cốt che dấu bộ mặt thực, thì sao hắn không lấy một mảnh vải đen che đi, việc gì phải làm trò như thế?

Ông ta nói đến đấy, lại nâng bầu tu một hớp rượu rồi tiếp, "Ba tên áo đen trông thấy người đeo mặt nạ đi vào, đều đứng bên khúm núm vái chào, cười nói, 'Lão tiên sinh đến sớm quá, vãn bối đã sửa soạn rượu thịt, mời lão tiên sinh thưởng thức vài chén cho ấm bụng.'

Ta nghe chúng gọi người kia là "lão tiên sinh" mới biết họ không phải là người đồng phái. Cũng may lúc ấy đêm đã quá khuya, chúng không sợ ai nghe trộm, nên không cần nói nhỏ vì thế ta mới nghe được rõ lắm.

Người đeo mặt nạ hình như không thèm để ý đến thái độ cũng kính lễ phép của bọn kia, vừa bước vào chiếu rượu, đã ngồi ngay xuống,tay đũa tay bát ăn uống nhồm nhoàm, không khác gì một con ma đói, đã bảy ngày không được hột gì vào bụng báo hại những con sâu đói trong bụng ta đều nhao nhao lên phản đối, mà ba tên áo đen đứng cạnh lão cũng nuốt nước bọt ừng ực."

Vô Tâm thấy ông ta tả cảnh như thực, bất giác cũng mỉm cười, nhưng không dám chen lời. Người cụt tay vẫn thản nhiên nói tiếp, "Lão ta ăn uống chán chê rồi, mới thò tay vào mình lấy ra một chiếc phong bì dán kín, đưa cho ba người rồi nói, "Trong vòng ba ngày phải đem đi ngay, đừng để lỡ việc biết không?" Tiếng lão khàn khàn như tiếng vịt đực. Ba người kia kính cẩn đỡ lấy phong bì, sắc mặt đều lộ vẻ hớn hở. Chỉ tiếc gì mắt ta không trông thấy suốt được phong bì, nên không rõ bên trong họ viết gì."

Vô Tâm thất vọng thở dài một tiếng, chàng đoán phong thư ấy tất phải là then chốt quan hệ rất lớn đến vận mệnh của vũ lâm. Người cụt tay lại nói, Người áo xám đưa phong thư cho bọn kia xong, lại nói, 'Về nói với chủ nhân các ngươi rằng đây là một kế sách chỉ thị lần cuối cùng của lão gia, từ lần sau trở đi toàn do chủ nhân các ngươi tùy cơ hành sự, cuộc chiến đấu dù thắng dù bại, lúc này còn chưa xác định, nhưng vô luận thế nào, lão gia cũng không gặp mặt các ngươi nữa đâu. Các ngươi không cần phải tới đây nữa.'"

Vô Tâm nghe tới đây, bất giác kinh sợ nghĩ thầm, "Nếu thế thì việc này Nam Cung phu nhân không phải là nhân vật chủ não, sau lưng mụ lại còn có một người ra chỉ thị cho mụ làm. Không biết người này với nhà Nam Cung thế gia có quan hệ thế nào? Và việc cơ mật đó là việc gì?"

Người cụt tay hình như không biết câu chuyện mình đang tự thuật có quan hệ trọng đại tới sự sống chết của vũ lâm thế nào, nên vẫn bình tĩnh kể, "Ba người nghe xong đều biến sắc mặt. Một người nói, 'Chủ nhân chúng tôi đang hết lòng mong mỏi ở tiên sinh, sao bỗng dưng tiên sinh lại thoái lui nửa chừng?' Lão già cười nói, 'Lão chủ nhân sở dĩ không nói ra được là vì việc này đã gần tới thời kỳ tỏ rõ, dẫu phía địch nhân còn có vài bí mật, chủ nhân ngươi chưa biết, nhưng hiện thời đã có người khác nói hết cho chủ nhân các ngươi nghe, không cần lão nhân gia phải phí tâm nữa.'"

Vô Tâm nghe đến đây sợ toát mồ hôi, tự nghĩ, "Người khác là ai? Sao người ấy lại biết việc bí mật của ta?"

Chàng còn đang suy nghĩ, người cụt tay lại nói tiếp, Lão áo xám trầm ngâm một lát rồi lại nói, 'Nhưng nếu sau này các ngươi có chuyện gì khẩn cấp muốn cầu báo ta, thì cứ lại địa chỉ này tìm lão.' Nói xong lão lại thò tay vào mình lấy ra một mảnh giấy nhỏ, trong đó biên mấy chữ ý chừng là địa chỉ của lão. Ta đã định đi theo, nhưng khốn nỗi lão đi nhanh quá, biết có đuổi cũng không kịp, ta đành phải dùng tới hạ sách là tìm cách lấy lại phong mật thư ở trong mình bọn kia.

Dè đâu lúc ấy lai có hai bóng đen khác vùn vụt bay tới, thân pháp đều cực kỳ nhanh nhẹn, mà chức phận hình như cũng cao hơn ba người đến trước. Vừa đi đến nơi, họ liền bắt ba người kia trao họ những thư tín vừa rồi, lại ghé tai ba người kia thì thào dặn dò một lúc, mới cầm thư quay đi. Ta nghĩ nếu muốn đi theo hai người đó, chắc họ đã đi xa rồi."

Ông ta thở dài nói tiếp, "Thế là ta chỉ đành giương mắt trừng trừng nhìn theo bọn họ đem theo hai lá thư bí mật đi, còn ba người kia cũng ngồi xuống ăn uống nốt chỗ cơm rượu còn thừa."

Vô Tâm cũng vò đầu bứt tai còn ý tiếc rẻ, biết rằng dịp tốt đã mất, sau này dù có muốn tìm ông già áo xám kia, chắc là còn khó hơn mò kim dưới đáy bể.

Hồi thứ bốn mươi hai

Vì nghĩa phận huy quyền can thiệt

Người cụt tay than thở giây lâu, rồi lại tiếp, "Ta không làm gì hơn đã đành tiếp tục theo hút ba người kia. Chiều hôm sau lại thấy hai người nữa đến hội họp, rồi đi thẳng tới đây. Trong khi đi đường, họ vẫn nhìn quanh ngó quẩn trông trước nhòm sau, hình như sợ bị người theo dõi. Ta tuy đã hết sức cẩn thận, mà khi vào tới cốc vẫn bị họ phát giác; thế là xảy ra cuộc ác chiến. May được cái là họ không hỏi lai lịch của ta, mà cũng không xưng danh, chỉ cắm đầu hùng hục đánh. Thoạt đầu ta giết chết ngay hai người, rồi sau đó mới bị ba người vây đánh."

Vô Tâm lẳng lặng ngồi nghe, chân tay lạnh toát, chàng không hiểu tại sao phe đảng Nam Cung thế gia lại tìm vào Tử cốc? Hay là những bí mật trong cốc đã bị họ biết hết cả rồi? Nếu như vậy thật là nguy hiểm.

Chàng còn đang nghĩ ngợi, chợt thấy người cụt tay vỗ đùi đét một tiếng , kêu rầm lên, "Quên rồi! Quên rồi!"

Vô Tâm ngơ ngác hỏi, "Quên gì cơ?"

Người cụt tay lắc đầu thở dài, "Ta thật là hồ đồ, hồ đồ thái thậm! Tại sao ta không tóm cổ một tên áo đen, tra hỏi lai lịch của hắn thì biết ngay, chớ có khó gì đâu? Chả hơn là cứ ngồi đây mà đoán mò ư?"

Nói xong lập tức nhảy vụt đi, Vô Tâm cũng chạy theo. Khi tới nơi, thì ra ba người đã chết cứng tự bao giờ, có lẽ vì họ bị điểm huyệt, huyết mạch không lưu thông được nên đều bị chết cóng cả.

Người cụt tay chỉ giậm chân đấm ngực, chửi mình là ngu ngốc, Vô Tâm sẽ nói, "Các hạ thật không biết lai lịch bọn này ư?"

Người cụt tay kêu lên, "Cố nhiên, không biết, nếu biết ta còn phải hỏi làm gì nữa?"

Vô Tâm cười nói, "Ba tên này đều là môn hạ của Nam Cung thế gia, chủ nhân của họ chính là Nam Cung phu nhân, còn thằng bé họ Nhâm mà bọn chúng đang đi lùng chính là tại hạ."

Người cụt tay giật mình đứng ngây người ra, hình như đang bị xúc động mạnh. Một lúc lâu sau mới lên tiếng, "Còn Nam Hải Mộ Dung Phi?"

Vô Tâm đáp, "Cũng là tụi chúng."

Người cụt tay cau mày nói, "Nếu Mộ Dung Phi là người của Nam Cung thế gia thì sao lại định giết chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia?"

Vô Tâm sững sờ hỏi, "Ai là chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung?"

Người cụt tay giận dữ quát, "Nhà ngươi đừng có giả câm giả điếc? Nếu không vì hắn, tại sao ta lại cứu ngươi? Nếu không có hắn thì người đã chết từ đời nào rồi, sao ngươi chóng quên thế?"

Vô Tâm lúc ấy mới chợt nhớ ra, liền buột miệng kêu, "À, thì ra các hạ nói..."

Người cụt tay cười nhạt, "Phải, ta nói hắn, bây giờ ngươi mới nhớ ra ư?"

Vô Tâm thở dài nói, "Nhưng các hạ lầm rồi, người ấy đâu phải là chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia."

Người cụt tay tái mặt hỏi, "Hắn không phải là chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia, thì tại sao lại học được môn vũ công bí truyền của nhà ấy?"

Vô Tâm gượng cười nói, "Việc này bên trong còn nhiều uẩn khúc, không tiện nói ra, các hạ đã có ơn cứu mạng cho chúng tôi, tôi cũng không muốn giấu. Nhưng trước khi thuật chuyện, tôi muốn thỉnh giáo các hạ một điều?"

Người cụt tay nói, "Mau nói đi!"

Vô Tâm nghiêm sắc mặt nói, "Các hạ quanh năm du hiệp giang hồ, tại sao không biết chuyện mấy năm gần đây nhà Nam Cung thế gia có xảy ra mấy việc rất lớn, làm chấn động toàn thể giới võ lâm?"

Người cụt tay trầm ngâm một lát rồi nói, "Việc này chính ta cũng không thể nói với ai được, nhưng bữa nay ta phá lệ nói cho ngươi biết, gần mười năm nay ta vẫn ở ẩn trong sơn cốc, không ra đến ngoài, nên mọi việc xảy ra trong giang hồ, ta tuyệt không biết gì hết. Mãi đến mấy tháng gần đây, ta ở yên lâu quá lại muốn ra ngoài nhưng nếu không gặp các ngươi, ta cũng chẳng hỏi đến việc giang hồ làm gì."

Ông ta nói mấy câu đó bằng một giọng cực kỳ đau khổ, đủ hiểu nếu quá khứ của ông không có sự gì quá ư thương cảm thì sao lại chịu giam mình vào u cốc đằng đẵng mười mấy năm trời, không hỏi đến thế sự. Vô Tâm thở dài nói, "Đã vậy tại hạ cũng xin nói thực người mà các hạ gặp ở Chung Nam dạo nọ, chỉ là cô gái cải dạng nam trang."

Người cụt tay nổi giận hét to, "Nói láo! Nhà Nam Cung thế gia mấy đời độc tử, làm gì có con gái? Nếu bảo là nhà Nam Cung đem kỳ bí truyền cho người ngoài, thì càng lại là một sự không thể có được. Ngươi tưởng đánh lừa được ta đấy hả?"

Vô Tâm chú ý nhìn ông ta gằn từng tiếng, "Người con gái đó tuy không phải là chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia, nhưng cũng là quả phụ của nhà ấy."

Trong khi nói chàng vẫn theo dõi từng nét biến đổi trên khuôn mặt người đàn ông thần bí, mắt không dời nửa phút. Quả nhiên ông ta nghe tới đấy, sắc mặt đã tái xanh, lẩm bẩm một mình, "Quả phụ... quả phụ..." Thốt nhiên ông ta thét lên, "Vậy thì chủ nhân đời thứ năm của nhà Nam Cung thế gia cũng chết rồi ư?"

Vô Tâm gật đầu, ông ta lại quát, "Nhưng... nhưng làm sao mà chết được?"

Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Một đêm mưa gió bị một tên cướp đường giết chết. Đối phương đều bịt mặt nên mãi tới bây giờ trong giang hồ vẫn chưa ai biết."

Người cụt tay thân thể run run, ánh mắt đầy vẻ oán độc đau đớn, tuy ngồi trong bóng tối mà Vô Tâm vẫn trông rõ rành rành. Một lúc sau, ông ta lại lẩm bẩm, "Một vụ án không có đầu mối, lại thêm một vụ án không có đầu mối."

Vô Tâm gật đầu, "Cái chết của mấy đời chủ nhân Nam Cung thế gia đều thành những vụ án không có đầu mối.Trong giang hồ ai cũng thương tiếc, có mong có ngày việc ấy được phơi bày ra ánh sáng... Có một điều rất lạ là Nam Cung phu nhân không những không chịu tương trợ mà trái lại còn..."

Người cụt tay chợt quát to, "Câm mồm!"

Vô Tâm quả dừng lại không nói nữa. Người cụt tay chợt hỏi lại, "Ngươi nói dối ta, người ấy là quả phụ nhà Nam Cung thật ư?"

Vô Tâm gật đầu chưa kịp đáp, người cụt tay đã ngửa cổ lên trời cười ha hả, "Coi con bé ấy đối với sự sống chết của ngươi, quan tâm đến thế, đủ hiểu giữa ngươi với nó sự quan hệ quyết không tầm thường."

Vô Tâm đỏ mặt lại cãi, "Không... không..."

Người cụt tay lại sầm mặt quát, "Ngươi đã biết nó là vợ góa người ta, sao lại còn... còn đi với nó?"

Vô Tâm cười gượng nói, "Tại hạ chỉ cùng đi với Điền cô nương, dọc đường vẫn lấy lễ tương đãi, quyết không có điều gì xằng bậy."

Người cụt tay chợt chỉ vào mặt Vô Tâm chửi, "Mẹ kiếp! Ngươi đã biết câu "Vườn dưa chữa dép" chưa? Nếu người ngoài biết các ngươi như thế, dù cho không có chuyện gì, cũng không ai tin được! Ngươi đã tự coi mình là người hiệp nghĩa, sao lại vô hình chung làm hại danh tiết của con người ta?"

Vô Tâm bị ông ta mắng một thôi một hồi, không biết phân biện làm sao, bất giác buột miệng nói, "Các hạ quan tâm đến việc nhà Nam Cung như vậy, lại biết cả ngón võ học bí truyền của Nam Cung thế gia, hoặc giả cũng có liên quan gì đến nhà ấy chăng?"

Người cụt tay tái mặt quát, "Những việc bất nhân bất nghĩa như vậy, ai trông thấy mà không nhúng mồm? Cứ gì lão phu? Vừa rồi ngươi đối với lão phu có chút ân tình, nhưng lúc này lão phu không thể không cho quân ác nô thất đức như ngươi một bài học!"

Nói chưa dứt lời, ông ta đã quăng con dao dài đi, bàn tay chìa ra, năm ngón tay cong lên, trong bóng đêm trông chẳng khác gì một con độc long ở trong đám mây mù nhe nanh giơ vuốt xông ra.

Vô Tâm biết vũ công của ông ta cao không biết đến đâu mà lường, bèn không dám sơ suất, vội nghiêng người né tránh miệng thì kêu to, "Chúng ta là bạn không phải là thù, các hạ không nên quá nóng."

Người cụt tay chẳng nói chẳng rằng, một chân cứ nhảy lên thoăn thoắt, nháy mắt đã phóng ra hai chiêu, chiêu thức không những quái dị phiền phức, chưởng phong phơi phới như bông non bay trong gió loạn, thân hình chuyển động, tấn tốc dị thường. Nhân vì ông ta chỉ có một chân, thế đứng không được vững vàng, nên phải dùng thân pháp cực kỳ tấn tốc để bổ khuyết cho chỗ thiếu xót.

Vô Tâm nghĩ thầm, "Người này nghe ta nói Điền Tú Linh là quả phụ nhà Nam Cung liền trở mặt ngay. Có lẽ ông ta chính là "người ấy" chăng? Nếu không thì sao lại dễ giận thế?"

Lúc này chưởng phong của đối phương đã giăng bủa đầy trời, tuy rằng hư nhiều thực ít, nhưng cũng đủ khiến cho người ta không biết đấu mà lường. Vô Tâm đánh chỉ đứng vững như trái núi lấy bất biến mà ứng vạn biến.

Chàng thấy chưởng thế của Người cụt tay chưa đến mà một luồng gió mạnh kinh hồn đã buốt lạnh tới xương tủy, nên càng phải đề phòng nghiêm mật. Mãi tới lúc này chàng cũng không có ý muốn chống lại đối phương nên không phóng chiêu ra.

Ông già tuy chỉ có một tay nhưng trong lúc phóng chiêu trông tưởng như có trăm ngàn cánh tay cùng khua múa một lúc. Thốt nhiên ông ta quát to một tiếng, tung chân đá vào giữa ngực Vô Tâm.

Vô Tâm tuyệt không ngờ ông ta chỉ có một chân mà dám thi triển chiêu thức hung hiểm như "xuyên tâm thoái" tất phải có công lực kinh người. Phương pháp đó làm cho đối phương không còn lối nào mà tránh. Vô Tâm trong lúc bất ngờ, dẫu có tài trời, mà đứng giữa khoảng đất chật hẹp này cũng khó lòng xoay trở, nhưng nếu cứ liều lĩnh hứng đòn, thì chắc chắn sẽ phải bị thương. Chàng đã không muốn bị thương song trong lúc thảng thốt cũng chưa biết đối phó cách nào.

* * *

Trong Đại tân quan, phụ cận thành Bảo kê, có một thị trấn nhỏ gọi là Điền gia tập.

Thị trấn này tuy nhỏ, nhưng rất có tiếng, nhân vì những vị hào sĩ vũ lâm trong địa phận Thiểm Tây sau khi quy ẩn phần nhiều hay về đấy định cư. Anh hùng tuy già nhưng cũng không cam tịch mịch, mới tụ tập các bạn cố tri vào một chỗ, để khi nhàn rỗi, có người tâm sự cho khuây.

Cuối phố lớn trong trấn, có một tửu quán gọi tên Kim bồn cư, bán thịt bò và rượu trắng, địa phương tuy giản lậu, rượu thịt tuy không ngon nhưng ba chữ "Kim bồn cư" chính hợp với tỳ vị những vị anh hùng trở về cảnh Kim bồn tẩy thủ lúc tàn niệm, vậy nên sự làm ăn rất phồn thịnh, trong quán thường thường không có bàn trống.

Một hôm gió bấc hun hút, giá lạnh như cắt, trong Kim bồn cư cũng đầy những người.

Mấy chiếc bàn vuông lớn, khách hầu hết là các vị hào sĩ quy ẩn ở trong Điền gia tập, duy trong một chiếc bàn con kê sát góc quán, có một người mặc áo bào xám, ngồi quay mặt vào vách, cúi gầm mặt xuống ăn miến, trên bàn còn đặt một gói hành lý, rõ ràng là khách vừa từ phương xa tới.

Thực khách trong quán tuy toàn là những bậc đầu râu tóc bạc, nhưng mỗi lần có dịp gần nhau, nhất là khi đã chếnh choáng hơi men, thôi thì rượu vào lời ra, cười nói ồn ào như vỡ chợ, hào khí buổi thiếu thời vẫn không suy giảm.

Chính giữa lúc cuộc chuyện đang nồng, chợt thấy một ông già râu tóc trắng như cước từ ngoài cửa quán hấp tấp bước vào. Ông ta tuy tuổi đã khá cao, nhưng thân thể vẫn còn tráng kiện, da dẻ hồng hào, sắc mặt lúc này có vẻ hớt hải.

Mọi người trông thấy ông vào, đều nhao nhao chào hỏi, mời ngồi, một người hỏi, "Trông Điền đại ca hớt hải thế kia, chắc lại mới nghe được tin gì lạ phải không?"

Vị Điền đại kha uống luôn ba chén rượu đầy rồi mới thở khà một tiếng, đưa mắt nhìn khắp mọi người nói, "Một tin động trời, một tin kinh hoàng! Tôi vừa nghe thấy phải vội tới đây báo cáo với các vị ngay, không dám chậm nửa phút."

Mọi người kinh sợ cùng nhìn trừng trừng vào mắt ông già. Ông ta thì thào ra vẻ bí mật, "Hôm nay thằng con lớn tôi vừa cho tôi hay một tin, tin này hiện thời trong giang hồ còn chưa ai biết, các vị nghe xong chớ có tiết lộ nhé."

Mọi người cùng đáp, "Đại kha cứ nói đi."

Ông già họ Điền ngập ngừng giây lát rồi hạ giọng thì thào, "Vị anh hùng mà anh em mình vẫn thường nhắc đến luôn ấy mà, ông ta chết rồi, chết ở sau núi Chung Nam, cách đây chừng độ vài ba hôm."

Tức thì mấy câu hỏi cùng tung ra một lượt, "Ai? Ai? Vị anh hùng nào?"

Một người vội hỏi, "Ai? Người ấy là ai? Đại kha thử nói rõ xem nào?"

Ông già họ Điền đằng hắng một tiếng rồi nói, "Người ấy là Nhâm Vô Tâm."

Câu nói ấy vừa thốt ra khỏi miệng ông già, người mặc áo xám từ nãy vẫn ngồi ngoảnh mắt vào tường, tựa hồ như hơi rùng mình, mấy người kia cũng đều tái mặt kêu lên, "Nhâm Vô Tâm? Làm sao mà chết? Ai giết? Có đúng thật không? Điền đại kha nghe lầm chăng?"

Mỗi người một câu nhao nhao cật vấn. Ông già họ Điền sầm mặt đáp, "Tôi nghe rõ lắm, không thể sai được, họ còn nói là bên Nam phương hiện đang vì việc này mà gây thành những chuyện long trời lở đất, náo loạn tơi bời. Bọn thủ hạ Nhâm Vô Tâm bấy nay vẫn che nanh giấu vuốt, chưa tới thời cơ, chưa dám vọng động, vậy mà khi nghe thấy tin đều tức giận, điên lên, cơ hồ không nhịn nổi,... nhưng rồng không đầu, còn làm gì được? Ôi, ho... ọc... ho... ọc...!" Ông ta ho khan vài tiếng rồi lặng im không nói gì nữa.

Không khí trong quán lúc này đột nhiên trở nên trầm tịch nặng nề, mọi người chỉ đưa mắt trông nhau, không ai thốt lên một tiếng.

Người mặc áo bào xám ngoảnh mắt vào tường nên không ai trông rõ sắc diện, nhưng cứ trông bàn tay cầm đũa của ông ta run lẩy bẩy, cũng đủ biết cái tin dữ ấy đối với ông ta còn quan trọng hơn đối với bọn kia nhiều.

Một lúc lâu mới có người rụt rè lên tiếng, "Cái tin này đã chắc đâu là đùng? Biết đâu chẳng bọn thầy trò bênNam... tự bày ra để làm loạn nhân tâm?"

Điền ông lắc đầu thở dài, "Không, tin này đích xác lắm..., không thể lầm được, chỉ vì tôi không tiện nói rõ tên người."

Vừa nói đến đấy, chợt nghe tiếng người áo xám sừng sộ quát, "Một tin quan trọng như vậy, sao ngươi đang nói nửa chừng lại thôi?"

Tiếng hắn hét vang như sấm, làm cho cốc chén trên bàn cũng rung lên thành tiếng, mọi người đều cảm thấy như bị xé màng tai.

Mấy người này đều là những tay giang hồ lão luyện, thấy thế biết ngay người áo xám tất phải là một cao thủ võ lâm, nội lực thâm hậu, liền đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt tái mét.

Ông già họ Điền lẳng lặng hồi lâu rồi sẽ hỏi, "Các hạ là ai? Tại sao lại quan tâm đến việc ấy?"

Người mặc áo xám không hề quay lại, chỉ sẵng giọng đáp, "Ta muốn ngươi nói, ngươi cứ nói, hà tất phải hỏi căn vặn."

Ông già họ Điền sầm mặt nói, "Ta không nói là không nói, ngươi làm gì được ta?"

Người áo xám thốt nhiên cười hà hà, ấn hai tay xuống bàn, tức thì cả người lẫn ghế đều bay lên.

Mọi người chỉ thấy hai tai ù ù, cặp mắt hoa lên, Người áo xám đã bay qua đầu thực khách, cả người lẫn ghế rơi đánh sầm một tiếng xuống chiếc bàn lớn, người vẫn ngồi yên trên ghế, dưới ánh đèn chỉ thấy ông ta mặt vàng như nghệ, hai mắt sáng quắc, khiến không ai dám nhìn thẳng.

Đó chính là một ngón khinh công tuyệt thế, ít thấy trong giang hồ, mấy ông già trông thấy đều lắc đầu lè lưỡi, tự biết mình không phải địch thủ.

Người áo xám mắt sắc như dao, trừng trừng nhìn vào mặt Điền đại kha nói gằn từng tiếng, "Câu chuyện này đầu đuôi ra sao? Ngươi có nói hay không thì bảo?"

Ông già luống cuống lùi lại mấy bước lắp bắp, "Tin... tin ấy là của con trai lão nói... nó... nó..."

Người áo xám hỏi bằng một giọng gay gắt, "Hiện giờ nó ở đâu? Ta muốn nói chuyện với nó một lát."

Ông ta mặt mũi tuy xấu xí, song giọng nói oai nghiêm như một ông tướng ra lệnh. Ông già họ Điền cúi đầu nói sẽ, "Khuyển tử vừa về nhà được một lúc, lại vội hấp tấp đi ngay rồi."

Người áo xám cau mày hỏi, "Đi ngay? Đi đâu?"

Điền ông sắc mặt nhợt như tờ giấy, ấp úng không nói nên lời, Người áo xám lại càng hỏi dồn, luồng nhãn quang sáng chói cứ nhìn trừng trừng vào mặt ông già không chớp.

Giữa lúc ấy chợt có một người nói to, "Điền đại kha không muốn nói, thì để tôi nói đỡ, con đại kha là Tam ban bổ đầu trong phủ Long Môn."

Người áo xám cười nhạt, "Người trong công môn, sao lại biết những việc bí ẩn trên giang hồ? Nếu các ngươi không chịu nói thật, thì chớ trách ta vô lễ."

Điền ông biết thế không giấu được, bèn khẽ thở dài đáp, "Chẳng giấu gì các hạ, thằng con bất thành tài của tôi đã lăn lộn trong giới giang hồ bao lâu, mà chẳng làm nên được trò trống gì, bây giờ nó ở bên phủ Tây an, làm nghề gánh thuê cho người ta, chớ có phải là công sai, công siết gì đâu! Tôi có thằng con như vậy, thật cũng xấu hổ nên chẳng dám nói với ai."

Người áo xám vẫn lắc đầu tỏ vẻ không tin, "Nếu là dân lao động, thì lại càng không biết chuyện giang hồ lắm!"

Ông già ngập ngừng nói, "Núi Chung Nam sau cơn biến cố, thây tích như rừng, các vị đạo gia trên Huyền diệu quan xuống núi mướn một bọn dân phu khiêng quan tài, trong số đó có cả thằng con lão. Quan tài của Nhâm đại hiệp chính mắt cháu trông thấy. Nó còn gặp rất nhiều nhân vật võ lâm lên núi hỏi thăm tin tức của Nhâm đại hiệp. Chính miệng vị chưởng môn chân nhân cũng nói là Nhâm đại hiệp đã chết. Không lẽ một vị chưởng môn danh cao trọng vọng như vậy lại còn nói sai à? Vì thế lão hủ dám quyết tin ấy hoàn toàn chính xác."

Người áo xám nghe đến đây, thân hình đã run lẩy bẩy, lặng ngắt không nói nửa lời. Một lát sau mới từ từ đứng lên, khóe mắt hình như đã long lanh ngấn lệ.

Thốt nhiên nghe phía ngoài cửa có tiếng người cười nhạt, "Gia gia tôi già lão, nói năng không được minh bạch, muốn hỏi gì cứ hỏi tôi này?"

Mọi người đều giật mình quay ra. Người áo xám quát, "Ai? Vào đây!"

Tức thì bức rèm cửa vén cao lên, rồi một gã thanh niên mặc áo đen ung dung bước vào.

Đó là một người thân hình cao lớn, cử chỉ nhanh nhẹn, mày rậm mắt sáng, diện mạo hung ác, trông không có vẻ gì là dân lao động. Người áo xám ngạc nhiên nghĩ thầm, "Tên này rõ ràng là một tay có ngoại công rất cao, sao cha hắn lại bảo hắn làm nghề gánh mướn? Hừ!" Ông ta quay lại hỏi ông già, "Có phải lệnh lang đó không?"

Ông già gật đầu, "Đó chính là khuyển tử Điền Uy."

Người áo xám lại hỏi gã thanh niên, "Ngươi trông thấy quan tài của Nhâm tướng công ở đâu?"

Điền Uy đáp, "Sau khi hắn chết, quan tài được tên thư đồng đem đi đây mất, không ai biết cả."

Người áo xám lại hỏi, "Tại sao Nhâm tướng công chết? Và chết vì tay ai?"

Điền Uy cười nói, "Hắn vì theo đuổi một đứa con gái, nên bị mấy người cùng đi với hắn là Bách Nhẫn thiền sư và Huyền Chân đạo trưởng tiếp tay nhau đánh cho một chưởng chết tốt!"

Hắn nói chưa dứt lời, mọi người đều kinh sợ, buột miệng kêu lên một tiếng. Người áo xám tái mặt quát, "Quân nô tài khốn nạn, dám bịa chuyện vu khống cho người! Ngươi là ai?"

Điền Uy ngửa cổ lên trời cười sằng sặc nói, "Ngươi không phải là Bách Nhẫn, cũng chẳng phải là Huyền Chân, tại sao biết Nhâm Vô Tâm không bị giết vì tay họ?"

Người áo xám nổi giận quát, "Quân này to gan thật!"

Nói xong thốt nhiên giơ tay khóa chặt mạch môn Điền Uy. Điền Uy vội nhảy tránh ra xa ba thước, cười một cách đanh ác nói, "Hôm nay ngươi đừng hòng sống mà ra khỏi đây!"

Hắn giơ cao hai tay lên gọi to, "Các anh em vào cả đây!"

Tiếng quát chưa dứt, đã nghe phía ngoài nổi lên những tiếng bình bình, các cửa sổ lớn đều bật tung ra, rồi một bọn bảy tám tên mặc võ phục đen, bịt mặt, nhảy qua cửa sổ xông vào, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn.

Mọi người đều kinh hồn hoảng vía, mặt cắt không còn hột máu, nhất là Ông già họ Điền càng run bần bật lắp bắp nói không ra hơi, "Uy... Uy nhi, mày làm cái gì thế?"

Điền Uy cười nhạt, "Việc này không can gì đến gia gia, các vị lui cả ra ngoài kia."

Ông già họ Điền còn muốn nói nữa, người áo xám đã cười khảy, "Con ngươi là tay sai của Nam Cung thế gia, ngươi còn chưa biết à?"

Ông già trợn mắt nhìn Điền Uy run run hỏi, "Thật thế à?"

Điền Uy chưa kịp đáp, người áo xám đã cười nhạt nói, "Hắn cố ý nói lộ tin ấy ra, mục đích chỉ cốt để do thám xem ai là phe đảng của Nhâm Vô Tâm, chớ làm gì có chuyện thật như vậy."

Điền Uy cười một cách gian ác, "Lão thất phu đoán tài thật!"

Ông già họ Điền giận run lên, trỏ tay vào mặt Điền Uy thét lớn, "Đồ... đồ súc sinh! Mày đã làm chó săn cho nhà Nam Cung, lại đem bố mày ra làm công cụ do thám."

Điền Uy cũng giận dữ quát trả, "Ừ, thế đã sao nào?"

Ông già giận quá, râu tóc dựng ngược, hét vang như sấm, "Đồ khốn nạn nhận giặc làm cha! Ta cũng liều mạng già này với mày."

Ông ta vừa hầm hầm xông tới, từ chợt một gã bịt mặt ở ngoài nhảy vào túm lấy cổ tay ông giằng ra quát, "Bỏ ra!"

Gã bịt mặt co chân đá hất ông già ra khỏi cửa tiệm, miệng thét, "Ta nể mặt con lão, hãy tạm tha cho một lần, cút!"

Ông già trong lúc bất ngờ, bị một cái đá bằng trời giáng, không chống cự nổi, thân hình lập tức theo đà chân của gã nọ hất văng ra ngoài cửa quán, rồi rơi bịch xuống đất.

Điền Uy vẫn làm lơ như không có chuyện gì xảy ra, mọi người vừa giận vừa sợ, một ông già ý chừng là bạn thân của ông lão họ Điền, chợt rút trong mình ra một lưỡi chủy thủ, trỏ vào mặt Điền Uy mắng, "Điền đại kha sinh phải một thằng nghiệt tử như mày, Hồ lão này cũng lấy làm nhục thay! Ta quyết thay mặt cha mày, cho mày một bài học."

Nói dứt lời, chân đã bước sấn lên, cầm lưỡi chủy thủ đâm vào ngực của Điền Uy. Điền Uy chỉ sẽ nghiêng người tránh thoát. Hồ lão đâm hụt thân thể cũng bị chúi về phía trước. Ông ta vừa toan đứng thẳng dậy, cổ tay đã bị Điền Uy nắm lấy bóp thật chặt. Ông già đau quá, bàn tay dời ra, mũi chủy thủ tức thì rơi xuống đất đánh "xoảng" một cái.

Điền Uy thừa thế xô mạnh một cái, Hồ lão loạng choạng vài bước rồi ngã nằm sóng soài ra đất. Điền Uy cúi xuống nhặt mũi chủy thủ lên giơ tay bẻ gãy làm đôi rồi cười nhạt ném ra cửa. Tên bịt mặt đưa mắt nhìn khắp mọi người rồi nói, "Ai không có phận sự ở đây thì đi về đi, đứng lẩn quẩn ở đây lỡ có què tay gãy chân lại oán!"

Mấy cụ già tự liệu sức mình, không đương nổi tụi hung thần ác sát, dẫu có đứng đây cũng chẳng được ích gì, có khi còn bị chết oan, bèn đưa mắt cho nhau, rồi lũ lượt bước ra khỏi quán.

Người áo xám nãy giờ vẫn đứng một bên, đôi mắt long lanh, chú ý theo dõi hành động của tụi áo đen. Khi thấy tụi chúng đuổi bọn ông già đi, liền nghĩ thầm, "Tụi khát máu này sao bữa nay lại nhân từ như vậy? Có lẽ họ tưởng họ sắp thành công đến nơi, nên mới giả nhân giả nghĩa để thu phục nhân tâm chăng?"

Lúc này trong quán chỉ còn ông ta và tụi áo đen. Điền Uy nhìn ông, cười gằn nói, "Nhâm Vô Tâm xuống suối vàng, đang buồn vì đường trường không bạn, bằng hữu mau đi theo hắn cho vui."

Người áo xám chợt ngửa cổ lên trời, cười ha hả, "Nhâm Vô Tâm là một bậc kỳ tài khi nào lại bị chết về tay một lũ vô danh tiểu tốt như các ngươi? Ngươi che mắt ta sao nổi?"

Điền Uy cười sằng sặc nói, "Ngoài miệng tuy ngươi vẫn nói là không tin, kỳ thực trong bụng tin lắm, nếu không thì sao vừa rồi lại kinh hoàng đến thế? Thôi bây giờ ngươi biết điều thì xưng danh hiệu ra để các vị thái gia đưa ngươi về cực lạc mát mẻ."

Gã áo đen nói, "Nói chuyện với hắn làm gì cho phí lời! Cứ đánh chết đi là xong. Dằng dai mãi, lỡ đồng bọn của hắn kéo đến, lại thêm phiền phức."

Người áo xám quát, "Chỉ cần một mình lão phu cũng đủ trị nổi lũ chuột nhắt các ngươi! Cần gì phải nhờ ai giúp sức!"

Gã áo đen chợt quát to một tiếng, giơ tay ra hiệu cho đồng bọn, tức thì bọn người đứng xung quanh đều rút binh khí kéo ồ lên, vây Người áo xám vào giữa.

Gã áo đen ra lệnh cho thủ hạ tấn công, còn mình và Điền Uy thì lùi ra cửa, vừa nghe ngóng động tĩnh bên ngoài vừa lược trận.

Thấy bọn áo đen cầm binh khí xông vào, chiêu thức của họ đều kỳ quỷ vô cùng, khác hẳn với lộ số thông thường thấy trong vũ lâm, có điều người nào cũng nhanh nhẹn, rõ ràng là những nhân vật đã thành danh trong giang hồ.

Người áo xám vũ công đã vào bậc siêu thần nhập thánh, một mình đứng giữa bọn võ lâm cao thủ, bốn phía giáp công, tuy không dám nắm chắc phần thắng, nhưng trong phút chốc cũng không thể thua được. Ông ta dùng chiêu thức "Thất thập nhị đại tiểu cầm nã thủ" xen lẫn cả chiêu "Không thủ nhập bạch nhận" thi triển thần công "Đại ưng trảo lực" khiến cho hơn mười món võ khí của quân địch không món nào tới được gần người.

Thoáng chốc đã hết ấy chục chiêu mà gã bịt mặt lộ vẻ sốt ruột, chợt quát to một tiếng, xông vào vòng vây, tả quyền hữu chưởng, tấn công tới tấp như mưa rào, nháy mắt đã phóng luôn được ba chiêu, nhanh hơn luồng chớp.

Người áo xám tay không chống với hơn mười mấy món binh khí cũng đã thấy khó khăn, nay lại thêm gã bịt mặt, tình thế càng trở nên nguy hiểm. Chợt gã thét lên, "Trúng này!"

Hai tay gã cùng đánh ra một lúc, chưởng ảnh biến ảo linh động, không ai trông rõ hắn đánh vào đâu.

Người áo xám kinh sợ, đồng thời lại thấy phía sau, và hai bên tả hữu có ba luồng gió ào ào ập tới, trước sau năm mặt tấn công, toàn những ngón đòn chí tử. Trước tình thế ấy dù người có vũ công cao đến đâu, cũng khó lòng tránh thoát.

Giữa lúc tình huống mười phần nguy hiểm, Người áo xám chợt cúi rạp xuống, đổi chưởng thành quyền, mỗi quyền vạch ra nửa vòng cũng, tống ra luôn năm quyền, chống lại năm mặt. Điền Uy đứng ngoài buột miệng kêu, "Quyền pháp giỏi tuyệt!"

Gã bịt mặt cất tiếng cười ha hả, nhảy tới bên Điền Uy. Điền Uy ngạc nhiên hỏi, "Mình đã thắng thế, sao không đánh dấn lên, mà hạ hắn đi cho rồi?"

Gã bịt mặt cười một cách đắc chí, "Cứ để mặc bọn kia đối phó cũng xong, bản toạ chỉ cốt làm cho hắn phải thò ngón vũ công bản môn của hắn ra là đủ."

Điền Uy hỏi, "Ngón quyền vừa rồi là vũ công của hắn đấy à?"

Gã bịt mặt gật đầu Đó chính là quyền pháp chấn sơn "Phục hổ la hán quyền" thế mà không biết, đồ ngốc."

Điền Uy kinh sợ hỏi, "Nếu vậy người này là môn hạ của thiếu lâm hay sao?"

Gã bịt mặt cười ha hả, "Phái Thiếu Lâm tuy rất đông nhân tài nhưng những người luyện được "Phục hổ la hán quyền" tới công lực đó, cũng chỉ có độ vài ba người. Tên này không phải là Bách Đại thì cũng là Bách Nhẫn."

Mấy câu sau cùng hắn nói thật to, y như quát hỏi Người áo xám. Người áo xám thấy hắn đã nhận ra lai lịch của mình, hơi tái mặt liền quát, "Nghiệt chướng! Để ta cho các ngươi nếm thủ đoạn Thất thập nhị tuyệt nghệ của phái Thiếu lâm."

Nói dứt lời quyền chiêu chợt biến đổi, chớp mắt đã phóng được bảy chiêu, chỉ nghe tiếng quyền phong vù vù , quyền thế mở rộng, sức mạnh như bạt núi băng ngàn, quả có cái uy quyền như Chư thiên la hán hàng long phục hổ.

Gã áo đen cười khanh khách nói, "Các anh em ráng lên, hãy bắt sống lấy thằng trọc ấy cho ta, dừng để hắn chạy thoát."

Tức thì mười mấy món binh khí kết thành một màn kim khí, ánh sáng loang loáng vây chặt lấy Người áo xám.

Người áo xám tức giận điên cuồng, chiêu thức để lộ nhiều chỗ trống, thốt nhiên một lưỡi hổ truỳ đâm trúng vào bả vai, máu tuôn ra như suối.

Gã áo đen đứng ngoài còn cố tìm lời châm chọc, chế diễu, Người áo xám giận lắm quát lên một tiếng, nhưng tiếng quát chưa ra khỏi miệng, chợt nghĩ, "Hắn cố tình khiêu khích cho mình tức giận, mất hết bình tĩnh ứng phó, sao mình lại mắc mưu hắn?" Nghĩ vậy liền cố bình tĩnh ứng phó, lờ như không nghe thấy những câu nhục mạ của đối phương. Qua hết mười chiêu, quả nhiên đã hơi vững thế.

Nhưng lúc này vết thương của ông ta đã rát như phải bỏng, đau buốt dị thường, cánh tay trái xoay trở rất khó khăn. Gã bịt mặt lại kêu to, "Thằng trọc đã bị thương ở vai trái rồi, các anh em cố lên, cứ nhè vào phía trái hắn mà đánh."

Nói xong hắn cướp lấy hai cái bút trong tay một tên thủ hạ, nhanh như cắt ném vào phía trái đối phương. Người áo xám tuy đã hết sức né tránh nhưng các món võ khí khác lại tới tấp đưa tới, chỉ một chút sơ ý, lại bị trúng một chiêu nữa.

Chỉ trong phút chốc suốt từ vai trái xuống đến cánh tay ông ta, đã ướt đầm những máu, chỉ còn sót lại cánh tay phải gắng gượng chống đỡ, nhưng tình thế đã mười phần nguy ngập.

Người áo xám quả vẫn cố ý chờ đợi một người nhưng tới giờ phút này vẫn chưa thấy người đó xuất hiện. Ông nghiến răng cố phẫn lực đánh thẳng một quyền về phía trước, nghĩ thầm, "Ta có chết cũng không khi nào chịu để các ngươi bắt được." Ông chợt ngửa cổ hú lên một tiếng dài, rồi giơ quyền lên định đập vào Thiên linh cái.

* * *

Nói về Nhâm Vô Tâm thấy người cụt tay phi chân lên đá, chàng đã không muốn đỡ đòn, lại cũng không còn cách gì tránh thoát.

Người cụt tay đã đặt chân lên ngực Vô Tâm, nội lực tu vi của ông ta thật kinh nhân, gót chân vừa chạm vào ngực chàng, mà lực đạo còn ghìm lại chưa phát, thân thể của ông ta cũng dựa vào một điểm chân lực đó mà đứng vững trên không.

Vô Tâm thấy thế kinh hoàng vô cùng, biết rằng mình chỉ hơi động đậy một tý, là nội lực từ trong gót chân của ông ta tuôn ra, dù mình có bản lĩnh tày trời, cũng khó lòng thoát khỏi tan gan nát ruột, bèn chỉ đành nín thở đứng yên.

Hai người cùng lẳng lặng ghìm nhau một lúc lâu, Vô Tâm mồ hôi chảy ra như suối, chàng cố định tâm thần, mỉm cười nói, "Nếu tiền bối muốn hỏi điều gì, xin cứ điểm huyệt tại hạ, rồi hãy nói sau cũng được."

Hồi thứ bốn mươi ba

Chính khí cứu cao tăng

Người cụt tay thấy chàng ở trong tình huống ấy mà vẫn còn dám mở miệng nói năng, bất giác cũng kinh ngạc, nghĩ thầm, "Tên này to gan thật." Ông ta nghĩ vậy, liền bỏ chân xuống, quát, "Ta không điểm huyệt ngươi, ngươi làm gì được ta?"

Vô Tâm mỉm cười nói, "Tiền bối khó khăn lắm mới bắt được tại hạ, nay lại thả ra, chẳng cũng thất sách lắm ru?"

Người cụt tay giận dữ quát, "Vừa rồi ngươi cứu ta, tuy ta không chịu ơn, nhưng cũng tha cho ngươi một lần."

Vô Tâm lại cười nói, "Tiền bối thử nghĩ kỹ xem, vừa rồi tiền bối đá một chân lên, tại hạ thừa sức chống lại, mà sao tại hạ không chống?"

Người cụt tay ngẩn người ra một lát, rồi nói, "Vì ngươi làm những việc trái với lương tâm, nên trong bụng mới khiếp sợ."

Vô Tâm vẫn cười nói, "Nếu quả tại hạ ăn năn xấu hổ, thì hà tất còn phải chờ tiền bối hạ thủ, mà đã bó tay chịu trói từ nãy rồi!"

Người cụt tay chưa biết nói sao, Vô Tâm lại tiếp, "Tại hạ sở dĩ không chống lại là vì tại hạ không muốn hại tiền bối, và cũng biết là tiền bối không hại tại hạ."

Người cụt tay cười ha hả, "Ta đang giận không xé xác được ngươi ra làm năm bảy mảnh, vậy mà ngươi còn dám tin là ta không muốn hại ngươi!"

Vô Tâm gật gù nói, "Tiền bối không muốn hại tại hạ là vì hai lý do..."

Người cụt tay ngơ ngác hỏi, "Lý do gì? Nói mau!"

Vô Tâm mỉm cười, "Một là vì tiền bối không thấy Điền cô nương đi với tại hạ, nên lo rằng Điền cô nương đã bị lạc vào tay đồng đảng của Nhâm mỗ, vậy nên ném chuột còn sợ vỡ đồ dùng. Tiền bối rõ ràng quan tâm tha thiết đến Điền cô nương nhưng lại không muốn cho ai nhìn thấu tâm sự, mới mượn cớ để nổi cơn lôi đình. Vì thực ra tiền bối trông thấy người ta giết người còn mặc kệ, lẽ nào vì một chuyện nhỏ mọn thế này mà phải bận tâm?"

Chàng phân tích thật hợp tình hợp lý, nhưng người cụt tay vẫn giận dữ quát, "Nói láo! Còn lý do thứ hai là gì?"

Vô Tâm cười nói, "Lý do thứ hai là... trong bụng tiền bối vẫn còn có sự ngờ vực, chưa dám quyết đoán, nên muốn nhờ tại hạ dò xét hộ."

Người cụt tay vẫn quát ầm ầm, "Ta có việc gì ngờ vực, thì sao không dò thám lấy, việc gì phải cần đến nhà ngươi?"

Vô Tâm lắc đầu, "Việc bí mật ấy tiền bối dò xét không ra đâu... Vả lại việc này trừ tại hạ, thì trên đời này cũng không ai dò xét nổi."

Người cụt tay hỏi, "Việc bí mật gì?"

Vô Tâm nói dằn từng tiếng, "Việc bí mật của Nam Cung thế gia!"

Mấy câu nói đó hình như đã đánh trúng tâm lý người cụt tay. Ông ta hơi rùng mình, nhưng chỉ thoáng qua một phút, lại cười ha hả, "Nhà Nam Cung thế gia với lão phu tuyệt vô quan hệ. Lão phu muốn biết việc bí mật của họ làm gì?"

Vô Tâm nói, "Tiền bối đã biết môn võ công bí truyền của Nam Cung thế gia, lại hết sức tha thiết đến việc Điền cô nương, do thế tại hạ dám quyết là tiền bối không những có quan hệ đến nhà Nam Cung thế gia mà thôi, lại rất có thể còn là người trong Nam Cung thế gia nữa."

Chàng nói đến đấy, đôi mắt sáng quắc lại nhìn chăm chăm vào mặt người cụt tay. Người cụt tay sắc mặt tái mét, cười gượng nói, "Ngươi càng nói lại càng vô lý, nếu ta là người nhà Nam Cung thế gia thì việc gì còn phải dò xét việc bí mật trong nhà Nam Cung thế gia nữa? Người thử nói rõ cho ta nghe xem nào!"

Vô Tâm thủng thỉnh nói, "Nhân vì... nhân vì năm xưa trong Nam Cung thế gia có một vị, không biết là chủ nhân đời thứ nhất hay đời thứ nhì nhà Nam Cung thế gia, bữa kia có chút việc tối ư bí mật phải đi đến một nơi nào đó mà hành tung và địa điểm chỉ có một mình Nam Cung phu nhân biết. Không ngờ khi ông ta đến nơi đó, chợt bị mấy tay võ lâm cao thủ, bịt mặt vây đánh. Mấy người này chẳng những đã không chịu thổ lộ tên tuổi lai lịch, mà đối với ông ta chúng còn tỏ ra căm giận thấu xương, quyết giết cho kỳ được mới nghe. Ông ta võ công tuy cao, nhưng vì cô thế bất địch chúng, nên bị hãm vào tuyệt địa."

Người cụt tay hỏi bằng một giọng run run, "Ngươi kể chuyện... chuyện cổ tích đấy à?"

Vô Tâm nói, "Tại hạ nói đây toàn là sự thực. Vả trong nhà Nam Cung thế gia từ chủ nhân đời thứ nhất, cho đến đời thứ năm đều gặp cảnh ngộ đó, người mà tại hạ nói đấy là một người may mắn nhất, đã từ trong tay thần chết chuồn ra được."

Trong khi nói, mắt chàng vẫn luôn luôn theo dõi nét mặt của người cụt tay, thủng thỉnh kể tiếp, "Ông ta thật là cửu tử nhất sinh, thân và tâm đều bị thương rất nặng, đến nỗi biến thành tàn phế. Ông vẫn băn khoăn không hiểu tại sao hành tung của mình lại bị tiết lộ, tuy ông ngờ cho Nam Cung phu nhân nhưng lại không dám điều tra, đành chỉ ngày đêm đau khổ một mình."

Người cụt tay thốt nhiên ôm lấy mặt, kêu to, "Ngươi... ngươi đừng nói nữa..."

Vô Tâm vẫn điềm nhiên nói tiếp, "Việc này không liên can gì đến tiền bối, tại sao tiền bối lại không muốn nghe?"

Người cụt tay thân hình hơi run run, lẳng lặng không nói. Vô Tâm nhìn ông ta một lúc, lại tiếp, "Tiền bối có sự gì đau khổ, sao không thành thực nói thẳng ra? Tiền bối có phải là vị chủ nhân Nam Cung thế gia đã may mắn thoát chết ấy không?"

Người cụt tay ngập ngừng một lát, rồi hỏi, "Nhâm Vô Tâm, ngươi đã..."

Ông vừa nói tới đấy, chợt nghe đầu góc u cốc phía bên có tiếng gọi thật to, "Nhâm tướng công! Nhâm tướng công ở đây à?"

Giọng nói vừa cao vừa trong, tỏ vẻ mừng rỡ vô cùng. Vô Tâm vội đáp, "Ai đấy? Nhâm mỗ đây!"

Chợt thấy người cụt tay quát to một tiếng, rồi quay mình chạy ra cửa cốc, thân pháp nhanh như luồng điện. Vô Tâm dẫu có muốn nhảy ra ngăn lại cũng không kịp, bất giác buột miệng kêu rầm lên, "Giữ lại, giữ ông ta lại! Đừng để chạy mất!"

Lúc này phía ngoài quả nhiên có một người xăm xăm chạy tới, chắn ngang trước mặt người cụt tay. Người cụt tay gầm lên một tiếng, vung tay phóng ra một chưởng. Trong bóng tối tuy không trông rõ bộ vị xuất chưởng ở chỗ nào, nhưng cứ nghe tiếng chưởng phong vù vù, cũng đủ rõ là lực đạo mạnh lắm.

Nhưng người đứng phía ngoài võ công cũng rất cao, chỉ nghe tiếng cũng liệu nhận được bộ vị, bèn lập tức huy chưởng lên đón đỡ.

Hai chưởng vừa va vào nhau, chỉ nghe "binh" một tiếng, hai người cùng giật mình kinh sợ, và cùng không ngờ rằng chưởng lực của đối phương lại hùng hậu đến thế. Nhưng người cụt tay thân hình chỉ hơi ngừng lại một chút, rồi lại tung mình chạy đi như bay, còn người kia thì lảo đảo lùi lại phía sau mấy bước, rồi va ngay vào bức vách đá ngã ngồi xuống đất.

Khi Vô Tâm ra đến nơi thì người lạ đang lổm ngổm bò dậy, miệng còn lẩm bẩm, "Ai mà có cái chưởng lực ghê gớm thế?"

Vô Tâm nghe rõ tiếng ông ta, bất giác giật mình kêu to, "Phải Bách Đại đại sư đấy không? Sao lại đến đây?"

Quả nhiên là Bách Đại thật. Ông không trả lời câu hỏi của Vô Tâm, lại hỏi lại, "Người vừa rồi là ai vậy? Bần tăng nghĩ không ra trong võ lâm có nhân vật nào mà chưởng lực kinh hồn đến thế?"

Vô Tâm thở dài nói, "Đại sư tới đây thật không may, nếu chỉ chậm một giờ nữa thì tại hạ đã có thể nói rõ được lai lịch của người ấy cho đại sư nghe rồi."

Bách Đại ngạc nhiên hỏi, "Sao lại lạ thế?"

Vô Tâm nói, "Tại hạ đang gạn hỏi lý lịch hắn, thì đại sư tới. Thế là hắn bỏ chạy. Nếu tại hạ đoán không lầm thì phen này người ấy xuất hiện trên giang hồ, trong võ lâm tất lại được xem nhiều trò vui."

Bách Đại vội hỏi, "Tướng công đoán hắn là ai?"

Vô Tâm nói, "Tại hạ đoán hắn là chủ nhân một đời nào trong Nam Cung thế gia, nhưng không rõ là vào đời nào!"

Bách Đại chợt biến sắc mặt hỏi, "Thật thế à? Nhưng nếu đã biết hắn là chủ nhân Nam Cung thế gia là đủ rồi, cần gì phải biết hắn thuộc về đời nào?"

Vô Tâm tỏ vẻ tiếc rẻ cười nói, "Cần lắm chứ! Nếu biết hắn là chủ nhân đời thứ mấy trong Nam Cung thế gia, thì tại hạ có thể gỡ được một mối ngờ từ bao lâu nay. Hơn nữa, nếu hắn nói cho mình nghe lai lịch của hắn, thì hắn cũng có thể cho mình biết những sự bí ẩn về cái chết của cha con ông cháu mấy đời nhà hắn. Nhưng thôi, không nói chuyện ấy nữa. Tại hạ hôm nay thật ra chết đi sống lại, không ngờ lại còn gặp đại sư. Không biết đại sư đi đâu mà lại đến đây?"

Bách Đại gượng cười đáp, "Bần đạo cứ yên trí là tướng công đã chết rồi, nên mới đến đây."

Vô Tâm chợt nhớ những chuyện xảy ra mới rồi, bèn mỉm cười nói, "Trong này lạnh quá, ta ra ngoài kia nói chuyện đi."

Hai người ra khỏi trường cốc, tưởng như bước sang một thế giới khác hẳn. Vô Tâm hỏi, "Sao đại sư lại đi có một mình? Còn lệnh sư huynh và Huyền Chân đạo trưởng đâu?"

Bách Đại thở dài nói, "Từ hồi có tin tướng công chết, tình thế đã trở nên đại loạn. Tệ sư huynh và Huyền Chân đạo trưởng cũng mất hết liên lạc."

Vô Tâm thấy Bách Đại quần áo lôi thôi, hình dung tiều tuỵ, trong áo hình như có băng bó vết thương. Đôi mắt cũng không được trong sáng như mọi khi, biết rằng ông ta chắc vừa trải qua một biến cố, bèn cười nói, "Đại sư hãy ngồi nghỉ một lát, rồi nói chuyện sau cũng được!"

Bách Đại theo lời, ngồi xuống bên gốc cây nghỉ, nhưng sắc mặt hình như vẫn có vẻ hoảng hốt không yên. Một lúc lâu mới thở dài nói, "Từ hồi tướng công đi xa, chúng tôi hai người kết bạn cùng đi. Sau nhận thấy trong giang hồ có rất nhiều người hình tích khả nghi, bọn chúng tôi vì cớ nhân số ít ỏi, nên phải chia nhau mỗi người một ngả, để dễ hành động. Tuy nhiên những sự liên lạc giữa chúng tôi vẫn không bao giờ gián đoạn."

Hồi ấy trong giang hồ bề ngoài vẫn êm ả như thường. Cho tới một hôm... Hôm ấy tôi và Huyền Chân đạo trưởng hẹn gặp nhau trong quán rượu ở một thị trấn nhỏ, gọi là quán Kim bồn cư, vì cớ trong những địa phương như vậy thường tình cờ nghe được nhiều tin tức, lại có thể tránh được tai mắt đối phương. Không ngờ...

Rồi ông thuật hết những chuyện tao ngộ ở Kim bồn cư cho Vô Tâm nghe.

Vô Tâm chỉ cau mày lẳng lặng ngồi nghe. Bách Đại đại sư ngừng một chút, rồi lại tiếp, "Lúc đó bần tăng thấy Huyền Chân đạo trưởng chưa tới nên đã quyết định tự sát, để khỏi lọt vào tay lũ chuột nhắt cho chúng làm nhục. Không ngờ chỉ trong nháy mắt đã nghe phía ngoài Kim bồn cư có những tiếng nổ dậy trời, rồi ba bề bốn bên không biết ám khí ở đâu, cứ nhắm bọn người áo đen bay vào tới tấp."

Vô Tâm nghe đến đấy, chợt mỉm cười nói, "Đó chắc là các vị bằng hữu võ lâm quy ẩn trong thôn không chịu nổi những thủ đoạn tàn bạo của nhà Nam Cung thế gia, nên mới nổi lòng công phẫn, triệu tập bọn người trong thôn đến cứu viện cho đại sư, chứ gì?"

Hồi thứ bốn mươi bốn

Thần quyền kinh ác quỷ, tố thủ khiếp cao tăng

Bách Đại đại sư than rằng, "Tướng công liệu việc đúng lắm! Ta nhận thấy trong số ám khí tung ra đó, có đủ các loại mũi tiêu sắc, tên nỏ, đạn, phi đao, luôn cả đá, gạch ngói nữa. Đủ thứ!"

Nói tới đây, Bách Đại mỉm cười rồi tiếp, "Thủ đoạn phóng ám khí của họ tuy chẳng cao siêu lắm, nhưng đều là những tay từng lăn lộn giang hồ, nên cũng khá mạnh, và chuẩn xác hơn người thường. Giả như chỉ có vài chục ngọn ám khí thôi thì bọn người áo đen kia có thể đối phó lại dễ dàng. Nhưng số ám khí phóng ra quá nhiều, lại liên tiếp không ngớt. Ngoài ra đàn bà con nít trong làng còn hò hét trợ oai, có kẻ vác cả chậu vỡ, bát vỡ, thanh la, khua đập ầm ầm lên... Ái chà!"

Nhâm Vô Tâm bật cười mà rằng, "Thanh thế thực là kinh người!"

Bách Đại cũng cười, "Thanh thế ấy quả thực hãi người! Bần tăng tuy qua lại trên chốn giang hồ lâu rồi, vậy mà cũng chưa từng thấy như thế bao giờ... Bọn áo đen tuy là những tay "giết người không chớp mắt", vậy mà trước tình thế ấy cũng hoảng vía, đâm ra luống cuống. Tên chúa trùm thấy vậy, tuy có gầm thét như sấm, nhưng cũng chẳng thể hạ lịnh giết hết đàn bà con nít đi."

Nhâm Vô Tâm vỗ tay cười ầm lên, "Lý thú thực! Không ngờ bọn bảy mươi hai tay Địa Sát của Nam Cung thế gia mà cũng chịu bó tay trước tụi đàn bà con nít, đủ thấy lực lượng quần chúng thật kinh khủng."

Bách Đại đại sư nói, "Bần tăng thấy vậy, vừa kinh ngạc vừa tức cười. Chợt nghe bên ngoài nhiều người giục giã bần tăng mau chạy đi. Họ nói, "Khỏi lo! Bọn áo đen chẳng dám giết hết cả làng này đâu! Hãy chạy đi cho mau!" Nghe nói vậy, bần tăng hết sức cảm kích, bèn thừa lúc rối loạn, phá vòng vây thoát ra ngoài! Ái chà! Nếu như ở thôn xóm khác thì làm gì mà có những người hào khí và đoàn kết đã cứu được bần tăng như ở thôn xóm đó... Nếu ở chỗ khác thì... khỏi phải nói, thì lúc này bần tăng còn đâu mà gặp được tướng công nữa!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Ở hiền gặp lành! Câu nói ấy quả thực đúng!"

Bách Đại thở phào một cái, nói tiếp, "Ra khỏi vòng vây rồi, điều thứ nhất nghĩ tới là việc Nhâm tướng công sống chết ra sao. Khốn nỗi trên chốn giang hồ dù ai có phong thanh biết đến việc "Nam Cung thế gia" hoặc nghe ai hỏi đến "Nhâm Vô Tâm" thì họ cũng đều "kín miệng như bình đóng nút". Dẫu có biết tin tức gì cũng chẳng ai dám nói ra."

Nghe nói vậy, Nhâm Vô Tâm không khỏi lo ngại. Không phải lo ngại vì lời đồn "Nhâm Vô Tâm sống hay chết". Chàng lo phiền vì thấy rằng trên giang hồ, người ta tránh không muốn nói đến ba chữ "Nhâm Vô Tâm"! Như vậy đủ tỏ rằng trong một thời gian ngắn thôi mà thế lực của Nam Cung thế gia đã bành trướng khá lẹ trong làng võ lâm! Đủ thấy rằng bề ngoài tuy chưa phát động mà bề trong họ đã ngấm ngầm bố trí gấp, trong khi đó thì về phía mình chưa phát triển bố trí gì cả. Rõ ràng là mình bị lạc hậu xa quá.

Chợt lại nghe Bách Đại nói, "Việc thứ nhì khẩn cấp là Huyền Chân đạo trưởng đã ước hẹn với bần tăng. Vậy mà tại sao vẫn chưa thấy tới? Đạo trưởng tuy là võ sĩ phái Huyền Môn, nhưng coi trọng lời nói, coi thường sống chết! Trừ phi có sự trở ngại lớn lao, quyết không bao giờ thất ước!"

Ông chép miệng thở dài rồi tiếp, "Bần tăng đi tìm kiếm đó đây, chẳng những không thấy tung tích, mà luôn cả tệ sư huynh cũng đột nhiên mất đứt liên lạc. Chao ôi! Chỉ tại bọn ta phân tán, ngày thường còn có ghi dấu hiệu ngầm để tiện liên lạc. Nhưng gần đây không tìm ra ám hiệu để lại, bần tăng đâm ra hoang mang. Nhất là một khi cáo biệt với Nhâm tướng công rồi thì âm tín bị cắt đứt. Chợt nhớ tới Nhâm tướng công từng nói về con đường tắt đi tới chỗ "Tử Cốc", bần tăng vội vã mò tới. Có ngờ đâu là vì tánh lỗ mãng, làm kinh động bọn người quan hệ kia, khiến họ tẩu thoát mất dạng."

Ngày thường Bách Đại vốn là tay tính tình hào phóng. Vậy mà lúc này phải thốt lên lời than thở buồn nản, đủ biết là sự thế như thế nào! Còn Nhâm Vô Tâm thì cúi đầu, chau mày, không nói nửa lời. Bách Đại lại nói, "Giờ đã gặp tướng công đây, vậy thì điều lo lắng lúc này là tung tích của Huyền Chân đạo trưởng với sư huynh của bần tăng. Họ tuy là những tay võ nghệ thượng đẳng trong võ lâm, nhưng về lịch duyệt giang hồ thì chưa có gì. Trong khi tới đâu cũng là cạm bẫy, lừa lọc, tránh sao khỏi..."

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ vừa nói rằng "Ở hiền gặp lành". Bách Nhẫn đại sư với Huyền Chân đạo trưởng đều là người đức trọng, dù gặp việc dữ cũng hoá việc lành."

Bách Đại đại sư nói, "Vô luận là thế nào, bần tăng đã gặp được Nhâm tướng công thì mọi việc đều do tướng công chủ định. Bần tăng tạm yên lòng!"

Thấy đại sư hết sức tín nhiệm ở mình, Nhâm Vô Tâm cảm thấy trách nhiệm mình càng nặng, bất giác chép miệng lẩm bẩm nói một mình, "Chỉ tại mình quá sơ ý, coi thường! Nếu như mình không bị thương thì có phải là... Ối chà!"

Nói tới đây, hình ảnh Trần Phượng Trinh với bộ mặt xanh nhợt, thần thái mơ hồ với đôi mắt lạ lùng lại hiện ra trước mặt chàng. Kế đó đến hình ảnh Điền Tú Linh với cái nhìn tình tứ, với dáng điệu thanh tú đáng thương và nhất là bộ điệu đau khổ khi nàng bị ngăn giữ lại ở ngoài thạch thất, lần lượt diễn hiện ra.

Thấy chàng đột nhiên không nói, Bách Đại đại sư lại tiếp, "Từ nay mọi hành động của bần tăng đều do Nhâm tướng công điều khiển."

Nhâm Vô Tâm trấn tĩnh lại, mỉm cười mà rằng, "Đại sư quá khiêm tốn! Hai chữ "điều khiển" tại hạ không dám nghĩ tới!"

Bách Đại lớn tiếng mà rằng, "Điều khiển cũng được! Mà chẳng điều khiển thì cũng được! Việc đến thế này, ruột gan bần tăng rối loạn rồi. Nhâm tướng công bảo ta nhảy vào nước hay lăn vào lửa ta cũng làm."

Lúc thì xưng ta, lúc thì xưng là bần tăng, giọng nói vô cùng phẫn khích.

Thấy vậy Nhâm Vô Tâm không dám khiêm nhượng nữa, bèn nghiêm nét mặt lại mà rằng, "Đại sư nhận định đúng lắm! Việc đã gấp rút như bây giờ, quyết không chậm trễ được nữa. Trong đó có ba việc khẩn cấp như lửa cháy ngang mày rồi! Việc thứ nhất là trước hãy tìm kiếm cho được lệnh sư huynh cùng Huyền Chân đạo trưởng. Vì đã tới kỳ quyết chiến rồi, chúng ta không thể thiếu hai người ấy được!"

Bách Đại gật đầu nói, "Tướng công nói phải lắm! Chẳng những thế, nếu sư huynh của bần tăng có điều gì chẳng lành xảy tới thì bần tăng không muốn sống một mình để trở về Thiếu Lâm nữa!"

Nhâm Vô Tâm thở dài, nói tiếp, "Việc thứ hai là, khi trước hồi còn đi đó đi đây, tại hạ từng bố trí nhiều nơi bí mật. Đại để như ở trong hang bí mật nọ mà có những tay Thần Y bậc nhất trên đời này, đó chỉ là một trong nhiều hang bí mật khác mà thôi. Lâu lắm tại hạ chưa có dịp liên lạc với họ, vậy thì giờ đây cũng phải kịp tìm đến mới được."

Bách Đại đại sư nói, "Phải đó! Việc đó không thể trễ được!"

Nói tới đây, ông chợt nghĩ đến một việc, bèn hỏi, "Nếu như họ nghe thấy tin tướng công đã chết rồi, thì họ sẽ ra sao?"

Nhâm Vô Tâm rùng mình, la lên, "Ái chà! Hỏng mất! Nếu họ tin rằng tại hạ đã chết rồi thì... thì sẽ sinh ra nhiều biến cố...!"

Bách Đại đại sư lẩm nhẩm nói, "Mình nghe tin Nhâm tướng công chết cũng đâm ra chán ngán, đã toan liều mạng đánh nhau với bọn Nam Cung thế gia. Nay bọn họ mà nghe tin chẳng lành, hẳn là họ cũng sẵn sàng thí mạng lắm!"

Vội nghĩ sang việc khác, cất tiếng hỏi, "Vậy thế còn việc thứ ba là việc gì?"

Nhâm Vô Tâm buồn rầu nói, "Tức là việc Điền Tú Linh cô nương. Nếu như chẳng may lọt vào tay Nam Cung thế gia thì khỏi phải nói, đại sư cũng rõ kết quả sẽ tàn khốc đến thế nào?"

Bách Đại hỏi, "Điền cô nương, phải chăng là... cùng đi với tướng công tới. Tại sao đến thất lạc được?"

Nhâm Vô Tâm thở dài, "Việc nàng lìa khỏi đây, tại hạ không sao... giữ được. Có điều rằng nếu như bị rơi vào tay Nam Cung thế gia thì chẳng những suốt đời tại hạ ân hận, mà nhiều bí mật của bọn ta sẽ bị Nam Cung thế gia biết rõ."

Bách Đại đại sư nói, "Cả ba việc cùng khẩn cấp cả! Vậy thì chúng ta phải đi ngay! Còn đứng đây làm gì?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đại sư vừa mới bôn ba ngàn dặm. Vậy hãy nghỉ ngơi cho..."

Bách Đại đại sư ngắt lời, nói luôn, "Việc hệ trọng như vậy, dù có mỏi mệt đến chết cũng không dám trì trệ, khiến lỡ làng hết thảy!"

Nhâm Vô Tâm mừng rỡ, nói, "Có được tấm lòng sốt sắng như đại sư, thì lo gì việc lớn chẳng thành!"

Dứt lời, chàng hăng hái đứng phắt lên, ngửa mặt nhìn trời, nghĩ ngợi giây phút rồi nói, "Vậy thì trước hết chúng ta tìm đến vùng "Kim bồn cư", một là có thể xem xét coi Huyền Chân đạo trưởng có để lại dấu hiệu gì chăng, hai là cũng nên biết tình hình dân cư ở đó yên nguy ra sao, sau vụ đại sư được giải vây thoát khỏi..."

Chàng chụp lên đầu chiếc mũ nhỏ bằng da, thế là hai người tất tả xuống núi, mua thêm một bộ đồ mặc xấu xí.

Bữa ấy, mặt trời đã gác núi, bảng lảng hoàng hôn, chính là lúc kẻ lữ hành kết thúc một ngày hành trình, tìm vào nhà trọ. Nhưng hai người vì sốt ruột, bèn cứ gấp bước tiếp tục lên đường.

Cho tới lúc mờ sáng, hai người đã đi được hai trăm dặm. Nhâm Vô Tâm nói, "Chúng ta không nên hao phí sức quá. Lỡ có việc gì xảy tới thì còn sức đâu đối phó. Vậy cũng phải kiếm nhà trọ, trước là ăn uống, sau là tắm rửa, nghỉ ngơi."

Bách Đại đại sư nói, "Cần gì khách sạn. Gặp toà miếu hoang, nơi huyệt động nào đó, nghỉ ngơi cũng được!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười mà rằng, "Hang động hay toà miếu cổ, đều là chỗ mà Nam Cung thế gia rất chú ý. Cho nên tốt hơn hết là tìm nhà trọ. Nơi đó đông người ra vào, ít ai để ý đến mình."

Bách Đại đại sư than rằng, "Bần tăng thực không nghĩ ra điều ấy!"

Nhâm Vô Tâm nghiêm trọng nét mặt lại, nói, "Chúng ta phải hết sức đề phòng. Nếu gặp kẻ khả nghi thì phải hạ thủ trước là hơn!"

Bình nhật chàng nói năng ôn nhã, nét mặt lúc nào cũng đầy "xuân phong hoà khí". Lần này chàng nói với giọng gay gắt quyết liệt, vì chàng biết rằng Bách Đại đại sư đầy lòng từ bi bác ái, tính lại hào phóng. Hai điểm ấy rất dễ bị bọn Nam Cung thế gia lợi dụng, nên phải dặn dò Bách Đại như vậy. Về phần Bách Đại thì từ lúc này một niềm vâng vâng dạ dạ theo ý chàng. Hai người sau đó liền tìm vào khách sạn tạm nghỉ.

Ngày thì nghỉ, đêm ra đi, hai bữa sau đã tới địa phận Kim bồn cư. Lúc đó mặt trời hầu như gác núi, nhà nào nhà nấy đều lo nấu ăn, khói từ mái nhà tuôn lên mù mịt.

Hai người nhận thấy một khu nọ, nhà cửa liền hàng như răng lược, lạ một điều là trên nóc mái không có khói tuôn lên, luôn cả tiếng gà kêu chó cắn cũng không!

Bách Đại đại sư nói, "Coi tình hình kia, có vẻ như là..."

Nhâm Vô Tâm nói, "Chúng ta xét đoán vội vàng quá! Hãy vào tận nơi coi."

Hai người lúc đó đã thay mặc áo dài bằng vải thô, đầu đội nón, chụp xuống quá nửa mặt.

Bách Đại rảo bước đi lên trước. Vào tới bên trong thị trấn rồi thì bước chân ông ta bỗng chậm hẳn lại, có vẻ nặng nề khó nhọc, mặt tái xanh hẳn đi! Nguyên vì trước kia, nơi tiểu trấn này đông đúc náo nhiệt. Vậy mà lúc này thì vắng tanh, và đường lối dường như được chùi rửa nhẵn bóng lên.

Nhâm Vô Tâm cùng Bách Đại, đại để cũng nghĩ rằng, "Nơi đây vì sao mà quét rửa sạch sẽ thế này? Phải chăng là... họ lau rửa những... vết máu?"

Nhìn hai bên đường, nhà nào nhà nấy đóng cửa im ỉm và trong mười nhà thì tới năm, sáu nhà, ngoài cửa có treo màn tang bằng sô gai! Tai nghe, ngoài tiếng gió thổi vào màn tang phần phật thì bốn bề yên lặng như tờ...

Chợt nghe thoảng có tiếng than khóc. Hai người vội tìm đến. Nhưng vừa tiến lên độ mười bước thì tiếng khóc đã im bặt. Bách Đại sốt ruột đưa tay định gõ cửa thì Nhâm Vô Tâm kịp ngăn lại mà rằng, "Coi tình hình thế này thì đại sư vừa rồi đoán đúng. Ở đây có tai họa lớn. Nhưng việc xảy ra rồi, ta nên bàn kỹ đã. Bằng cách nào khiến cho kẻ còn sống đỡ phần đau xót, kẻ chết rồi được an ủi nhắm mắt. Nếu lúc này ta lỗ mãng, đã vô ích cho công việc và chỉ thêm phần đau xót cho người sống thôi."

Nghỉ một chút, chàng lại hỏi, "Sau khi đại sư đi khỏi đây, làng xóm này hẳn là nhiều kẻ bị giết. Ấy mà..."

Chàng bỗng ngừng lại, tai chợt nghe thấy gì lạ, vội nắm tay Bách Đại giật mạnh một cái. Hai người cùng nhảy phóc lên đỉnh nóc, nép mình sau mái. Thấy Bách Đại còn ngơ ngẩn, Nhâm Vô Tâm sẽ nói, "Đại sư lưu ý nghe trên con đường chúng ta đi tới đây có gì lạ!"

Bách Đại đại sư nín thở, lắng tai... Một lúc sau nhận ra tiếng vó ngựa phi, lại một lát rõ ràng là đoàn người ngựa đi vào trong xóm. Chỉ loáng cái, có tiếng người hò hét, lẫn tiếng vó ngựa và tiếng chân đi rậm rịch. Bách Đại đại sư nghĩ thầm, "Có lẽ là bọn lữ khách, con buôn gì đó. Có gì mà Nhâm Vô Tâm phải quá cẩn thận đến thế!"

Vừa nghĩ đến đây, nhìn ra đoàn người đã tiến đến đầu xóm. Họ nhìn trước sau một chút đoạn nối đuôi nhau kéo vào bên trong.

Bách Đại giật mình, nhận ra đi đầu là bốn người cao lớn, ăn vận đồ đen, vai lồng đòn gánh. Cứ hai người gánh một chiếc rương coi có vẻ nặng trĩu lưng xuống. Theo sau là bốn người to lớn cũng vận đồ đen, khiêng một chiếc kiệu. Nóc kiệu màu lục, rèm buông chung quanh, không rõ nhân vật nào ngồi bên trong.

Sau kiệu là bốn đại hán đi bộ, cũng ăn vận đồ đen, lưng đeo dao dài. Ngoài ra còn hai người ăn vận đen, có vải che mặt, dáng cao mà gầy, mỗi người cưỡi một con ngựa sắc đen nhánh, đi kèm hai bên kiệu.

Gần lúc hoàng hôn, mà một tiểu trấn lặng lẽ giữa những màn tang buông rủ, đột nhiên có một toán người ngựa như thế tiến vào, thực khiến ai gan dạ mấy cũng phải kinh hoàng, ớn cả xương sống!

* * *

Bọn người ngựa tiến vào đến giữa đường lớn thì dừng lại. Bốn đại hán lập tức đặt hai chiếc rương xuống. Người cưỡi ngựa phía bên trái vụt nhảy xuống đất, thân pháp lẹ làng không thể tả được.

Hắn tới trước chiếc kiệu, sẽ sẽ nói mấy câu. Người trong kiệu hình như cũng dặn bảo điều gì đó!

Đại hán quay đi, tiến lên mấy bước rồi cất tiếng, "Xin kính chào các vị phụ lão huynh đệ trong thị trấn này! "Võ Lâm Đệ Nhất Gia" Nam Cung thế gia tới thăm quý vị!"

Tiếng nói của đại hán rõ ràng, tuy không nói to mà vang vang tuôn đi, khắp xóm xa gần đều có thể nghe rõ hết.

Nhâm Vô Tâm có một đặc khiếu là bất luận tiếng ai nói, hễ nghe qua một lần đều có thể nhớ mãi. Chàng nhận ngay ra tiếng nói ấy là Hoàng Phủ Thiếu Hồng.

Hai bên đường đều cửa đóng then gài lặng ngắt như tờ. Bách Đại đại sư thấy vậy, nghĩ thầm, "Phải chăng mọi người trong xóm đều đi hết cả rồi?"

Đại hán áo đen, đứng yên lặng ôm tay quyền đưa lên ngang cằm. Đợi một lúc lâu, không thấy có gì lạ, hắn lại cất giọng trịnh trọng nhắc lại câu hắn vừa nói, khác nào như một du khách tới thăm hỏi một người bạn vậy.

Lần này hắn vừa dứt tiếng, thì đột nhiên từ khoảng cuối con đường lớn có tiếng cánh cửa mở ra, rồi từ trong khuôn cửa sổ có tiếng hỏi, "Võ Lâm Đệ Nhất Gia! Hừ! Các người lại... Các ngươi lại tới đây làm gì... nữa?"

Tiếng nói như nghẹn tắt, đầy bi phẫn, uất hận!

Nhâm Vô Tâm và Bách Đại đại sư nghĩ thầm rằng, "Nam Cung thế gia đã tạo nên thảm trạng như vầy rồi, nay còn trở lại làm gì? Phải chăng định giết cho hết mọi người ở đây đi?"

Chợt lại nghe Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói, "Vừa rồi trong tệ phái có vài kẻ vô lại, đã gây nên tai họa cho quý thị trấn đây! Bản phái Nam Cung phu nhân hay tin đó, lấy làm ân hận, vội gấp đường tới đây, trước là tạ lỗi cũng quý vị, sau gọi là có chút lễ vật kính dâng quý vị, tạm để tỏ lòng kính ý của toàn thể mấy trăm đệ tử chúng tôi đối với quý thị trấn."

Giọng hắn nói hết sức khẩn thiết ân cần! Bách Đại nghe vậy cười nhạt nghĩ rằng, "Rõ thật là giọng ác miêu khóc chuột già! Với hai chiếc rương kia, thử hỏi bồi thường được chăng?"

Vừa nghĩ tới đây, thì Hoàng Phủ Thiếu Hồng đã mở chiếc rương phía tay trái ra. Bên trong toàn là bạc nén dùng lụa trắng gói từng đĩnh lại. Hắn giơ tay vẫy một cái. Bốn đại hán khác chạy tới, mỗi người mỗi tay cầm ước mười phong bạc nén, tiến đến trước cửa những nhà có treo màn tang, quăng một gói bạc xuống trước thềm kêu "choang... choang choang". Rõ ràng là mỗi phong bạc ấy khá nặng. Hoàng Phủ Thiếu Hồng lại cất tiếng vang vang lên, "Chúng tôi không dám làm kinh động quý vị. Trước thềm đã đặt số tiền bồi thường, chỉ xin quý vị bớt nỗi đau xót lúc này, để còn lo chôn cất tang chay cho kẻ chết!"

Hắn chưa dứt lời thì đầu đường cuối đường, đâu đâu cũng nghe tiếng cửa mở, rồi hàng trên mười cái bóng người thảy đều ăn bận sô gai chạy ra. Họ đầy vẻ bi phẫn, mắt ngầu tia máu, trợn mắt nghiến răng, nhìn Hoàng Phủ Thiếu Hồng.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng ôm tay quyền, vừa toan cất tiếng nói, thì một người trong bọn kia bỗng cúi xuống, lượm một gói bạc, lớn tiếng quát rằng, "Ai thèm khát tiền bạc hôi tanh vấy máu của tụi bay!"

Dứt lời, người ấy tận lực ném đi mạnh như tia lửa xẹt "choảng" một tiếng. Gói bạc nặng từ cách xe ngoài hai trượng rớt thẳng dưới chân Hoàng Phủ Thiếu Hồng.

Liền đó, một trận mưa "bạc đĩnh" ném đi, giữa những tiếng chửi rủa la ó của dân chúng.

Chỉ thấy Hoàng Phủ Thiếu Hồng y nhiên không tỏ vẻ tức giận. Hắn chỉ mỉm cười rằng, "Quý vị, việc gì mà giận dữ vậy!"

Hắn cúi xuống lượm gói bạc đầu tiên rớt ở dưới chân. Kế đó đặt gói bạc lên lòng bàn tay rồi tay kia thoăn thoắt đón bắt lấy những gói bạc ném tới, gói nọ gói kia chồng chất lên nhau, loáng cái đã thành chồng cao như hình ngọn tháp.

Chợt có tiếng quát giật lên, "Còn đây nữa!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng hơi chìm bàn tay xuống một cái. Một gói bạc thét gió bay tới, vừa vặn nằm thon lỏn trên đỉnh ngọn tháp trong tay hắn. Ngọn tháp đứng ngay ngắn trong lòng bàn tay, không chút rung động, đủ thấy là công phu chưởng lực họ Hoàng thực là cao siêu, mạnh vô cùng. Hắn cất tiếng cười mà rằng, "Chúng tôi đã thành tâm đem lễ tới đây! Lẽ nào lại thu về!"

Vừa nói hắn quay người đi một vòng. Chỉ thấy hai tay hắn vung lên sáng loáng. Một trận mưa lóa mắt, hai chục gói bạc đã tung ném đi, tiếng rớt "loảng xoảng", tất cả lại y nguyên được ném trả về đúng chỗ cũ trên mỗi thềm nhà. Sức ném đã đành là mạnh, sức mắt chuẩn xác, tài ném trúng như vậy, quả là kinh nhân. Đến Nhâm Vô Tâm cùng Bách Đại cũng phải thán phục là tuyệt kỹ.

Chợt lại nghe tiếng hắn cười và nói, "Ngoài số bạc ấy ra, bản môn chủ nhân còn có một vật này nữa! Xin kính tặng quý vị!"

Giơ tay ngoắt một cái, miệng hắn ra lệnh, "Khiêng chiếc rương kia lại đây!"

Một tiếng "dạ" rân lên. Lập tức hai đại hán khác khiêng chiếc rương phía tay mặt tới, mở nắp ra. Một mùi nồng nặc, và khí nóng xông lên như than tro. Mọi người còn đương kinh ngạc chưa rõ là cái gì ở bên trong, thì Hoàng Phủ Thiếu Hồng đã quát lên, "Trút cả ra! Còn đợi làm gì!"

Hai đại hán kia "dạ" một tiếng, cúi xuống ôm lấy phía đáy rương, dốc ngược lên một cái. Hàng chục trái tròn tròn lớn bằng trái dưa hấu, lăn lông lốc trên mặt đất rồi ngừng lại.

Mọi người định thần nhìn lại.

Ai cũng giơ tay ôm ngực, lè lưỡi xanh mặt lên. Hơn mười cái đầu lâu, ngoại trừ da mặt đỏ hầm như rạm đen lại, thì hai mắt lồi ra như hai con ốc nhồi, tỏ ra rằng trước khi chết họ bị phẫn hận, tức tối đến cực điểm, nên nét mặt mới hiện ra khủng khiếp như thế.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cất giọng bình thường, thong thả nói, "Các vị có nhận ra những đầu lâu này là ai đó chăng?"

Nhiều người tuy đã từng lăn lộn giang hồ, nhưng trong lúc lòng đương kinh ngạc chưa kịp nhận ra ai, thì Hoàng Phủ Thiếu Hồng đã cúi xuống, lượm một chiếc đầu lâu, nâng cao quá đầu, xoay một vòng tròn, lớn tiếng hỏi, "Các vị nhận ra ai đây?"

Một người trong xóm, đứng gần đó nhất, la lên, "Phải... Phải chăng là con trai của Điền Thất ca?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng mỉm cười gật đầu, "Đúng rồi! Đầu lâu của Điền Uy đây!"

Hắn vừa nói vừa cười, tới đây bỗng giật giọng nói to lên, "Nhưng vì hắn bất hiếu với cha mẹ, lại gây chuyện thị phi, làm hại bà con xóm làng. Hắn là kẻ bại hoại trong bản môn! Nam Cung phu nhân dù có khoan hồng đại lượng, thương hắn như con đẻ, như đồ đệ, nhưng quyết không để cho tên ác ôn ấy làm hại mọi người tàn sát làng xóm. Vì vậy phải chém cổ hắn đi và tạ tội với quý vị."

Thực là lời tuyên truyền đầy nhân nghĩa đạo đức. Ai mà chẳng phải tin.

Bách Đại cùng Nhâm Vô Tâm đưa mắt cho nhau. Cả hai cùng nhận thấy rằng sở dĩ Nam Cung thế gia phen này phải làm như vậy là để gột rửa cái tiếng ác, xấu từng đồn đại trên chốn giang hồ. Và để thu hút lòng người, gây lại lòng tin phục trong làng võ lâm. Nguyên xóm này, phần đông là những tay hào sĩ giang hồ trở về quy ẩn. Tiếng tăm họ không lẫy lừng lắm, nhưng họ thuộc đủ các môn phái, thì tin tức từ nơi đây lan truyền đi sẽ rất lẹ và sẽ được thiên hạ tin tưởng rằng Nam Cung thế gia từ nay biết cải hoá, và kỷ luật nghiêm ngặt là thế đó!

Bách Đại đại sư tức quá, nghiến răng lại, lẩm nhẩm, "Mụ Nam Cung phu nhân này tàn ác và thâm độc còn hơn rắn! Mụ khéo xua đẩy thủ hạ phạm vào tội lỗi, rồi giết đi để mụ lấy tiếng tốt cho đồng đảng của mụ. Đáng thương cho bọn thủ hạ kia, bị mụ dùng làm vật hy sinh khi cần đến. Mà như tình hình đây, mấy ai biết được đó là mưu mẹo gian xảo của mụ."

Thực vậy! Coi lại mặt mũi những kẻ vừa rồi hăm hở từ trong nhà bước ra, nhưng vẻ hầm giận lúc nãy, vụt biến đi hết. Trái lại, có kẻ ra vẻ cảm động trước cử chỉ của bọn Nam Cung thế gia lúc này.

Chợt nơi rèm che bên kiệu hơi vén lên. Một bàn tay trắng muốt như bạch ngọc thò ra, năm đầu ngón tay búp măng sẽ vẫy!

Hoàng Phủ Thiếu Hồng vội chạy tới bên kiệu, khép nép sẽ nói mấy lời, bàn tay trắng nõn kia từ từ rụt lại rèm buông kín lại. Hoàng Phủ Thiếu Hồng thở phào một cái như trút được gánh nặng, từ từ quay về chỗ cũ!

Nhâm Vô Tâm kinh ngạc, nghĩ thầm, "Người ngồi trong kiệu là ai? Phải chăng là Trần Phượng Trinh. Chức vị hẳn là cao hơn Hoàng Phủ Thiếu Hồng?"

Chợt thấy Bách Đại đại sư như có ý nhảy vọt xuống. Nhâm Vô Tâm giật mình vội nắm giữ lại. Bách Đại với vẻ tức giận, dùng lối "Truyền âm nhập mật" nói vào lỗ tai chàng rằng, "Những người kia bị Nam Cung thế gia tuyên truyền lừa bịp bị rơi vào cạm bẫy của chúng. Chúng ta lẽ nào ngồi yên. Phải vạch mặt chỉ tên, đả phá những âm mưu của chúng mới được."

Nhâm Vô Tâm cũng dùng "truyền âm nhập mật" trả lời, "Đợi tụi chúng đi khỏi rồi, ta sẽ xuống đả phá âm mưu của chúng cũng chưa phải là muộn!"

Bách Đại cau mày hỏi, "Nếu như chúng cứ ở lỳ lại đây thì sao?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Xong việc là chúng đi, chớ ở lại để làm gì?"

Chợt thấy một mụ già tóc đốm bạc tất tả chạy tới, đến giữa đường cái thì ngã nằm lăn ra.

Kế đó lại vùng dậy chạy lên vài bước vồ lấy cái đầu lâu của Điền Uy rồi chu chéo lên khóc, "Con ơi! Uy ơi! Cha mày đã chết bỏ ta! Mày lại chết đi! Cả hai cùng bỏ ta! Thân già này biết nương tựa vào ai?"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cúi xuống nói, "Lão phu nhân ơi! Hà tất gì phải...!"

Mụ già điên lên, vừa chửi vừa khóc, "Bây giết cha nó rồi chưa đủ sao? Lại còn đang tâm giết luôn nó! Nó... nó chẳng phải là do tụi bay dạy dỗ huấn luyện như thế đó sao?"

Vừa khóc, đột nhiên mụ đưa đầu chúc thẳng vào bụng Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Hắn sẽ lách mình tránh khỏi. Mụ bị té nhào xuống đất, tay ôm lấy đầu lâu Điền Uy, khóc rống lên, "Uy nhi a! Con vốn là đứa tốt! Chỉ vì bọn ác ôn này nó huấn luyện làm cho con biến thành ra đứa xấu!"

Mụ khóc thê thảm, mọi người đều động lòng muốn sa nước mắt. Hoàng Phủ Thiếu Hồng tái mặt đi, lẩm bẩm nói một mình, "Con mụ này! Phản tuyên truyền! Làm hỏng cả việc lớn của bọn ta!"

Mụ già bỗng lăn đi hai vòng tới sát bên Hoàng Phủ Thiếu Hồng, đột nhiên ôm chặt lấy chân hắn, ghé miệng vào ngoạm chặt lấy.

Mụ tuy có tuổi nhưng răng còn tốt lắm, vả lại đương lúc căm hờn như điên, mụ nghiến hàm răng liều mạng cắn cho đã giận, răng mụ ngập hẳn vào trong thịt.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng bị miếng cắn bất ngờ, máu ra lênh láng. Hắn quát lên một tiếng "cút đi", đồng thời co chân tống mạnh một cái.

Mụ chịu sao nổi cái sức tống hàng ngàn cân đó. Miệng thét lên một tiếng, người bật ngửa ra, rớt xuống năm bên cạnh chiếc đầu lâu của Điền Uy.

Taymụ cố quờ quạng, ôm lấy chiếc đầu lâu của con mụ, mắt trợn lên nấc luôn một hồi, thế là tắt thở!

Sự tình biến đổi đột ngột, không ai cứu cấp kịp. Lập tức tiếng chửi rủa nổi lên từ khắp ngả. Hoàng Phủ Thiếu Hồng lớn tiếng giải thích, "Xin quý vị chớ chửi rủa chúng tôi! Chẳng qua là mụ ấy cố ý, cố tình tự sát. Chúng tôi làm sao được!"

Mọi người càng la mắng ầm lên, "Câm mồm! Quân tàn bạo!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng giang cả hai tay ra phân bua, "Quý vị coi đó. Nam Cung thế gia tự động chém đầu cả người nhà đi, để rửa hờn cho quý vị!"

Mọi người cùng la ó, "Câm mồm đi! Chẳng qua là để che mắt thiên hạ, tỏ ra rằng đó là bọn hạ cấp làm bậy! Kỳ thực bọn hạ cấp toàn là làm theo lệnh của tụi thượng cấp chúng bay. Việc vở lỡ ra, không thể bưng bít được, và để gây lại niềm tin tưởng với mọi người, chúng bay đem đổ tội cả lên đầu hạ cấp, bắt chúng làm vật hy sinh. Quân khốn kiếp! Nếu quả thực mày có nhân nghĩa, thì sao còn giết luôn cả Điền đại tẩu!"

Một đại hán áo đen từ nãy giờ vẫn ngồi yên trên mình ngựa, mắt thô lố nhìn mọi người không chớp, tới bây giờ mới cất giọng lạnh lùng mà rằng, "Không cần nói lắm mà! Tụi họ đã chẳng biết phải quấy, thì thôi, ta sẽ có cách khác!"

Tiếng hắn nói như tiếng ma trong nhà mồ phát ra. Mọi người cảm thấy lạnh gáy. Đột nhiên, họ đều im bặt, không dám la ó nữa! Bách Đại và Nhâm Vô Tâm giật mình và nghĩ, "Phải chăng cách khác đây là ý nói dùng võ... lực!"

Chợt người áo đen cỡi ngựa lại lạnh lùng nói tiếp, "Trong thôn này còn lại năm mươi chín người kể cả người lớn, con nít. Vậy thì làm luôn cả một mẻ cho... quang sạch đi...!"

Hắn nói một giọng tự nhiên, coi sáu chục mạng như không đáng một cắc vậy!

Nguyên trước, thôn này có trên ba trăm người. Sau cuộc biến loạn tàn sát vừa rồi, quá nửa bỏ đi, thêm vào đó gần trăm người chết. Giờ đây còn vài chục mạng. Thấy rằng bọn Nam Cung thế gia biết đích xác số người còn lại là năm mươi chín thôi, như vậy rõ ràng là chúng có ý định giết sạch cả đi, cho nên mọi người đều sợ hãi run bắn cả lên.

Bách Đại nghiến răng sẽ nói, "Không thể nhẫn nại hơn nữa! Nếu chúng ra tàn sát thì bần tăng phải liều mạng!"

Nhâm Vô Tâm chép miệng nói, "Thì cũng không còn cách nào hơn được!"

Chỉ thấy người áo đen từ trên lưng ngựa nhảy phắt xuống. Nhâm Vô Tâm cùng Bách Đại nín thở, chuẩn bị ra tay, mắt dõi theo mọi động tác của người áo đen.

Hắn quét ngang mắt một cái, hai tay giang ra, chân bước đều một, hai, ba bước!

"Binh" một tiếng rung chuyển cả đất, đôi cánh cửa của ngôi nhà nọ đương đóng kín, bị tung lên bắn ra tận giữa đường, rớt xuống "ầm ầm". Hai con ngựa đứng đó hý lên một tiếng, phóng vó chạy mất. Hoàng Phủ Thiếu Hồng với người áo đen cùng giật mình tái mặt!

Có tiếng to lớn từ trong ngôi nhà nói ra, "Nam Cung thế gia toàn là hạng lưu manh hiểm độc! Ai còn lạ gì tụi bay! Hết cứng rắn thì đến mềm, mềm không xong thì lại tàn sát! Phải biết rằng tụi ta chờ đợi bay ở đây từ lâu rồi!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng quát hỏi, "Ai trong đó?"

Tiếng quát lên oang oang, rõ là những cao thủ võ lâm, "Toàn là những tay chuyên môn đối đầu với Nam Cung thế gia!"

Sự kiện biến chuyển đột ngột, Nhâm Vô Tâm sẽ nói, "Đại sư à! Chúng ta hãy coi xem. Chưa nên ra tay vội!"

Giữa lúc ấy, từ trong cửa, nối đuôi nhau trên mười người vọt ra ngoài, người nào người nấy tay lăm lăm cầm đao, bước đi uỳnh uỵch. Họ đều mặc áo dài trắng toát, mặt bịt khăn trắng chỉ lộ ra đôi mắt.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng bỗng ngửa mặt, cười ngất mà rằng, "Tưởng là ai! Té ra vẫn là tụi ngươi!"

Người áo đen cười nhạt, "Đáng tức cười! Toàn là đồ xuẩn ngốc, giết mười năm cũng không hết được! Nhâm Vô Tâm thì xương thịt đã nát rời, trong khi tụi bay vẫn còn cố hy sinh vì hắn! Trên đời lắm kẻ ngu, nhưng chưa thấy ai ngu đến tột bậc như tụi bay!"

Người đứng đầu trong bọn áo trắng có vẻ cố nhịn, mặt lạnh ngắt từ từ nói, "Chúng ta vì làng võ lâm mà trừ diệt bọn tàn ác bại hoại như bọn ngươi đây! Nhâm tướng công dù chết rồi, nhưng chúng ta cứ nối chí người!"

Bách Đại nghĩ thầm rằng, "Phải chăng những tráng sĩ áo trắng kia là những anh hùng do Nhâm tướng công ngấm ngầm triệu tập? Chính họ tự nhận là nối chí Nhâm tướng công kia mà?"

Trái lại, lúc đó Nhâm Vô Tâm thì ngẩn người ra. Chàng dùng lối truyền âm nói với Bách Đại, "Lạ thật! Chính mình chưa nhận ra bọn áo trắng kia là ai. Vậy mà Hoàng Phủ Thiếu Hồng đã nói trắng ra là bọn mình? Vả lại nếu là người của mình thì đời nào lại để họ ăn vận đồng phục trắng, để dễ bị lộ tẩy ra sao?"

Chàng chép miệng nói tiếp, "Nếu tại hạ xét và đoán đúng thì hành động của bọn áo trắng hẳn là có âm mưu gì ở trong? Biết đâu! Biết đâu! Ái chà! Chẳng phải là một lối đặt bẫy gì đó của Nam Cung thế gia?"

Hai người áo đen hình như có ý khiêu khích cho người áo trắng nổi giận lên để họ thừa dịp ra tay. Nhưng người áo trắng vẫn bình tĩnh, và nói, "Việc đến thế này, nhiều lời cũng vô ích! Phải dùng võ lực mới được! Nhưng một chọi một, hay là quần đấu? Xin cho biết ý kiến!"

Bách Đại chửi thầm, "Đồ ngu ở đâu! Lại còn giở lề thói với quy tắc giang hồ ra với chúng!"

Nhâm Vô Tâm lại truyền âm nói vào tai Bách Đại, "Có vẻ đây cũng lại là trò đóng kịch chắc! Đơn đấu với quần đấu cái gì? Sao không lăn bừa vào đánh thí mạng, mà còn đặt điều kiện."

Chợt nghe người áo đen nói, "Đã vậy, hai người chúng tôi xin lĩnh giáo bằng hữu."

Người áo trắng vén tay áo lên, cùng với một người đứng bên cùng tiến ra. Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười mà rằng, "Hai vị có thể nhường hai chúng tôi ra trước ba đòn chăng?"

Bọn áo đen bên Nam Cung thế gia cười ồ cả lên. Bỗng lại nghe người áo trắng nói, "Ba đòn thì không được! Chúng ta có thể nhường một đòn thôi!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng ngửa mặt cười sằng sặc, nói, "Anh em coi! Người ấy mà dám nhường ta một đòn! Gan thật!"

Bọn Nam Cung thế gia lại cười ầm lên. Chiếc kiệu yên lặng, như không có người, chẳng nghe có động tĩnh gì hết! Vụt cái Hoàng Phủ Thiếu Hồng tiến lên, tay trái mở, tay mặt nắm, tận lực đánh ra, trong khi người áo đen cũng vừa tiến vào. Tuy là tiến đến sau, mà người này lại hoá ra là ra tay trước cả Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Đòn tuy trông tầm thường mà chí mạng.

Chỉ thấy cả hai người áo trắng cùng gò người một cái, thụt lùi đến ba thước, tránh đòn một cách thần diệu vô cùng. Người áo đen quát lên, "A! Không ngờ hai thằng ngốc này mà cũng khá quá!"

Cùng với tiếng quát ấy, cả hai người áo đen cùng nhào tới, bốn tay quyền, chưởng cùng ra, ăn nhịp nhau, một người đánh vào phía bên trái, một người đánh phía bên phải. Nhưng hai người áo trăng cũng phối hợp ra đòn rất thần kỳ. Người áo trắng bên tay mặt dùng tay trái đánh chéo đi, năm đầu ngón tay mặt nửa co nửa duỗi, tống ra phía ngoài, còn người áo trắng bên tay trái, thì tay mặt đánh chéo ra, tay trái tống ra phía trước. Hai người này ra đòn tuy có khác nhau một chút, nhưng chẳng những đã hoá giải đòn đối phương mà còn hoàn đòn lại, thực là đủ cả công lẫn thủ.

Bách Đại và Nhâm Vô Tâm cùng giật mình, vì nhận ngay ra đó là đòn của phái Thiếu Lâm! Cả Hoàng Phủ Thiếu Hồng với người áo đen cùng giật mình là lên, "A! Té ra bằng hữu là môn hạ Thiếu Lâm!"

Đó chính là đòn thứ sáu "Xuất trảo lượng si" trong mười hai lối sát thủ của Thiếu Lâm thần quyền, là quyền pháp "Bí truyền trấn sơn" mà ngoài vị Trưởng Lão giữ chùa ra, không ai được học. Vậy mà người áo trắng kia, biết dùng lối quyền ấy, vả nếu không tinh luyện vài chục năm thì không đem dùng nổi. Tới đây thì sự ức đoán của Nhâm Vô Tâm rằng họ bày kịch đóng trò có vẻ không đúng rồi!

Bốn người đấu nhau tới vài chục hiệp. Hai người áo trắng thì thủ thế vững vàng, kín đáo, bổ khuyết cho thế công có vẻ hơi yếu. So sánh ra võ nghệ họ cũng chẳng kém gì Bách Nhẫn đại sư! Hoàng Phủ Thiếu Hồng cùng người áo đen, tuy đòn ra hung mãnh, kỳ quái, nhưng vẫn không chiếm nổi thượng phong.

Nhâm Vô Tâm nghĩ mãi không đoán ra được là ai, bèn hỏi, "Đại sư à! Hai người kia có phải là đệ tử Thiếu Lâm không? Ngoài đại sư cùng Bách Nhẫn, Bách Tường đại sư ra, thì Thiếu Lâm còn ai có được những ngọn đòn cao siêu bậc ấy!"

Bách Đại đại sư thấy hai người áo trắng ra đòn như vậy, cũng giật mình, sẽ nói, "Chẳng những hai người đúng là đệ tử Thiếu Lâm, trong số áo trắng ít ra còn có ba người nữa cũng là đồng đạo của bần tăng. Tổng số có đủ năm vị là Hộ Pháp của Đạt Ma Đường. Cho nên vừa rồi, trước khi giao thủ dù với bọn ác ma, mà năm vị ấy cũng giữ đúng quy luật giang hồ. Năm vị Hộ Pháp đều có mặt tại đây thì bần tăng tạm yên tâm. Hãy coi xem sự kiện biến chuyển ra sao, chưa cần ra mặt vội."

Trong một lúc, bốn người đã ác đấu qua mấy trăm hiệp, nhưng vẫn chưa phân thắng bại. Hai người áo đen dù đòn ra bí hiểm, nhiều ngón kinh nghiệm, nhưng bên áo trắng lại trầm ổn kín đáo, vô luận là đối phương tấn công mạnh như sấm, lẹ như chớp, mà đòn Thiếu Lâm chính tông chỉ nhẹ nhàng phát ra, lập tức hoá giải đi hết. Nhiều lúc Nhâm Vô Tâm thấy bên áo trắng hình như bỏ qua những cơ hội có thể thừa cơ lấn đánh bên áo đen, dù thấy họ thận trọng, không mạo hiểm.

Bách Đại đại sư mỉm cười, nói, "Bần tăng nhận ra, hai người áo trắng kia tức là hai sư huynh Bách Phù và Bách Huề. Nếu là sư huynh Bách Duy và Bách Hộ thì hai người áo đen kia khó mà đối phó lại được lâu như thế. A... ha! Tướng công coi kia, hai người áo đen có vẻ muốn chuồn và được thua đã rõ rồi đó...!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Thoạt tiên, tại hạ ngờ rằng trong chiếc kiệu có thể là vị phu nhân nào đó của Nam Cung thế gia, và họ đều là tay võ nghệ cao cường. Nay xét ra, trong đó, có thể là một người con gái nào mà chẳng biết võ nghệ gì hết, vì nếu biết võ nghệ thì thể nào mà chẳng vén rèm lên để ngó coi trận đánh vô cùng hào hứng giữa những tay cao cường như cỡ này!"

Chàng còn đương nói, bỗng thấy Hoàng Phủ Thiếu Hồng chợt tuôn ra ba đòn rất gấp, vụt cái hắn nhảy bắn trở lại sau đến tám thước, thò tay qua rèm kiệu, vẫy một cái. Hình như trong khi nhảy lùi lại thì trong tay hắn từ trong bọc lấy ra một vật gì luồn qua bức rèm. Không ai nhận ra kịp là vật gì cả! Duy chỉ nghe hắn sẽ quát lên rằng, "Vô vật, vô ngã..."

Tiếp theo, hắn còn nói gì nữa, nhưng tiếng nói rất nhỏ, người ngoài không nghe rõ. Chỉ thấy liền đó hắn nhảy phắt qua một bên hình như nhường lối cho người trong kiệu.

Nhâm Vô Tâm chợt nghĩ đến một sự kiện. Chàng giật mình, nói, "Nguy to rồi!"

Chàng vừa dứt tiếng thì tấm rèm kiệu đã vén lên, một cái thân hình nhỏ bé, mặt xanh xao trắng nhợt, đầu trùm khăn xanh, mình choàng áo lông đen, từ trong chiếc kiệu bay vọt ra ngoài đến hơn một trượng. Trong khi đó người áo đen và Hoàng Phủ Thiếu Hồng đều nhảy lánh hẳn ra phía bên xa nữa.

Nhâm Vô Tâm cùng Bách Đại đồng thốt lên, "Tố Thủ Lan Cô! Lan Cô bàn tay trắng nuột!"

Sắc da trắng xanh với đôi mắt mơ màng lạnh buốt như ngưng đọng hơi sương, bóng dáng yêu kiều, Lan Cô quả nhiên là đẹp, tuyệt đẹp đến cái độ ghê rợn cả người ta lên. Đã vậy mà thân hình nàng lẹ như khói, vèo một cái đã bay tới trước mặt hai người áo trắng tức là Bách Phù, Bách Huề đem theo một làn gió thơm mê hồn phách. Bách Phù, Bách Huề cùng cảm thấy một cái gì ghê rợn. Cả hai cùng quát to một tiếng, và mỗi người cùng phát ra một chưởng với sức mạnh kinh khủng, sập đá, gẫy cành, uy lực bạt sơn đảo hải dồn dập vào Lan Cô.

Chỉ thấy cái thân hình bé nhỏ ấy quay sang bên một vòng, chưởng phong của hai người tự nhiên tiêu biến đi đâu hết. Bách Phù, Bách Huề dù là trấn tĩnh đến đâu thấy thân pháp của nàng hết sức kỳ lạ, thảy đều giật mình, vội co tay lại định tống ra một chưởng thứ nhì nữa.

Chợt đâu, bóng tay áo lông đen phất lên, một bàn tay trắng muốt như ngọc, lạnh như băng sương từ trong ống tay áo rộng của Lan Cô thò ra, một làn gió thơm theo tay nàng thoát đi. Tất cả bấy nhiêu động tác hiện ra như cái chớp nhoáng.

Nhâm Vô Tâm và Bách Đại cùng một lúc vung cánh tay ra và quát lớn, "Hai sư huynh mau rút xa ra! Chớ dùng sức với nàng!"

Nhưng đã hơi muộn. Bách Phù, Bách Huề vừa thoáng nhận ra tay nàng vung lên thì thân hình nàng đã như ma hiện giữa khoảng hai người rồi. Thực là kỳ tuyệt! Bọn Hoàng Phủ Thiếu Hồng từng đánh tới trên trăm hiệp mà không tài nào đòn vào sát được, trong khi Lan Cô với bàn tay trắng "tố thủ" chỉ một hiệp đã phá vỡ được quyền phong và thế thủ của đối phương!

Bách Phù, Bách Huề bị hãm ở cái thế muốn rút lui mà không kịp, đành phải tận dụng quyền và chưởng gấp rút đánh ra như mưa, như gió. Lạ một điều là, chưởng với quyền của hai vị cao tăng bậc nhất này, rõ ràng phát ra đã chạm tới áo nàng rồi, nhưng đột nhiên cả hai đều cảm thấy là tay mình như đấm vào mây, vào khói, như đụng chạm vào một cái bóng ma, tức là đấm không khí vậy thôi! Liền đó, bất thần Bách Phù thét lên một tiếng nhảy lùi về sau đến năm bộ, đồng thời Bách Huề tung mình bắn đi xa hơn một trượng, thân mình loạng choạng, lập tức té rụi xuống.

Bọn hơn chục người áo trắng cùng la rú cả lên. Trong bọn có vài ba người vừa nhún chân định nhảy ra thì loáng một cái như chớp, một bóng người áo tro đã hiện ra trước mắt. Bọn người áo trắng nhận ra là ai, đều reo lên, "Bách Đại sư huynh!"

Bách Đại vội nói giọng nghiêm trang, "Các sư huynh đệ! Mau rút lui!"

Tiếng Nhâm Vô Tâm ở phía sau truyền tới, "Hãy nâng người bị thương lên, và chuẩn bị tuỳ thời rút lui."

Bách Đại cúi xuống, giơ tay vén mảnh vải che mặt hai người lên. Bộ mặt Bách Phù đại sư tuy rằng trắng bệch ra, nhưng chỉ là kinh hãi thôi, chưa bị thương. Còn Bách Huề đại sư thì máu ở mép trào ra, hơi thở khò khè, rất yếu. Nhận ra Bách Đại rồi, Bách Huề mỉm cười vừa sẽ thốt ra được một tiếng "Bách..." thế là đã ngất lịm đi!

Bách Duy đại sư đứng đầu trong năm vị Hộ Pháp Thiếu Lâm, lập tức lấy thuốc trị nội thương tra vào miệng Bách Huề, sau đó đưa mắt nhìn ra, thấy một thiếu niên thư sinh đương ngưng thần đứng chăm chăm trước mặt Lan Cô. Bách Duy cau mày hỏi, "Để một mình vị thí chủ kia đối phó với con ma nữ ấy ư? Chỉ e...!"

Bách Đại vội ngắt lời, "Nếu người ấy mà không chống đối nổi, thì... bọn anh em ta dù có phụ lực vào cũng chẳng làm gì! Người ấy là... Nhâm Vô Tâm đó."

Bọn Thiếu Lâm cao tăng giật mình, đều chắp tay, nói, "A di đà Phật! Chúng tôi giờ mới biết mặt. Nhâm tướng công té ra vẫn còn sống. Ngã Phật từ bi, che chở, đạo phái võ lâm sẽ thoát khỏi được mạt kiếp."

Về phía đệ tử Nam Cung thế gia, nghe nói thư sinh đó là Nhâm Vô Tâm, thì cũng đều kinh hãi! Họ chưa hề biết mặt chàng bao giờ, và chỉ nghe nói chàng đã chết rồi. Có người cho rằng có lẽ thư sinh đứng đó là giả mạo Nhâm Vô Tâm chăng? Nhưng ý đó chỉ thoáng loé lên rồi tắt liền, vì họ cũng nghĩ rằng nếu không phải là Nhâm Vô Tâm thì trong làng võ lâm có lẽ chẳng ai có gan dạ và tài năng dám... chống đối lại với Lan Cô!

Riêng Hoàng Phủ Thiếu Hồng và người áo đen thì biết chắc là Nhâm Vô Tâm chưa chết. Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười nhạt và quát lên, "Nhâm Vô Tâm à! Bỗng dưng mi lại tìm đường tới cửa tử!"

Người áo đen cũng ré lên cười mà rằng, "Ngươi chịu đựng nổi ba hiệp với Lan Cô, thì kể ngươi là tay cao cường! Ngươi là kẻ từng cưỡng gian nhiều phụ nữ. Trên giang hồ, nhiều người muốn lột da ăn thịt ngươi cho đã giận. Ngươi còn đợi gì một không tự tử đi. Vác mặt ra đầy làm gì cho bẩn mắt mọi người!"

Thực ra thì hai người này cùng e ngại Lan Cô khó lòng thắng nổi Nhâm Vô Tâm. Sở dĩ họ cố ý mắng chửi cốt cho chàng phân tâm, nổi giận lên, để Lan Cô thừa cơ dễ hạ thủ. Bách Đại tức quá quát lên một tiếng toan nhảy ra, nhưng bị Bách Duy giữ lại mà rằng, "Đang lúc Nhâm tướng công ngưng thần, xin chớ làm rối trí của tướng công!"

Chỉ thấy đôi mắt chàng như điện, chăm chăm bắn mục quang vào mắt Lan Cô.Tay mặt chàng đưa ngang ngực, ngửa lòng bàn tay lên thành dương thủ, tay trái úp lòng bàn tay xuống thành âm thủ ngang nơi bụng, chân trái hơi gập lại giữ trọng tâm, đầu chân phải hơi mớm đất. Áo chàng gió phật phật bay nhưng người không nhúc nhích, hệt như pho tượng đá với cái tư thế muốn bay đi vậy. Mọi người thấy vậy đều tâm phục là một thế ổn định cả công lẫn thủ. Bách Duy đại sư thì nghĩ thầm rằng, "Giả như cả năm vị Hộ Pháp hợp lực lại cũng không phá nổi thế ấy của chàng. Trái lại, kẻ nào xông vào trước là kẻ ấy bị hạ ngay!"

Mọi người ngó sang phía Lan Cô. Hai tay nàng thu kín trong ống tay áo rộng. Đôi mắt mơ màng, bỗng quắc hẳn lên. Nguyên lai, tâm thần nàng như bị mê đi, bị một sức gì chi phối, nhưng riêng về công phu võ nghệ thì nàng chẳng hôn mê gì hết. Trái lại, ở nàng có một uy lực thần bí đặc biệt võ nghệ!

Hình như Lan Cô chưa tìm được cơ hội. Nàng như chờ đợi hễ chàng lãng trí đi, hơi phân tâm một chút là ra tay sấm sét.

Bọn Hoàng Phủ Thiếu Hồng đều lấy làm kinh ngạc, không hiểu vì sao khác với thường lệ, lần này Lan Cô chậm chạp không ra tay ngay.

Hai bên giữ nhau như vậy khá lâu. Mọi người có mặt đều nín thở chờ đợi. Coi bộ dạng Nhâm Vô Tâm hệt như pho tượng đá. Mọi người có cảm tưởng rằng chàng có thế đứng như vậy hàng tháng trời cũng không chuyển động. Ngay đến Bách Duy, một cao tăng từng tập lối "quay mặt nhìn vách" theo phương pháp Đạt Ma, vậy mà cũng tự nhận rằng không tài nào trấn tĩnh được đến thế.

Chợt thấy Hoàng Phủ Thiếu Hồng với người áo đen cũng cúi lượm gói bạc nén. Thình lình cả hai cùng tận lực ném ra. Hai gói bạc nén thét gió đánh thẳng vào lưng bên trái Nhâm Vô Tâm. Họ thừa biết là không đả thương nổi chàng, nhưng ném như vậy ít ra cũng khiến chàng phải lo tránh, và đó là một lối tạo cơ hội buộc chàng phân tâm để Lan Cô có thừ cơ hạ thủ.

Bọn Bách Duy thất kinh, dù la lên cũng chẳng kịp. Hai gói bạc ném xé gió vèo tới mạnh như sấm sét. Nhâm Vô Tâm vẫn đứng yên không động. Còn cách người chàng một gang tay, đột nhiên hai gói bạc như bị một sức phản đàn đánh bật trở lại "binh binh" hai tiếng chát chúa, một bức tường cách xa chàng hai trượng, bị đánh vỡ ra một mảng lớn.

Hai gói bạc vốn đã nặng, bị sức mạnh như thần của bọn Hoàng Phủ Thiếu Hồng ném đi, bỗng nhiên bị dội trở lại, thành ra một sức chuyển động quăng đi quật lại kinh hồn, đủ thấy phản trấn lực của Nhâm Vô Tâm là mạnh tuyệt luân. Thần tình một điều là chàng vẫn y nhiên không nhúc nhích, trong khi bọn Thiếu Hồng tái mét mặt lại.

Chợt đâu theo chiều gió phảng phất có tiếng nhạc lạ lùng, văng vẳng thê lương, khiến người nghe muốn đứt ruột.

Lan Cô rùng mình lên, thân hình hơi khom xuống, vụt cái lui tuốt về phía sau. Mọi người chỉ thấy như một cái bóng khoa múa lên trước mắt, thân hình nhỏ bé của nàng như biến đi đâu mất, duy nhận ra bức rèm lung lay, chiếc kiệu còn đó.

Chợt nghe tiếng người áo đen quát lớn, "Nhâm Vô Tâm! Bữa nay tạm tha chết cho ngươi! Rồi sẽ biết...!"

Dứt lời Hoàng Phủ Thiếu Hồng giơ tay vẫy một cái. Hai người ghé vai khiêng kiệu chạy bay, cả bọn đi về phía có tiếng nhạc véo von. Bách Đại ngẩn người ra, hỏi Nhâm Vô Tâm, "Có đuổi bắt không?"

Cùng với hai tiếng "... bắt không", chỉ thấy Nhâm Vô Tâm lảo đảo người, "huỵch" một tiếng, chàng té xiêu xuống, mặt trắng bệch, mồ hôi đổ giọt đầm đìa. Mọi người kinh hãi! Lúc đó mới hiểu rằng vừa rồi chàng đứng ổn tĩnh như Thái Sơn, kỳ thực là đã dùng kiệt lực rồi, nếu như Lan Cô chậm lại một phút thì thực nguy hại.

Chàng ngồi phệt xuống, không dám động cựa, lập tức điều hoà hơi thở, vận hành huyệt mạch. Mọi người chia nhau trấn giữ các mặt đề phòng bọn Nam Cung thế gia trở lại chăng? Một lúc sau, mặt chàng dần dần hồng nhuận lên, mở mắt thở phào một cái.

Bách Duy chắp tay niệm Phật hiệu rồi nói, "Nếu không được đàn việc ngăn chận tụi chúng lại thì bọn tôi nguy mất. Ổn tĩnh như Thái Sơn, một thế thủ ấy quả nhiên diệu tuyệt kim cổ. Có vậy con nữ ma đầu mới bỏ chạy!"

Nhâm Vô Tâm cười một cách đau khổ, "Chẳng giấu chi các vị đại sư! Vừa rồi là một thế "Trời Đất cùng ra tro". Thực chẳng dám chắc là Lan Cô lại có ý e sợ. Nguyên đó là thế thủ vững chắc vô cùng. Nhưng gặp tay cao thủ như Lan Cô, thì nàng vẫn có thể phá được. Có điều rằng nếu nàng quyết phá thì cả đôi bên cùng phải chết, cho nên mới gọi là "Trời Đất cùng ra tro". Ngọn đòn này là của "Tử Cốc Nhị Kỳ" truyền thụ cho tại hạ. Bữa đó người dặn rằng cứ yên trí dùng thử, không sợ, vì Lan Cô mà gặp đòn này, nàng quyết không dám liều mạng... đâu!"

Bách Đại ngạc nhiên hỏi, "Coi vậy một ngọn đòn ấy, ngoài tính cách thủ thế tuyệt vời kín đáo ra, phải chăng còn có ma lực gì thần kỳ khác?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Đòn ấy, đối với bọn ta thì chẳng có ma lực thần bí gì hết, nhưng đối với Lan Cô thì nó có một sự kích thích tuyệt lớn, hoặc là làm xúc động đến mối đau thương thầm kín trong tâm lý, hoặc khêu gợi một hồi ức bí ẩn gì trong lòng nàng. Tâm trí nàng tuy đã bị người ta khống chế hoàn toàn rồi, nhưng tâm linh nàng một khi tiếp xúc với đòn ấy là bị khích động hoá ra ngần ngừ nghi ngại. Đủ thấy đòn ấy ảnh hưởng rất lớn về tiềm linh ý thức của nàng. Về điểm này, tại hạ có thể đoán chắc là... Vừa rồi, mặt nhìn mặt, tại hạ nhận thấy linh quang nơi mắt nàng loáng lên một cái hình như cố nhớ lại một sự kiện gì. Nhưng vì tâm trí nàng bị chi phối mê hoặc quá nặng nên linh quang đó chỉ loé lên một cái rồi tắt ngay. Nếu tại hạ xét đoán không lầm thì có một lần nào đó, nàng từng bị trọng thương bởi ngọn đòn ấy. Mà kẻ dùng ngọn đòn ấy đánh nàng, nhất định là có mối quan hệ rất lớn với nàng..."

Chàng chép miệng, nói tiếp, "Vừa rồi, trong tay Hoàng Phủ Thiếu Hồng hẳn là có cầm một vật gì có một ma lực thần bí có thể sai khiến Lan Cô. Trước khi nàng ra khỏi chiếc kiệu thì tay nàng thò ra ngoài bức rèm sẽ múa lên một cái. Lúc đó chúng ta nghĩ lầm cứ tưởng là nàng ra hiệu gọi Thiếu Hồng, thành thử tại hạ không đoán ra được là Lan Cô ngồi ở trong kiệu. Do đó, đủ thấy là nàng ngồi lâu trong kiệu, sốt ruột có ý ra tay ngay, nhưng Thiếu Hồng thấy rằng thời cơ chưa tới nên chạy tới đưa ra một vật gì đó đủ để chế ngự ngăn giữ nàng lại... Chao ôi! Việc đời nhiều cái ly kỳ. Cứ bề mặt nhận xét thì sai lầm hết!"

Bách Duy đại sư chợt hỏi, "Trong tay Hoàng Phủ Thiếu Hồng có giữ một vật gì đó, hẳn là có liên quan mật thiết với ngọn đòn "Trời Đất cùng ra tro"?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu trả lời, "Chính thế! Đại sư nhận xét thực là tinh tế! Nếu tại hạ biết được ngọn đòn "Trời Đất cùng ra tro" là của ai sáng chế ra, và trong tay Hoàng Phủ Thiếu Hồng cầm là vật gì, nguyên là của ai, thì có thể có cách khôi phục thần trí Lan Cô trở lại sáng suốt. Rồi tự nàng sẽ nói ra những điều cực kỳ bí ẩn liên quan đến gia đình "Nam Cung thế gia"!"

Bách Đại cau mày nghĩ ngợi. Một lúc sau lắc đầu mà rằng, "Bần đạo lịch duyệt giang hồ trên bốn chục năm, chưa từng nghe nói có một ngọn đòn thần kỳ tinh mật và bí diệu như ngọn "Thiên Địa câu phần" ấy! Nếu như xưa kia, có ai từng sử dụng qua một lần rồi thì trên giang hồ đã đồn đại lên và không thể mai một đến nỗi ngày nay chẳng còn ai nhắc tới?"

Hồi thứ bốn mươi lăm

Ngán nỗi chưởng môn mà thù địch, buồn thay đồng đội lại can qua

Nhâm Vô Tâm than rằng, "Lẽ nào trên giang hồ chưa từng có ai đã dùng qua ngọn đòn ấy!"

Mắt chàng bỗng loé tinh quang lên, "A! Phải chăng trên giang hồ từng đã có kẻ được thấy ngọn đòn ấy, nhưng... rồi họ đều bị chính ngọn đòn ấy tiêu diệt cả rồi...!"

Bách Đại nghe nói lạnh cả người, la lên, "Ấy! Cái ấy...!"

Chỉ nói được thế thôi, cổ họng Bách Đại tưởng như tắt lại. Mọi người đều cảm thấy ớn xương sống lên!

Lúc ấy người trong xóm đã quét rửa đường lối sạch sẽ và có người mời bọn Nhâm Vô Tâm vào nhà dùng nước trà, tỏ ra ý cảm kích vô cùng.

Bách Huề đại sư bị thương rất nặng, hơi thở thoi thóp, dù đã dùng thuốc nổi tiếng của phái Thiếu Lâm, chẳng qua chỉ tạm giữ được khỏi chết ngay, trừ phi chính tay Lan Cô chữa cho, ngoài ra không có thuốc nào cứu trị nổi!

Về phần Nhâm Vô Tâm thì nghĩ rằng năm vị Hộ Pháp này chính là cột trụ của Thiếu Lâm, đáng lẽ phải ở lại chùa mà điều hành mọi công việc thì nếp sống của Thiếu Lâm mới khỏi bị xáo trộn. Còn chính Bách Nhẫn Chưởng môn đáng lẽ đích thân xuống núi mới phải, nay lại để cả năm vị Hộ Pháp cùng ra khỏi chùa thì vô lý quá! Nghĩ vậy, chàng thở dài mà rằng, "Trong võ lâm hiện đương bị bọn ác ma quấy rối. Nhưng năm vị đại sư đây có trọng trách điều khiển sinh hoạt, lo việc an nguy cho toàn thể Thiếu Lâm, đáng lẽ không nên hạ sơn thì phải!"

Bách Duy đại sư trố mắt ra, vội hỏi, "Ủa lạ! Chúng tôi hạ sơn là vì Nhâm tướng công có giấy mời. Giấy mời lại do Điền Tú Linh cô nương thân hành đưa tới...!"

Nhâm Vô Tâm choáng người lên, "Tại hạ... có thơ mời... a! Điền cô nương lại thân hành đưa tới! A! Lạ thật! Đại sư lầm... lộn chăng? Nhất định là ta mắc mưu gian của họ rồi! Chẳng hay trong giấy mời nói những gì?"

Bách Duy đại sư nói, "Bức thư ấy, lão nạp không nhớ được hết! Duy có sư đệ Bách Huề vốn có tài Trạng Nguyên, hoặc giả có thể đọc cả lại chăng?"

Vừa nói tới đây, thì Bách Huề đại sư bỗng mở to mắt ra. Thì ra, tuy bị trọng thương gần chết mà ông ta vẫn tỉnh, để ý nghe mọi người nói chuyện. Tới đây ông ta giơ tay ra hiệu cho Nhâm Vô Tâm tới bên, đoạn cất tiếng run run nói, "Trong bức thư, rất có thể là có một vài manh mối quan hệ... Lão nạp biết mình khó sống, vậy trước khi chết cũng cố thu tàn lực đọc lại cả bức thư đó, may ra có giúp ích gì cho sự cứu xét của chư vị chăng!"

Ngừng một lúc, Bách Huề bắt đầu chậm rãi đọc lên từng chữ. Bức thư khá dài, tác giả tạm trích ra đây mấy đoạn chính yếu.

"Kính gửi Thiếu Lâm Bản viện, Đạt Ma Đường Hộ Pháp Đại Sư Phật tiền tổ giám.

... Từ sau khi Bách Nhẫn, Bách Đại đại sư quyết lấy tôn chỉ vệ đạo giáng ma, xuất hiện tuần thị giang hồ. Bách Tường đại sư Phật giá qua Tây Phương trở về cõi Niết bàn, thì Thiếu Lâm bản viện toàn do Đại sư bảo hộ, duy trì Thánh địa là nơi phát nguyên của thiên hạ võ học. Cho nên, trên giang hồ thảy đều minh cảm ơn đức của Đại sư.

Gần đây thế lực ác ma trên giang hồ ngày một bành trướng. Nhâm Vô Tâm tuy biết Đại sư Phật giá không dễ gì hạ sơn, nhưng dù sao cũng phải nhờ sức "giáng ma vệ đạo" của Đại sư giúp cho mới được. Vốn biết lòng Từ bi thương người giúp đời của Đại sư thực vô bờ bến, nên Nhâm Vô Tâm này mới cả gan, dám xin Đại sư tạm thời quyền biến, tay cầm dao trừ ma, xuất đạo giang hồ một phen để giúp đời, độ chúng sinh, thời may mắn cho thiên hạ vô cùng, mà Vô Tâm này cũng được nhờ ơn nhiều lắm!

Nếu như Đại sư quyết giúp cho việc này, dám xin Đại sư ăn vận lối áo bào trắng, mặt che bằng màng vải trắng, để phân biệt phải trái hẳn với lối y phục sắc đen của bọn "Nam Cung thế gia...

Giang NamNhâm Vô Tâm kính gửi."

Bách Duy nghe xong, thở dài mà rằng, "Lời trong thư thành thực khẩn thiết, cho nên ngay bữa sau đó bọn lão nạp tức tốc hạ sơn."

Chợt nghe Bách Phù đại sư gọi giật lên, "Sư đệ! Bách Huề sư đệ..."

Mọi người giật mình ngó lại, thấy Bách Huề từ từ duỗi tay chân ra, nhắm mắt lại. Bách Duy, Bách Vệ, Bách Hộ, Bách Đại cùng theo Bách Phù cùng quỳ cả xuống. Nhâm Vô Tâm cùng sáu người khác trong xóm cũng nhất tề quỳ theo. Tiếng tụng niệm đều đều nổi lên, trước còn quanh quẩn một khu nhỏ, sau lan dần khắp xóm, với khói hương trầm toả lên nghi ngút.

Đêm dần dần về khuya. Nhà nào nhà nấy điểm đèn và đóng cửa. Sau khi tụ tập ở một gian nhà nọ, Nhâm Vô Tâm với vẻ mặt nghiêm trọng cất tiếng nói, "Bách Huề Đại sư đã về chầu Phật, nhưng công đức của Người còn ở lại. Chỉ riêng một bức thư Người đọc lại vừa rồi, cũng giúp tại hạ rõ được nhiều điểm bí mật đáng ngờ! Trước hết, tại hạ không khỏi ngờ rằng trong tình thế khẩn cấp và nguy hiểm này, đúng ra là phải giấu kín hành tung, vậy mà các vị Đại sư lại toàn mặc áo bào trắng, cố ý để lộ lai lịch hành tung ra! Giờ thì tại hạ thấy rõ đó là độc kế của Nam Cung thế gia. Nếu không thế thì giang hồ hào kiệt sẵn nhiều, bọn Nam Cung thế gia biết ai là kẻ đối đầu với họ, để mà... tận sát!"

Bách Đại nghe ra, vỗ bàn, quát lên, "A! Thực là kế âm độc! Nhưng... thiếu chi những tay anh hào hiệp sĩ trên giang hồ, vô luận là thế nào, chúng giết sao hết được!"

Nhâm Vô Tâm nói tiếp, "Cứ lời Hoàng Phủ Thiếu Hồng nói ra thì trừ các vị Đại sư ra, còn biết bao người khác bị trúng kế ấy và biết bao người đã chết vì thế. Lợi hại nhất là họ dùng cái lối một công hai việc cùng làm một lúc."

Ngừng một giây lát, chàng giải thích, "Trước hết là theo lối đó, là họ có thể dẫn dụ các tay anh hùng tinh hoa của các phái đều lộ cả mặt ra để họ giết cho kỳ hết. Tự nhiên là các nơi trọng địa, gốc rễ các môn phái sẽ hết tay giỏi phòng giữ. Thế là họ có thể dùng sức mạnh, hoặc chiếm đóng, hoặc phá huỷ tan tành những cơ nghiệp hàng trăm ngàn năm để lại. Liền đó, họ có thể bắt buộc cả chín đại môn phái thần phục để họ đứng làm bá chủ võ lâm. Tệ hại hơn nữa là hành động của họ chuyến này làm tiêu hao thực lực của các môn phái, mà tên tuổi Thiếu Lâm, Vũ Đương sẽ vĩnh viễn bị tiêu trừ trên làng võ lâm từ đây."

Bách Duy hoảng người lên, vội nói, "Vậy thì bọn lão nạp nên tức tốc trở về Thiếu Lâm, may ra còn cứu vãn được kịp! Nhâm tướng công có ý kiến gì, xin chỉ giáo cho!"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu nói, "Lúc này ư? Chưa cần về ngay. Coi như việc Lan Cô có mặt bữa nay ở đây đủ biết là tụi chúng đã dốc cả sào huyệt, chia người đi du kích khắp nơi, đánh giết những kẻ đối đầu với chúng. Sau một thời gian nào đó, chừng nào tiêu hao gần hết lực lượng các môn phái rồi, chúng mới tập trung đánh vào căn cứ chính được. Vậy nên các Đại sư chưa cần về Thiếu Lâm. Trái lại, nên thừa dịp này thực lực chúng đương phân tán đi các ngả, chúng ta bố trí tìm cách phá vỡ lực lượng chúng đi!"

Ngừng giây lát, chàng nói tiếp, "Nếu các Đại sư trở về bây giờ, quyết không qua khỏi con mắt trinh sát của chúng. Có thể là chúng thu thập lực lượng dồn vào đánh căn cứ Thiếu Lâm trước tiên. Như vậy ta không chống lại được. Tốt hơn hết, ta cứ lờ đi như không biết mưu mô của chúng. Việc thứ nhất là do Thiếu Lâm đứng tên, gửi thiếp cho các đại môn phái, yêu cầu họ ngấm ngầm tập hợp những tay tinh nhuệ tới Thiếu Thất Tung Sơn. Với lực lượng ấy, dù bọn Nam Cung thế gia có tới đánh, cũng đủ đối phó. Bọn ta đây đồng thời lưu ý, nếu cần có thể quay về tiếp viện được. Duy có hai điểm chú ý, một là cấp tốc tiến hành ngay, hai là hết sức kín đáo. Thực lực chúng ta hơi yếu, nếu không gặp trường hợp bất đắc dĩ, quyết không đem sức ra chọi, tránh khỏi tan vỡ ngay lúc đầu."

Bách Đại đại sư nói, "Nếu tập trung cả ở Thiếu Lâm thì bọn Nam Cung thế gia xoay ra tập kích căn cứ của tám môn phái kia, chẳng nguy hiểm lắm sao?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Căn cứ các môn phái khác bỏ trống, dù có bị tập kích cũng chỉ phá huỷ một số nhà cửa. Sau đó kiến trúc lại, còn hơn là bị hao tổn về sanh mạng. Huống chi, nếu bọn chúng kéo tới Vũ Đương sơn chẳng hạn, chỉ thấy những hang bỏ trống cả, thử hỏi chúng phá cái gì? Phá hang đá ư? Vả lại chúng thấy chẳng có ai hết, thì chưa chắc đã dám tiến vào sâu quá. Binh pháp nói "Hư hư, thực thực" là thế!"

Bách Đại gật đầu khen phải, và hỏi mưu kế thứ nhì. Nhâm Vô Tâm nói, "Kế thứ nhì là, Chúng ta triệu tập những cao thủ, tổ chức thành lực lượng khác, đi lùng kiếm chúng. Hễ gặp những lực lượng hơi yếu hơn là ta tiêu diệt ngay. Chúng nó chủ trương "lấy lớn nuốt bé". Giờ ta "ăn miếng trả miếng", lấy ngay lối của chúng mà đập lại chúng những đòn bất ngờ. Có điều rằng mưu kế và nhất là hành tung của ta phải giữ hết sức bí mật, nếu cần thì phải luôn luôn hoá trang một cách rất khéo mới được!"

Bách Đại khen rằng, "Hư thực, thực hư. Gia Cát tái sinh bất quá cũng đến thế!"

Nhâm Vô Tâm thở dài mà rằng, "Nói vậy mà chưa chắc đã ăn thua gì! Không phải là tại hạ đa nghi... Gần đây tại hạ ngờ rằng Nam Cung thế gia mới có thêm một nhân vật nào đó rất lợi hại. Người này gian giảo đa mưu, hình như họ biết rõ cả tình hình bọn ta. Cho nên mọi hành động của Nam Cung thế gia, gần đây hầu như toàn là đúng tin, đánh trúng vào nhược điểm của ta."

Bách Đại nói, "Như vậy bắt buộc tướng công phải trừ khử người ấy đi?"

Nhâm Vô Tâm nhăn nhó cười mà rằng, "Khổ nổi chưa biết người ấy là ai cả!"

"Trước kia người đem phong thư giả mạo tới Thiếu Lâm chính là Điền Tú Linh cô nương. Vậy thì..."

Nói tới đây, Bách Đại cau mày, bỗng đằng hắng lên một tiếng rồi ngưng lại.

Nhâm Vô Tâm hiểu ý, lắc đầu nói, "Điền cô nương là kẻ bội phản Nam Cung thế gia. Dù nàng có hồi tâm trở về với họ, thì họ cũng chẳng dung tha nàng! Huống chi lại còn tin cẩn mà trao cho bày mưu kế sao? Tụi họ biết rằng Bách Duy đại sư chưa từng biết mặt Điền cô nương, bèn sai một người con gái nào đó giả mạo đưa thư... cũng chưa biết chừng! Việc khiến tại hạ lo lắng, chẳng riêng một mình Điền cô nương mà thôi!"

Lúc đó Bách Duy đại sư đã viết xong tờ thiếp uỷ cho bọn đại đệ tử của La Hán Đường, ăn vận theo thường nhân, thân hành tống đạt cho các phái Vũ Đương, Nga Mi, Điểm Thương v.v... Bốn đệ tử, sau khi nghe căn dặn cẩn thận rồi, liền vâng lệnh ra đi ngay đêm hôm ấy.

Bốn đại đệ tử vừa ra khỏi cửa thì Nhâm Vô Tâm lập tức đứng lên, nói, "Bách Đại, Bách Duy đại sư, xin cùng ra đi với tại hạ. Bọn Thiếu Hồng tuy rút lui rồi, nhưng quanh đây chúng còn đặt mai phục và trinh sát. Chúng ta phải yểm hộ cho bốn đệ tử và cũng là một dịp để tra xét bọn chúng động tĩnh ra sao. Còn ở gian nhà này, xin Bách Phù đại sư để ý trông coi!"

Dứt lời, chàng tiến bước ra khỏi nhà. Bách Duy than rằng, "Tướng công hành động cẩn thận như vậy, không ai sánh kịp!"

Lập tức bốn cái bóng người thoăn thoắt len lỏi qua những bóng mái hiên, bóng cây như rắn quăng mình, như khói tuôn đi. Chỉ vài cái lao mình, nhảy vọt, họ đã nhận ra bóng dáng bốn đệ tử đương vùn vụt đi phía trước.

Bọn Nhâm Vô Tâm chia ra hai người đi phía tả, hai người lảng qua phía hữu, ngó trước nhìn sau. Một loáng sau vẫn thấy tứ bề yên tĩnh như thường. Bách Đại sẽ nói với Bách Duy, "Nhâm tướng công cái gì cũng xuất sắc. Có điều là quá tự khiêm tốn! Bọn Nam Cung thế gia hồi nãy thoáng thấy bóng tướng công là chạy hết cả rồi, làm gì còn có mai phục... mà..."

Chưa nói hết câu, đột nhiên thấy bóng hai đệ tử phía trước lẫn vào bụi cây mất dạng! Bách Đại cùng Bách Duy cau mày, kẻ trước người sau cùng vọt tới nơi, vừa ngơ ngác toan tìm kiếm, bỗng nghe có một giọng ông già từ lùm cây gọi ra, "Bách... Đại... sư... đệ a!"

Bách Đại giật bắn người, nhảy lùi lại hai bước, quát hỏi, "Ai đó?"

"Sư đệ... không nhận ra được tiếng ta nói... sao?" Từ trong lùm cây lại có tiếng nói ra. Tiếp theo là tiếng lá sột soạt, hai người rẽ cành lá bước ra, mặt mũi tái xanh hẳn đi.

Trong khi đó Bách Đại đã nhận ra được tiếng gọi kia rồi. Ông ta kinh hãi la lên, "Sư huynh... Đại sư huynh... đó ư?" Vừa nói, Bách Đại vừa giang cánh tay ra, và nhào tới. Hai đệ tử Thiếu Lâm vội lánh ra nhường lối.

Phía ngoài bụi cây có vẻ um tùm, nhưng bên trong là một khoảng trống, rộng sáu bảy thước. Một lão tăng, áo bào màu tro, ngồi xếp chân bằng tròn, mắt nhìn xuống như kẻ đương nhập định.

Bóng trăng từ trên rọi xuống. Thân hình lão tăng loang loáng lên như có tia sáng bạc. Bách Đại nhận rõ là Bách Nhẫn đại sư, chính là đại sư huynh, vị Chưởng Môn Phương Trượng Thiếu Lâm bị mất tích từ lâu!

Bách Đại reo lên một tiếng, chạy lại. Bách Nhẫn sẽ hé mắt ra miệng hơi cười, sẽ nói, "Lâu nay sư đệ vất vả quá! Lại đây cho ta nhận xem khí sắc sư đệ ra sao?"

Bách Đại mừng quýnh lên, nói, "Đệ vẫn mạnh khoẻ! Sư huynh... gần đây... sao tiều tuỵ thế?"

Hai người bình nhật tánh tình hợp nhau, thân nhau hơn ruột thịt. Cách xa bao lâu, không rõ sống chết ra sao, nay bỗng lại gặp quá ư bất ngờ! Bách Nhẫn cầm tay Bách Đại rồi nói, "Sư đệ! Chính sư đệ cũng tiều tụy nhiều lắm mà."

Bách Đại nghẹn ngào nói, "Sư huynh yên lành trở về được, thế là chẳng riêng gì tiểu đệ mừng, mà luôn cả Nhâm tướng công cũng..."

Vừa nói tới đây, bỗng thấy cổ tay bị bấm ghì lại. Từ bàn tay trở vào, bảy nơi huyệt lớn bị Bách Nhẫn kiềm chế rồi!

Bách Đại thất kinh, la lên, "Sư huynh! Sao... lại..."

Bách Đại vừa mới la lên thì Bách Duy ở phía sau đã như điện chớp ra tay luôn một hơi từ gáy Bách Đại trở xuống, liên tiếp điểm trúng mười ba huyệt đạo rồi. Đó toàn là những huyệt nặng lại thêm chỉ lực của Bách Duy mạnh kinh nhân. Lập tức Bách Đại hết chống cự, động cựa, nhưng tai còn nghe rõ tiếng Bách Nhẫn cất giọng lạnh lùng nói, "Những kẻ chống đối lại Nam Cung thế gia,đều là tự tìm đến chỗ diệt vong cả. Sư đệ chớ trách là ta tàn độc..."

Giọng nói lúc này đầy vẻ âm hiểm, độc địa, không còn chút gì là nhân từ hoà ái như Bách Nhẫn hồi trước nữa.

Bách Đại kinh hãi một phần, mà căm giận thì cả trăm phần vì không ngờ rằng vị Chưởng giáo Phương trượng cùng vị Hộ Pháp Trưởng lão của Thiếu Lâm tự từng nổi danh và được tôn trọng hàng mấy trăm năm nay, mà đến nỗi hàng phục, chịu làm tay sao cho "Nam Cung thế gia"?

* * *

Bách Đại đại sư trong lòng vô cùng bi thương, phẫn hận, nhưng vẫn kín miệng không nói ra nửa lời. Chỉ thấy Bách Nhẫn quay mặt đi, không thèm nhìn bộ mặt đau khổ của mình. Trái lại đôi mắt Bách Duy liếc nhìn Bách Nhẫn rồi gằn giọng hỏi, "Sư huynh à! Lúc này kết quả tánh mạng nó đi chứ?"

Bách Nhẫn cất giọng âm hiểm, nói, "Trao nó cho ta! Sư đệ mau quay trở lại, đối phó với Nhâm Vô Tâm, vào bảo với hắn là..."

Bách Duy nói tiếp vào, "Bảo với hắn là... Bách Đại cùng tiểu đệ phát hiện ra có dấu hiệu mai phục, bèn chia nhau đuổi theo. Cuối cùng Bách Đại đi tới đâu không rõ, tiểu đệ tìm kiếm không được, đành quay trở về..."

Bách Nhẫn gật đầu, cười, "Đúng thế! Sư đệ cứ nói thế! Nhâm Vô Tâm dù thông minh đến mấy, cũng không ngờ tới được. Hắn có ngờ đâu là kế hoạch với hành vi của hắn đều không qua được mắt bọn ta."

Bách Duy than rằng, "Chỉ có Bách Huề sư đệ, vừa rồi bị chết, thực đáng tiếc!"

Bách Nhẫn sầm nét mặt lại mà rằng, "Nếu không hy sinh đi thì sao chiếm được lòng tin của Nhâm Vô Tâm. Cái chết ấy rất giá trị! Có gì ân hận, đáng tiếc đâu!"

Bách Duy cúi đầu nói, "Sư huynh nói vậy... nhưng đã chiếm được lòng tin của Vô Tâm rồi thì giết hắn đi, sao còn để hắn sống làm gì để hắn làm hại mọi người!"

Bách Nhẫn giải thích, "Hắn có tài, gần đây lại giao kết rất rộng, bè đảng khá lớn, sẵn sàng hành động. Trừ hắn ra, còn có Điền Tú Linh cũng lắm thủ hạ, chưa rõ chúng ẩn náu ở đâu. Nay nếu giết Vô Tâm đi thì làm sao tìm kiếm ra bè lũ của hắn để mà "nhổ cỏ cho hết rễ" được. Vì thế mà tạm để cho hắn sống."

Bách Duy than rằng, "Nhâm Vô Tâm tuy là tài trí, so ra còn kém Điền cô nương xa. Chúng ta có được Điền cô nương, bày mưu đặt kế, quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, thì lo gì không trừ hết được kẻ thù!"

Bách Đại rùng mình, nghĩ thầm, "Nhâm tướng công a! Trận cờ tính sai một nước thành thử tan vỡ thua trận. Yên trí rằng Điền cô nương quyết không dám trở về với Nam Cung thế gia, đó là một nước cờ tính sai quá. Có ngờ đâu, lúc này bao nhiêu dự liệu, kế hoạch của bọn mình đều bị bọn Nam Cung thế gia biết rõ cả rồi!"

Bách Đại có biết đâu rằng Điền Tú Linh vì quá yêu Nhâm Vô Tâm nhưng không thoả mãn mà sinh ra quá giận. Yêu và giận khích phát tiềm lực của sinh mệnh, sinh ra quyết tâm phải chiến thắng Nhâm Vô Tâm bằng bất cứ giá nào khiến chàng phải đau khổ, phải hối hận.

Bách Duy cáo từ Bách Nhẫn rồi quay mình nhảy ra khỏi lùm cây, một mạch chạy trở về, đã thấy Nhâm Vô Tâm đương ngồi đợi. Bách Duy giả vờ ngơ ngác hỏi, "Bách Đại sư huynh chưa trở về sao?"

Nhâm Vô Tâm giật mình hỏi, "Đại sư cùng đi một ngả với ông ta mà!"

Bách Duy thuật lại đầu đuôi câu chuyện theo như lời Bách Nhẫn đã dặn. Bọn Bách Phù cũng vờ làm ra vẻ kinh hoàng. Kỳ thực thì trong lúc đó, duy có Nhâm Vô Tâm là lo ngại, nóng ruột. Bách Duy cau mày vờ hỏi, "Tướng công vừa rồi đi, có nhận thấy gì lạ chăng?"

"Thực lạ quá! Bọn Nam Cung thế gia xưa nay hành động hung tàn, gặp gì giết nấy cho kỳ hết mới thôi. Vậy mà bữa nay chưa chi đã bỏ đi, lại không có mai phục gì cả!"

Bách Duy nói, "Nhờ ơn Phật Tổ! Bọn họ không đặt mai phục thì Bách Đại sư huynh chỉ là lạc lối trong chốc lát sẽ trở về, khỏi lo!"

Nhâm Vô Tâm chắp tay ra sau lưng, đi lại trong phòng. Chàng suy luận, không tin rằng Bách Đại bị lạc đường... Nhưng nếu không vì lạc đường thì sao trở về chậm thế! Có một điều mà chàng chẳng thể ngờ tới là ngay bên cạnh chàng lúc đó, bốn vị cao tăng Thiếu Lâm, với vẻ mặt từ bi, nghiêm trang đạo mạo, lại chính là một ổ phục binh gián điệp của Nam Cung thế gia, lúc nào cũng kiểm soát hành vi, nhìn rõ mưu kế của chàng và... họ muốn giết chàng lúc nào cũng được!

Trời đã hoe sáng, vẫn chưa thấy Bách Đại trở về! Nhâm Vô Tâm tuy đã hết sức mỏi mệt nhưng vẫn cố gắng không dám nằm nghỉ. Chàng đứng bên cửa sổ, mở ngực ra hít đầy không khí. Một vài phút sau, quay mình lại. Bọn Bách Duy, Bách Phù thấy rằng sắc da chàng tươi sáng, đôi mắt loang loáng thần quang, đều lấy làm kinh dị nghĩ rằng có lẽ anh chàng này đã luyện thành thân hình La Hán Kim cương thì mới chịu đựng nổi như vậy.

Chợt thấy chàng cười mà rằng, "Căn cứ vào đởm lược với võ công, thì Bách Đại đại sư dù có gặp gì khó khăn cũng có thể vượt qua được. Biết đâu ông ta chẳng dò xét thấy manh mối gì lạ, mà trong vài bữa hoặc nửa tháng sẽ trở về báo tin tức. Ngoài ra như Huyền Chân đạo trưởng cùng Bách Nhẫn và Bách Đại Đa Sát Thủ, tạm thời tuy mất liên lạc, nhưng cả ba đều là những tay phi thường xuất chúng, biết đâu các vị ấy chẳng đã thâm nhập lẫn vào trong lòng phe địch, và sẽ thu hoạch được những kết quả với tài liệu phong phú."

Bốn nhà sư Thiếu Lâm cùng chắp tay niệm "Mô Phật" kỳ thực trong lòng cười thầm chàng là thằng ngốc!

Nhâm Vô Tâm nói tiếp, "Các môn phái sẽ đến tụ hội ở Thiếu Lâm! Còn ở xóm này, chúng ta hãy lo đem những người còn lại tới một nơi an toàn khác tránh cho họ khỏi bị bọn Nam Cung thế gia trở lại tàn sát!"

Vừa nói tới đây, chợt có tiếng bên ngoài cười lạnh lùng mà rằng, "Những kẻ định chống đối Nam Cung thế gia thì làm gì còn có đất để an thân!"

Nhâm Vô Tâm vọt đến bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra, trong khi miệng quát hỏi "Ai đó?" thì "bình" một tiếng, thân mình chàng đã lao qua phía cửa lớn ra ngoài rồi. Thoáng đưa mắt, chàng đã nhận thấy một người đứng trơ ra ở giữa đường cái. Và ngay lúc đó, người kia bỗng dưng vừa quay tròn mình đi vừa đưa hai tay lên múa. Vừa quay vừa múa lẹ đến nỗi trong nháy mắt đã xoay đến vài chục vòng. Với sức mắt của Nhâm Vô Tâm mà cũng không nhận rõ thân hình mặt mũi của người kia thế nào. Chỉ biết rằng người kia có bộ tóc dài, cùng với tà áo xoè ra như hình chiếc dù đen vậy!

Chàng sửng sốt, không hiểu sao người kia vừa thấy chàng mà lại giở ngay ra cái trò múa may điên cuồng! Phải chăng là một lối múa để rải rắc chất phấn độc chi đó?

Lúc đó bọn Bách Duy cũng ra đến nơi, thảy đều tỏ vẻ kinh dị!

Nhâm Vô Tâm định làm cho người kia phải ngừng lại, bèn hít không khí, nín thở vọt mình đi liền. Thân mình chàng còn cách người kia chừng một trượng thì cảm thấy từ trong vòng xoay tròn kia phát ra một làn gió độc và có một áp lực vô hình cách biệt hẳn những gì ngoài phạm vi gió cuốn đó.

Rõ ràng là người kia vừa xoay múa, vừa phát cương khí ra, với một sức mạnh mà trong đời này hoạ chăng chỉ có vài người như Nam Cung phu nhân, Lan Cô, Bách Đại, Huyền Chân đạo trưởng là có được. Hắn không rắc thuốc độc, nhưng cứ xoay tròn mãi và phát nội lực ra để làm gì? Quả thực là kỳ dị, nếu không phải là điên khùng? Bí hiểm thật! Hắn là ai?

Vèo một cái, Nhâm Vô Tâm xuyên mình qua vòng gió lốc, vào vừa tầm, và lẹ làng dùng lối "Đại cầm nã pháp" chộp bắt lấy cổ tay người áo đen ấy. Nhưng người ấy lẩn tay lẹ như điện, và vòng quay càng gấp lên, chợt tả, chợt hữu, thoắt trước thoắt sau. Liên tiếp thi triển mấy chục đòn "Đại cầm nã pháp" hiệp cùng lối "Tay không lăn vào vòng gươm đao" mà chàng không tài nào chộp bắt được tay người kia. Chợt nghe Bách Duy quát lên, "Bằng hữu là ai? Nếu cứ giở trò đó ra, chớ trách lão tăng can thiệp!"

Người áo đen như tuồng không nghe thấy gì hết. Nhâm Vô Tâm hơi chột dạ, vội nhảy phắt ra ngoài mà rằng, "Đại sư giúp cho một tay mới được! Bốn đại sư đứng bốn góc xa xa, cùng phát chưởng hãm bớt độ xoay của hắn lại, tại hạ sẽ bắt được hắn!"

Lập tức Bách Duy, Bách Phù, Bách Hộ, Bách Vệ cùng nhảy ra bao vây và trái với chiều người xoay kia, tám cánh tay cùng phát chưởng đều đều. Không cần chưởng phong quá mạnh, tuy nhẹ thôi nhưng liên miên bất tuyệt, lập tức tạo ra một luồng gió trái chiều, khiến độ xoay đối phương chậm dần lại. Tóc hắn bị xõa xuống ngay, trùm kín cả mặt đi, trong khi Nhâm Vô Tâm lách mình một cái đã lọt vào sát bên, tay trái chộp đúng cổ tay hắn, tay mặt loáng cái điểm trúng một lúc bảy đại huyệt trước mặt sau lưng. Người hắn đứng đờ ra ngay, nhưng hai tay vẫn múa. Chàng rút lui khỏi rồi, thì người kia đột nhiên ngửa người té đánh "sầm" một cái, nằm thẳng cứng ra.

Bọn Bách Duy cùng ngừng tay và cùng Nhâm Vô Tâm chạy tới. Chàng vén tóc người kia ra, bỗng tái mặt, la lên. Bách Duy hỏi, "Tướng công biết hắn không?"

Chàng la lên, "Biết... biết! Người này là... là Huyền Chân đạo trưởng, là Chưởng môn của Vũ Đương phái hiện tại!"

Thực là kinh kỳ, quái tuyệt. Địa vị tôn trọng, uy danh lừng lẫy như Chưởng môn của phái Vũ Đương mà lại có cử chỉ điên rồ như vậy. Nếu mắt không chứng kiến thì ai dám tin!

Mọi người xúm lại khiêng Huyền Chân đặt vào trong nhà nhưng chưa dám giải huyệt ngay vì sợ ông ta điên trở lại chăng?

Nhâm Vô Tâm lắc đầu hỏi, "Đạo trưởng! Có nhận ra tại hạ chăng?"

Huyền Chân trố mắt, hai con ngươi tưởng như muốn lồi ra được, thần khí mê cuồng, cổ họng nổi lên những tiếng như ứ tắc nghe không rõ, trên trán mồ hôi toát ra, nhỏ giọt. Hình như đương chịu đựng một trận đau khổ hãi hùng cả về tinh thần lẫn thể xác. Bách Duy thở dài nói, "Coi đó đủ thấy Huyền Chân đạo trưởng bị trúng thuốc độc của Nam Cung thế gia và tinh thần vừa bị kích thích, vừa bị chi phối. Nếu tướng công không giải ngay huyệt đạo ra thì rất tai hại..."

Nhâm Vô Tâm buồn rầu nói, "Vẫn biết thế! Nhưng vấn đề cần kíp là phải biết ông ta bị trúng loại độc gì thì mới cứu được. Ông ta hạ sơn lần này là do tại hạ mời. Nếu có làm sao thì tại hạ còn mặt mũi nào trông thấy Vũ Đương sơn đệ tử nữa. Vậy nên dù có nhiều việc hệ trọng, cũng đành bỏ đấy. Trước hãy lo bệnh cho Huyền Chân đạo trưởng đã. Chỉ khổ một nỗi là tại hạ không biết cách chữa, và không biết phép phân thân...!"

Thấy chàng cuống lên, bọn Bách Duy mừng thầm, nhưng cũng cứ giả vờ lo lắng và bàn góp ý kiến. Bọn họ cho rằng dù có tìm ra thuốc nọ thuốc kia, cũng phải hàng tháng mới chữa được.

Vô Tâm nhăn nhó mà rằng, "Biết rằng dù chẳng làm được nhưng cũng cứ làm cho hết sức người. Tại hạ trước hãy xét coi bệnh trạng của Huyền Chân, nếu không cứu nổi thì chiều nay sẽ vác ông ta tới chỗ có nhiều danh y tụ tập... Hẳn là có cách cứu chữa được. Các vị đại sư nghĩ sao?"

Bách Duy vội nói, "Bọn chúng tôi từ nay xin theo tướng công. Vô luận là phải nhảy vào lửa, nước cũng không quản!"

* * *

Nghe bọn Bách Duy nói vậy, Nhâm Vô Tâm vô cùng cảm động. Liền đó vội ôm xốc Huyền Chân đạo trưởng lên đem vào nhà trong. Bách Duy nhìn theo sẽ lẩm nhẩm nói, "Vô Tâm a! Ngũ phu nhân đã bày ra nhiều trò, khiến ngươi phải kiệt tâm, kiệt sức, sống dở chết dở... ngươi biết không?"

Thực vậy, hết việc nọ đến trò kia khiến chàng đêm ngày quần quật lao khổ, dù là người sắt cũng phải quằn đi. Chàng có ngờ đâu một người trước kia yêu mê chàng như thế mà hoá ra căm thù chàng đến nỗi ấy! A! Xưa nay biết bao anh hùng hào kiệt chết vì tay đàn bà mà không biết. Đại để phần nhiều cũng tương tự như trường hợp này!

Phòng ngoài, bốn vị cao tăng ngồi xếp bằng tròn, nhắm mắt, vận dụng công phu điều hoà hơi thở. Trong thôn, người qua lại, chuẩn bị hành trang, bỏ vườn bỏ đất quyết ra đi.

Chừng độ nấu chín nồi cơm, Bách Duy bỗng mở choàng mắt đứng phắt lên, nhìn mấy người trong thôn phái đến hầu trà nước, mà rằng, "A! Lão nạp đi coi xét một lượt xem xung quanh có chi lạ, cốt lo cho quý vị khi dời khỏi đây khỏi phải gặp nguy hiểm khó khăn!"

Mấy người kia càng cảm động, tạ ơn rối rít lên. Bách Duy chắp tay niệm Phật hiệu, đoạn bước ra ngoài, ống tay áo rộng phất lên, lẹ bước đi thẳng. Người trong thôn nhìn theo, thảy đều tấm tắc thán phục vị cao tăng quả là từ bi cứu nhân độ thế. Lại nhìn Bách Hộ, Bách Vệ, Bách Phù ba người này vẫn ngồi yên như bụt, vẻ mặt nghiêm túc. Rõ ràng là những cao tăng đạo hạnh hiểu thấu diệu đế cao siêu của nhà Phật rồi.

Lại nói chuyện Bách Duy ra khỏi xóm. Lúc đó trời đương nắng gắt, nhưng tứ bề yên lặng như tờ. Một lúc sau, lão đã tới chỗ bụi cây gặp Bách Nhẫn đêm trước. Lúc này Bách Nhẫn cùng hai đệ tử Thiếu Lâm không có đấy nữa, nhưng lão cũng lấm lét ngó trước nhìn sau cẩn thận, đoạn lẻn mình lánh vào trong. Cử chỉ thái độ của lão hệt như một thằng ăn trộm, một tên cướp đường vậy.

Vào trong rồi, mắt lão chăm chú tìm kiếm đó đây, thấy một ngọn cỏ kết thành hình chiếc "Như ý" chôn ngập một nửa xuống đất. Lão vội khoằm năm ngón tay lại cào bới đất lên, thấy có một chiếc ống sắt sắc đen dài bảy tấc. Lão cầm chặt hai đầu ống, vặn đi một cái. Vòng ốc ở giữa đoạn xoay đi, chiếc ống rời ra thành hai đoạn, trong chứa ba viên thuốc với một mảnh giấy. Lão giấu thuốc vào trong bọc, đoạn mở giấy ra coi, thấy vỏn vẹn có mấy chữ rằng, "Nội phủ có người tới đây. Cho gặp mặt. Thấy giấy này thì lập tức đi về phía đông."

Nét mặt lão hơi biến đổi, bỏ mảnh giấy vào miệng nhai nuốt đi, vặn hai đoạn ống sắt vào nhau chôn trả xuống đất. Lão ngẩng mặt nhìn trăng, nhận đúng phương hướng xong lập tức đi về hướng đông.

Nhưng vừa quay mình đi thì nhận ra có một vũng máu dưới đất. Lão cau mày, nghĩ thầm, "Chắc là Bách Đại bị giết và chôn ngay tại đây rồi!"

Tuy nghĩ vậy nhưng vẫn cứ phải vội vã ra đi, ước chừng thời gian đun sôi ấm nước, thấy sau lùm cây xa xa thoáng có bóng người, và có tiếng còi phát ra như tiếng chim kêu. Bách Duy nhô hai vai lên, quăng người đi gấp. Chỉ vài ba bước nhảy là đã tới nơi. Một người áo chẽn sắc đen ra liền. Bách Duy quát hỏi, "Bằng hữu thuộc bộ vị nào?"

Người áo đen trả lời, "Khuyết Thiên Cang, Lập Địa Sát!"

Bách Duy ôm tay quyền thi lễ, đưa mắt tứ phía thấy không có ai cả, bèn sẽ hỏi, "Người của nội phủ tới đây là ai vậy? Hiện ở đâu?"

"Xin theo tôi đi!" Vừa nói, người áo đen vừa quay gót chạy liền.

Bách Duy phóng bước theo sau. Một lát tới một nơi đền thờ Thổ Địa. Còn cách ngoài một trượng thì ngừng bước đi từ từ. Người áo đen cất tiếng nói, "Thuộc hạ đã dẫn Ân tiền bối tới! Chờ đợi ra mắt!"

Có tiếng đàn bà từ trong, nhỏ nhẹ nói ra, "Xin mời vào!"

Người áo đen quay lại, chắp tay hướng vào Bách Duy, cung kính nói, "Xin mời!" Vừa nói, vừa né ra một bên.

Bách Duy tiến lên, tới khuôn cửa ngừng lại, khom mình nói, "Vị phu nhân nào ở đây? Chẳng hay cho đòi tới có việc gì?"

Tiếng cười từ trong đưa ra, và trả lời, "Phu nhân không có đây! Tôi vâng lệnh tới đón tiếp Đại giá!" Dứt lời, một thân hình nhỏ nhắn, yểu điệu từ trong vọt ra.

Bách Duy nhận ra là một thiếu nữ, mày liễu lưng ong. Một nụ cười của nàng tươi hơn phù dung nở, đôi mắt liếc đưa như thu hút hồn phách người ta được. Nàng bỗng đưa tay bưng miệng cười "phì" một cái mà rằng, "Nhìn! Nhìn gì mà kỹ vậy. Dễ chừng mặt người ta rỗ hoa chăng?"

Bách Duy định thần lại, chắp tay lên ngực, "A di đà Phật! Tuổi tác lão nạp ít nhất cũng ngang với ông tổ nội cô nương! Xin chớ có đùa cợt lão nạp!"

Lão vẫn giữ vẻ cười trên mặt, nhưng giọng nói thì uy nghiêm khiến ai nghe cũng phải sợ. Nhưng thiếu nữ hình như chẳng chú ý đến lão nói gì hết! Nàng cười ngất, nói tiếp, "Phu nhân cho biết rằng trước khi vào tu hành ở Thiếu Lâm thì đại sư vốn là tay chơi bời, phong lưu bậc nhất mà!"

Bách Duy càng nghiêm giọng, nói, "Vài chục năm sinh nhai nơi cửa Phật, nên tính tình lão nạp biến đổi hẳn, không như xưa nữa!"

Thiếu nữ nói, "Nói vậy tức là Đại sư đã hoàn toàn quy y Phật?"

Nghe Bách Duy "hừ" một tiếng trong họng rồi lặng thinh, thiếu nữ cười và hỏi, "Đại sư là đệ tử nhà Phật, sao không ở chùa tụng kinh mà lại tới đây làm việc cho Nam Cung thế gia..."

Bách Duy đỏ mặt cười gượng, "Từ trước, lão nạp thâu nhập vào hàng ngũ Thiếu Lâm chỉ là để làm việc do thám cho Nam Cung thế gia. Nay thời cơ đã tới, phải trở về làm việc, còn nói gì đến tụng kinh niệm Phật nữa."

Nàng cười ngặt nghẽo nói lấp đi, "Hèn chi mà phu nhân nhà ta cứ hết lời khen lão là trung thành, là tay đắc lực bậc nhất. Hy sinh đi làm hoà thượng luôn mấy chục năm trời. A! Kể cũng là một sự kiện tuyệt vời... nhưng chẳng lẽ... hí... hí..." Nàng cười rũ rượi, "... quên hẳn được cái món gái đẹp hay sao?" Dứt lời, thiếu nữ vừa cười, vừa lăn xả vào lòng Bách Duy.

Một lúc sau, Bách Duy mới chợt nhớ đến sứ mệnh của mình là phải hội kiến Nam Cung phu nhân. Lão vội đẩy thiếu nữ ra và hỏi, "Ta phải yết kiến phu nhân! Mau dẫn ta đi!"

Thiếu nữ càng cười rũ rượi, nói, "Ta là Liên Nhi, nhớ kỹ lấy!"

Nàng giơ tay ấn mạnh vào mũi lão một cái, liếc mắt đưa tình và tiếp, "Từ nay cứ tên ta mà gọi, nghe chưa! Nếu không vừa lòng Liên Nhi thì phải biết... Hí hí! Liên Nhi chỉ sẽ nói với phu nhân rằng người đã bị Thiếu Lâm đầu độc, say mê làm hoà thượng không muốn trở về với Nam Cung thế gia nữa! Lúc đó thì phải biết! Giờ theo ta đi!"

Dứt lời nàng vọt mình chạy, Bách Duy theo sát phía sau, mũi lão hếch lên đón lấy hương trầm xạ từ phía trước đưa lại. Tứ bề đều hoang lương, không một bóng người. Chạy một quãng khá xa tới một khu tha ma mộ địa. Nơi đây nhà mồ đổ nát, chỗ thì quan tài lộ thiên đã mục nát, trơ rõ cả xương khô. Liên Nhi quanh lối này rẽ nẻo kia, len lỏi qua những hàng quan tài, nhà mồ, cả những lùm cỏ dại cao ngập đầu. Miệng nàng lúc nào cũng tủm tỉm cười.

Đột nhiên nàng quay bước chuyển ra phía bên, quanh co khuất khúc nhiều lần, tiến đến một khoảng đất cỏ được dọn dẹp quang đãng sẵn. Giữa đặt một chiếc bàn vuông, trên bàn la liệt rượu thịt, món ăn còn nóng. Liên Nhi quay lại, nói, "Phu nhân thấy rằng người từ xa vất vả tới đây, nên sai sửa soạn các món để thết đãi người!"

Nàng kéo tay Bách Duy bắt cùng ngồi xuống, đoạn nàng nâng bình bạc lên, rót đầy bốn ly rượu. Nàng nâng một ly lên mời, "Chén rượu này là để chúc thọ Thái phu nhân. Uống đi!"

Bách Duy đón lấy, uống một hơi cạn. Liên Nhi mời chén thứ nhì, mà rằng, "Chén này để chúc cho bốn vị phu nhân khoẻ mạnh."

Bách Duy cám ơn nàng, vừa uống xong thì chén thứ ba đã tống đến mà rằng, "Chén thứ ba là để chúc cho bản môn mọi việc thành công, uy bá thiên hạ. Uống ngay đi!"

Rượu rất mạnh, Bách Duy uống cạn ba chén rồi, cảm thấy chếnh choáng. Thấy nàng liền tay nâng chén thứ tư lên, Bách Duy lắc đầu từ chối. Nhưng Liên Nhi đã ôm chặt lấy lão, dí chén vào tận miệng, cười khúc khích mà rằng, "Chén thứ tư này là... là để..." Nói đến đây, nàng đỏ mặt lên, để môi vào tận tai lão, thì thầm, "... Để làm gì biết không? A! Chưa nói lý do vội! Uống cạn xong mới nói cho biết!"

Lão ngửa cổ lên, "ực... ực ực" liền một hơi, và chẳng rõ lúc đó là say quá hay bị ngộ gió, lão ôm chầm lấy Liên Nhi, rồi cả hai cùng ngã lăn ra, lăn lóc rũ rượi trên bãi cỏ nhung!

Giữa lúc trời đất điên đảo, say cuồng ấy, thì từ trong phía sau những lùm cây rậm rạp thấp thoáng có bóng người. Bốn đại hán áo đen chẽn khiêng một chiếc kiệu có rèm buông kín, chạy đi như bay. Một thiếu nữ áo xanh chạy ở phía trước kiệu, bóng dáng nhẹ nhàng, nhan sắc cũng chẳng kém gì Liên Nhi, chạy sộc tới chỗ bãi cỏ, đưa mắt nhìn quanh rồi nói, "Ngũ phu nhân đã tới!"

Liên Nhi giật mình, vội đẩy Bách Duy bắn ra xa. Lão bị lăn đi như trái cầu, lăn tới bên một gian nhà mồ. Đột nhiên có một người to lớn, áo chẽn đen tay nâng một thùng nước lạnh dốc ngược lên đổ chụp cả vào đầu lão! Bách Duy rùng mình, vụt tỉnh lại, vội đứng lên xốc lại sống áo, mặt mày kinh hãi, hổ thẹn! Chân không có dép, đứng trơ ra đó, trong khi Liên Nhi cũng cúi đầu, run bắn người lên.

Thiếu nữ áo xanh không thèm ngó Bách Duy. Nàng quắc mắt, nhìn Liên Nhi, đoạn cất giọng lạnh lùng mà rằng, "Liên Nhi! Mày to gan thật! Biết trước phu nhân sắp tới mà dám... như vậy! Nếu phu nhân không tới thì mày... động trời đến thế nào!"

Liên Nhi cúi gầm mặt nói, "Cúc thư! Xin chớ... Chẳng qua là tại..." Vừa nói vừa đưa mắt nhìn Bách Duy, "... Là tại lão cưỡng... hiếp..."

Bách Duy rùng mình toát mồ hôi ra, cứng cả họng lại! Thiếu nữ áo xanh đưa mắt nhìn lão, "hừ" sẽ một tiếng lập tức quay mình chạy thẳng tới trước kiệu, chắp tay sẽ nói, "Kính bẩm phu nhân! Bách Duy đại sư đã tới!"

Bách Duy tái xanh mặt lại, vì lão không nghe rõ thiếu nữ áo xanh nói những gì. Chợt từ trong kiệu có tiếng nói, "Ai là đại sư? Phải chăng đó là "Phấn Diện Hồ" Ân Trí, do bản phái sai đi lộn sòng vào hàng ngũ Thiếu Lâm từ ba mươi năm nay?"

Thiếu nữ áo xanh nói, "Dạ! Đúng thế!"

Tiếng từ trong kiệu gọi ra, "Ân Trí à! Ba chục năm rồi, lần đầu tiên ngươi được gọi về. Vậy mà đã dâm ô làm nhục nữ tỳ của bản môn rồi. Ngươi không sợ... bị tội... sao?"

Bách Duy như bị kim đâm thấu ruột, mặt tái đi. Chợt từ trong kiệu, tiếng lanh lảnh lại cất lên gọi, "Liên Nhi! Lại đây!"

Liên Nhi run bắn người lên, quỳ xuống, đi bằng đầu gối tới trước kiệu, "dạ" một tiếng rồi rạp mình xuống. Tiếng lạnh lùng ghê rợn từ trong kiệu đưa ra, "Ta sai mày đi đón tiếp hắn! Có sai mày đem cả xác thịt bố thí cho hắn đâu! Mày làm tổn hại danh dự, tiết tháo của "Nam Cung Nội phủ"! Tội mày quá lớn!"

* * *

Liên Nhi phủ phục trước kiệu, cất tiếng run run, nói, "Tội tỳ nữ đáng chết..."

Bỗng cất tiếng khóc rống lên, nàng ôm lấy chân kiệu, nức nở nói tiếp, "Nhưng vì... vì sức lão quá mạnh, võ nghệ cao cường, tỳ nữ liều mạng phản kháng lại... không được...! Hu... hu!"

Càng khóc to hơn, "Hu hu hu! Xin phu nhân xét cho... Hu... hu!"

Bách Duy ức quá, không nén nhịn được, bật lên nói, "A! Con khốn kiếp, hèn mạt! Vu khống... Vừa rồi mi..."

Tiếng đàn bà lạnh lùng từ trong kiệu nói ra, "Hừ! Phải chăng Liên Nhi thấy ngươi trẻ trung... hừ... lại đẹp trai... hừ... nên đã cưỡng hiếp ngươi... Ha ha! Lạ thiệt!"

Như bị người dùng chưởng đập trúng quai hàm, Bách Duy vẹo cả họng đi, mặt tím lại, ấp úng không nói được.

Người trong kiệu cười nhạt, ra lệnh, "Liên Nhi! Mày biết nhận tội...! Hãy tạm lui ra xa... thực xa... đợi ta truyền bảo!"

Đợi Liên Nhi đi khỏi rồi, trong kiệu lại có tiếng gọi, "Ân đại hiệp!"

Bách Duy giật nảy mình, kính cẩn thưa, "Phu nhân gọi như vậy, kẻ thuộc hạ không xứng!"

Lão chưa hết câu thì người trong kiệu đã thở dài, nói tiếp, "Chao ôi! Trước đây ba chục năm, lúc ấy lão bị kẻ thù đánh trọng thương, mười phần chết cả mười, may được Tổ bà của ta cứu thoát. Lão nghĩ đến việc báo ơn, bèn tình nguyện lộn sòng vào Thiếu Lâm tự để hoạt động cung cấp biết bao tài liệu mật cho Nam Cung thế gia. Với công lao lớn như thế, ta đâu dám coi Ân đại hiệp là hàng thuộc hạ. Trái lại, Nam Cung thế gia cũng hết sức kín đáo, cho nên Ân đại hiệp mới được phái Thiếu Lâm tin cậy, mà làm đến chức Hộ Pháp của La Hán Đường. Đó là một nước cờ cao của bọn ta từ ba chục năm trước, hy vọng bọn ta có thể bá chủ võ lâm được."

Ngừng một giây, người trong kiệu lại thủng thẳng nói tiếp, "Nghĩ mà tức cười! Vài chục năm trước, trên giang hồ ai cũng chỉ biết rằng "Phấn Diện Hồ" là tay ăn chơi phong lưu, nhưng có phong độ quân tử. Có ai ngờ rằng ngoài mặt quân tử mà lại làm những việc quá tiểu nhân như dụ dỗ gian dâm Như phu nhân là vợ của ân sư hắn, sau đó bức gian cả sư muội đến thành có chửa. Đến khi sư phụ biết, hắn..." vừa nói vừa chỉ vào Bách Duy, "lại hạ thuốc độc giết cả nhà sư phụ gồm mười ba mạng người..."

Bách Duy tê tái cả người đi, nói, "Việc trước đã qua, phu nhân nhắc lại làm gì!"

Người trong kiệu, bất chấp hắn có nghe hay không, cứ lạnh lùng kể tiếp, "Hạ thuốc độc rồi, còn sợ hồn họ về nhát, Phấn Diện Hồ bèn lấy dao phanh vằm thây họ ra, chẳng may bị bọn Giang Nam Tứ Kiệt là bạn của ân sư trông thấy, lập tứ vây lại đánh chém. Bị tới bảy vết thương nặng, mà ngươi còn trốn thoát được, nhưng bọn Tứ Kiệt theo riết đời nào tha cho ngươi! Giữa lúc tính mạng ngươi mười phần chết cả mười, thì ngươi được bà Tổ nhà ta, chẳng những cứu ngươi mà còn giết cả bọn Tứ Kiệt đi cho khỏi lộ chuyện. Không ngờ chữa chạy cho ngươi khỏi rồi, ngươi định chuồn thẳng. Nhưng bà tổ nhà ta đã sớm dè chừng, giữ được đủ chứng cớ là ngươi giết thầy học, gian dâm sư muội, nên bất đắc dĩ ngươi đành theo phục vụ cho Nam Cung thế gia nhà ta! Điều đó có đúng không?"

Nàng thở dài một tiếng, lại tiếp, "Nghĩ đến công lao khó nhọc của ngươi trong ba chục năm qua, nên Nam Cung thế gia ta vẫn đặc biệt ưu đãi, tôn trọng ngươi. Không ngờ... Chà... thực không ngờ bữa nay lần đầu được triệu về... mà ngươi lại giở trò đồi bại ra như thế!"

Qua tấm rèm che, tất cả cử động cho đến sắc mặt Bách Duy thế nào, người ngồi trong kiệu đều rõ hết. Thấy lão tái nhợt người đi, chân tay mềm rũ, ngã quỵ xuống đất, người trong kiệu tiếp tục với giọng nói ôn hoà hơn, "Tuy vậy mà ngươi vẫn là kẻ có công lơn với Nam Cung thế gia. Riêng một tay ngươi đã hoàn toàn huỷ diệt được chủ lực Tung Sơn Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ. Sáu tay cao thủ như bọn Bách Nhẫn, Bách Đại, Bách Hộ v.v... đều bị ngươi hoặc dùng thuốc mê, hoặc giết đi, hoặc bị trọng thương. Ngươi đã giúp Nam Cung thế gia như thế, kể về tài trí thì ít ai theo kịp, chẳng những ta khâm phục mà bà Tổ ta cũng phải nhận ngươi là tay đắc lực bậc nhất!"

Bách Duy có vẻ cảm động, ấp úng nói, "Phu nhân biết cho như vậy, lão nạp được đội ơn! Công lao không dám nhận! Có điều rằng vừa rồi..."

Tiếng người trong kiệu ngắt ngang đi, "Vừa rồi... ngươi có điều lầm lỗi... Nhưng thôi... ta không kể, miễn là từ nay nhất tâm với Nam Cung thế gia, ăn ở đứng đắn lại chớ tái phạm nữa thì ta thề sẽ giữ kín không cho ai biết."

Bách Duy không cầu gì hơn nữa! Lão vừa cảm kích vừa mừng rỡ, vội sụp xuống rập đầu tạ ơn. Điều hắn lo nhất là danh với lợi. Hắn chỉ cầu sao sau này sẽ đứng làm Chưởng môn Phương trượng Thiếu Lâm tự, hoặc được chức vụ gì to hơn nữa, vì thế mới đem hết tâm lực làm tay sai cho Nam Cung thế gia. Nếu như hành vi từ trước hoặc câu chuyện vừa rồi bị truyền lan đi thì hắn hết chỗ sống!

Tiếng người trong kiệu càng xuống giọng êm dịu, "Ngươi biết hối cải thì còn gì hơn nữa. Lần khác có việc cần ta sẽ cho Cúc Nhi cùng Liên Nhi tìm kiếm."

Ngừng một giây lát, lại nói tiếp, "Nếu quả tình ngươi có tình ý với hai đứa ấy, sau này thành công rồi, ta sẽ cho chúng theo ngươi. Chúng là những tay cầm kỳ thi họa, không phải tầm thường đâu!"

"Không dám! Đâu... dám... dám nghĩ đến thế!" Miệng tuy nói không dám nhưng mắt lão liếc ngang nhìn trộm, trong khi Liên Nhi làm điệu bộ nhún vai, nguẩy cả người đi, còn Cúc Nhi là thiếu nữ áo xanh, tuy vẻ mặt lạnh như tiền nhưng cũng liếc ngang mắt một cái khiến lão muốn xiêu vẹo cả người đi!

Người trong kiệu lại nói ra, "Ân đại hiệp à! Trong bụng người nghĩ những gì, ta đều rõ cả. Khỏi phải khiêm tốn khách sáo nữa... Xin mời đứng lên ta có việc uỷ thác đây!"

Ân Trí (tức Bách Duy) thở phào một cái nhẹ cả người đi. Lão vội tạ ơn, đứng lên, xỏ chân vào dép, xốc lại sống áo cho ngay ngắn. Đúng như lời người ngồi trong kiệu vừa nói, tâm lý lão lúc đó chỉ mong được uỷ thác cho những việc tối quan trọng để nỗ lực làm cho Nam Cung thế gia chóng thành sự nghiệp bá chủ. Lão hy vọng sẽ được quyền cao chức trọng, sẽ được cả... Liên Nhi và Cúc Nhi... Nhiệt tâm lúc đó bốc lên nóng cả mặt, lão đứng ngay ngắn, chắp tay nói, "Phu nhân! Có việc gì sai bảo chăng?"

Tiếng người trong kiệu nói ra, "Có chứ! Không dưng cho thỉnh nhà ngươi tới đây làm gì."

Tiếng cười se sẽ trong kiệu, rồi một bàn tay nhỏ nhắn, trắng nõn nà, tuyệt đẹp, từ trong kiệu sẽ lách rèm đưa ra, "Đây là ba chiếc túi gấm, mỗi túi đều có ghi ngày giờ, kỳ hạn để mở ra coi. Trong túi có kế hoạch, cứ đúng hạn mà làm!"

Bàn tay búp măng, nhỏ nhắn, trắng muốt như ngọc, đẹp tuyệt trần, người trong kiệu chính là Điền Tú Linh đệ Ngũ phu nhân. Thấy Ân Trí có vẻ sợ hãi cung kính, không dám nhìn lên, cũng không dám đưa tay ra đón lấy cẩm nang, Điền Tú Linh phì cười, gọi Cúc Nhi, "Cúc Nhi à! Trao cái này và dẫn lối cho Ân tiên sinh ra khỏi đây!"

Cúc Nhi "dạ" rồi đón lấy tấm cẩm nang trao cho Ân Trí. Lão kính cẩn vái một cái, đón lấy cẩm nang, đoạn theo chân Cúc Nhi đi trở ra.

Cúc Nhi đi trước, dẫn lão theo một lối khác với lối đi trước. Được một quãng, Cúc Nhi chợt quay mặt lại nhìn lão, nở một nụ cười sẽ nói, "Đi lẹ bước lên một chút, gần lại đây nào."

Thấy lão tiến đến bên cạnh mình, Cúc Nhi sẽ hỏi, "Tôi hỏi câu này, phải nói cho thật nhé! Đối với Ngũ phu nhân, lão thấy có những ấn tượng và cảm thấy ra sao?"

Ân Trí gãi đầu sồn sột, nói, "Lúc ban đầu, ta chỉ cảm thấy Ngũ phu nhân là một tay siêu quần tuyệt tục, nhưng sau ta có một ấn tượng khác nữa. Phu nhân là một vị tiên từ trên trời xuống."

Giơ tay cốc vào cái đầu trọc tếu của lão một cái nên thân, Cúc Nhi phì cười, mắng rằng, "Ăn chay nói dối! Chưa thấy mặt mũi Ngũ phu nhân bao giờ mà dám tán dương là đẹp như thiên tiên! Nịnh hót xằng ở đâu!"

Ân Trí thộn mặt ra, lẩm nhẩm mấy tiếng, "Cái ấy... Điều ấy..."

Rồi ngây thộn ra không nói thêm được nửa lời. Quả tình là lão chưa hề biết mặt, nhưng lão cứ cảm thấy người trong kiệu là tuyệt đại giai nhân. Giả thử Cúc Nhi có bảo là Ngũ phu nhân xấu như ma mút thì lão cũng chẳng tin. Thấy lão thộn mặt ra, Cúc Nhi lại gõ vào đầu lão đánh cốc một cái mà rằng, "Tới đây đã biết lối ra chưa?"

Thấy lão gật, Cúc Nhi nói tiếp, "Vậy thì cút đi! Ta phải về kẻo phu nhân đợi."

Cúc Nhi giúi cho một cái, lão xiêu vẹo cả người đi. Bụng lão nghĩ lấy làm lạ rằng một nữ tỳ của phu nhân mà nội lực mạnh đến thế, đủ biết chủ nhân không phải là tay vừa. Lão nhìn theo ra ý thèm thuồng. Nếu chẳng phải là nữ tỳ của Nam Cung thế gia thì có lẽ lão đã bắt lại ăn sống nuốt tươi đi rồi.

Cúc Nhi đi được vài bước, bỗng quay lại gọi, "Này! Này! Chớ quên nhé!"

Lão ngẩn mặt ra hỏi, "Quên cái gì?"

Cúc Nhi vừa liếc vừa lườm mà rằng, "Quên cái con khỉ! Quên cái đầu trọc tếu! Rõ ngớ ngẩn tệ!"

Lão hiểu ý cười híp mắt lại nhìn theo Cúc Nhi vọt mình một cái, như con thỏ lẩn mình khuất trong bụi rậm biến mất.

Cúc Nhi loáng cái đã trở về tới chỗ cũ. Chợt thấy Liên Nhi cũng vừa chạy tới. Cả hai cùng phá lên cười.

Cúc Nhi đưa tay lên quệt vào má Liên Nhi mà rằng, "Con đĩ non này! Suốt ngày chỉ tựa lan cau mơ nghĩ đàn ông. Bây giờ thì mi mãn nguyện rồi nhé!"

Liên Nhi cười, đập Cúc Nhi một cái mà rằng, "Phì! Còn mi thì không hả! Uý chà mãn nguyện! Thằng trọc ấy xương rắn như sắt, mà người nó thì... thì... phì! Hôi như chuột chù ấy... Tỷ thích thì nhường cho tỷ... ăn cả đi1"

Trong kiệu có tiếng gọi ra, "Thôi chớ có om xòm loạn lên! Liên Nhi, mi thì ông trời mới cho mi mãn nguyện được! Phải không?"

Liên Nhi chân thật trả lời, "Quả tình tiểu tỳ ghét lão trọc ấy! Tiểu tỳ nhờ phu nhân thương, chỉ mong sau này lấy được người chồng tương tự như... Nhâm Vô Tâm, võ nghệ cao cường, vẻ người anh..."

Liên Nhi chưa kịp nói hết câu, thì trong kiệu có tiếng quát, "Câm miệng! Quỳ xuống! Cúc Nhi đâu, cho nó mười chưởng nghe!"

Liên Nhi sợ toát mồ hôi, vừa quỳ vừa kêu, "Phu nhân! Phu nhân! Tiểu tỳ có nói gì...!"

Liên Nhi vừa nói tới đây thì "bốp bốp, uỵch uỵch" mặt mày mình mẩy đã bị Cúc Nhi thẳng tay giáng xuống một hồi, bất kể Liên Nhi van kêu khóc ầm lên. Đếm đủ đòn rồi, trong kiệu mới có tiếng lạnh lùng nói ra, "Môn hạ của Nam Cung thế gia đều phải có thái độ triệt để vâng lệnh như Cúc Nhi mới được. Kẻ nào cậy công tự tôn tự đại đều không thể tha thứ được. Cứ coi họ Ân vừa rồi, phải tuân theo mệnh lệnh không được cãi nửa lời. Bữa nay lần đầu phạt mày rất nhẹ thôi. Mày có ý cậy công, cầu thưởng, và nói năng nhiều lời có tư tưởng chống đối lệnh đã ban. Khôn hồn thì từ nay chớ dại dột như thế nữa mà mất xác, nghe không?"

Liên Nhi lạy phục dưới đất, tạ ơn và thề xin hối cải.

Trong kiệu có tiếng thở dài và ra lệnh, "Thôi! Quay trở về!"

Bốn đại hán khiêng kiệu chạy như bay! Đoàn hộ vệ kẻ trước người sau, tản mát đi lẫn vào trong các lùm cây bụi cỏ...

Hồi thứ bốn mươi sáu

Từ ghen hóa ghét thi độc kế, do oán thành thù quét võ lâm

Lại nói chuyện Bách Duy (tức Ân Trí) như kẻ bị thu hút mất hồn vía, một mạch chạy bon đi, hồi lâu mới tỉnh ra, lúc đó đã trở về tới đầu tiểu trấn Điền gia trang. Chợt nhớ đến cẩm nang, vội ngừng bước lấy ra coi. Bao ngoài có mấy hàng chữ đề rằng, "Dời khỏi đây một quãng ước bảy tám dặm, sau một hồi chạy như cuồng điên thì đầu óc tự nhiên tỉnh táo trở lại và nhớ đến cẩm nang, lấy ra coi. Để ý xem, hễ tứ bề vắng người thì hãy mở phong bì ra đọc."

Mới coi hết mấy hàng chữ trên, Bách Duy đã tái mặt, tim đập mạnh. Lão đưa mắt nhìn xung quanh, tưởng chừng như Điền phu nhân vẫn theo sau dò xét cho nên mới thấy rõ được mọi hành vi cử chỉ của lão như thế. Tới đây lão càng tâm phục Điền phu nhân như thần thánh. Lão theo lời dặn trên, lẩn mình vào chỗ khuất vắng, xé phong bì cẩm nang ra đọc.

"Nhâm Vô Tâm vốn là kẻ mưu trí đa nghi. Nhất là vì ngươi, sau khi gặp ta lâu, ước hai giờ đồng hồ mới trở về, tất nhiên là hắn căn dặn hỏi tra kỹ càng. Hắn là tay thông minh quá mức, cho nên hễ ngươi bịa đặt những gì hợp tình hợp lý thì hắn càng ngờ vực không tin đâu. Vậy ngươi phải bịa đặt ra những sự tình hoang đản kỳ dị, khiến hắn phải vắt óc suy nghĩ không tìm ra nguyên nhân thì hắn mới tin cho. Sở dĩ ta bày trò như việc Bách Đại mất tích, Huyền Chân phát điên với những việc ngươi đã làm, cốt khiến cho hắn rối loạn tâm trí, thiếu sáng suốt, có khi hắn đến phát cuồng cũng nên.

Kỳ thực Huyền Chân chỉ là một tay nội công cao cường của Nam Cung thế gia ta hoá trang ra, và đã được Nhị phu nhân điểm huyệt làm cho khí mạch thác loạn đi. Vô Tâm sẽ chú ý đến việc điên cuồng, khí mạch thác loạn mà không ngờ đó là kẻ giả mạo Huyền Chân. Ngươi sẽ ngấm ngầm liên lạc, bàn mưu kế với tay giả mạo Huyền Chân đó.

Vô Tâm sẽ lo lắng di cư số người còn lại của Điền gia thôn. Hắn sẽ lúng túng không biết đưa họ đi đâu lánh nạn để sinh sống. Lúc đó ngươi sẽ tình nguyện viết thơ giới thiệu họ tới ở một nơi viện lạc của Thiếu Lâm tại Tung Sơn. Dọc đường ta sẽ có người đón giữ họ và liệu cách thu thập họ.

Đặc biệt chú ý, nếu như ngươi trở về mà Vô Tâm không căn dặn tra hỏi gì hết thì lập tức phải tìm cách đem Huyền Chân giả cùng bọn Bách Hộ bốn người lén đi trốn ngay. Vì như vậy là bọn ngươi đã bị hắn nghi ngờ rồi đó."

Cẩm nang thứ nhất tới đây là hết. Bách Duy đọc xong sợ xanh cả mặt lại, trong bụng càng phục là Điền phu nhân quả nhiên tài trí sáng suốt hơn đời. Hắn cầm chiếc cẩm nang thứ nhì, đọc hàng chữ dặn ở phía ngoài rằng, "Khi nào thấy một chiếc đèn lồng bằng giấy ngũ sắc thì mới được mở cẩm nang này ra coi. Nhưng nếu ở phía dưới chiếc đèn lồng không thấy có cái xác chết thì tức khắc đánh lửa đốt huỷ cẩm nang đi mà không được mở ra đọc."

Đọc hết lời dặn trên, Bách Duy lè lưỡi ra lúc lâu mới thụt vào được! Hắn vội cầm chiếc cẩm nang thứ ba lên coi, ngoài túi có đề rằng, "Khi nào Nhâm Vô Tâm thấy rằng hai mái tóc của hắn đã lốm đốm bạc thì hãy mở cẩm nang này ra đọc! Lúc đó tất nhiên là đương ở bên một khe nước. Nếu bên khe có người đương câu cá, thì ngươi nên liên lạc ngầm với người ấy. Trước hết ngươi tới hỏi người ấy một câu gì đó. Nhưng vô luận ngươi hỏi câu gì, người ấy chỉ trả lời bằng mấy tiếng vớ vẩn rằng, CẨM NANG DIỆU KẾ, LÊN TRỜI RỚT XUỐNG ĐẤT."

Đọc xong hết lời dặn, Bách Duy nghĩ lại rằng có lẽ phu nhân đã đặt người ngồi câu cá ở khắp các khe ngòi để liên lạc với mình chăng? Nghĩ tới đây, hắn cầm chiếc cẩm nang thứ nhất vò nhàu đi, bỏ vào miệng nhai xé nhỏ ra, đoạn đem chôn xuống đất, sau đó mới vội vã chạy về trong xóm.

Nhâm Vô Tâm quả nhiên đang chờ đợi lão, mặt đầy lo lắng.

Bách Duy vừa bước chân vào trong nhà, Vô Tâm mừng rỡ chạy lại ôm chầm lấy lão. Lúc đó mới nhận ra áo xống của lão còn ướt cả bùn đất đầy người. Chàng giật mình hỏi, "Sao... sao đại sư lại ướt át và bùn đất như thế này?"

Thấy thần sắc lão kinh hoàng, chàng vội kéo lão ngồi xuống, rót trà mời uống. Một lúc sau nghe chừng lão đã bớt thở và trấn tĩnh trở lại, chàng mới hỏi han sự tình xảy ra, có phải gặp "Lan Cô với bàn tay trắng nuột" chăng?

Biết rằng chàng rất sợ "Tố Thủ Lan Cô" Bách Duy cố vờ ra vẻ kinh dị, cất giọng run run, thuật lại rằng, "Bần tăng khỏi đây, lập tức vừa đi vừa để ý dò xét, thấy tứ bề yên lặng mới yên trí tiếp tục công việc. Không ngờ tới một quãng cỏ dại um tùm, đột nhiên có một thiếu nữ tuyệt sắc vọt ra, giơ tay vừa cười vừa vẫy... Úi chao! Nàng có vẻ là thiên tiên, chớ người trần thì sao mà đẹp được đến thế."

Nói tới đây, liếc mắt thấy người lối xóm bu lại ở trước cửa để nghe ngóng tin tức, lão mừng thầm, vờ như không thấy họ, cứ tiếp tục nói, "Bần tăng thấy lạ bèn hỏi nàng có việc gì? Nàng cười mà rằng "Có mấy đồ vật này ta muốn cho nhà chùa coi!" Bần tăng vội đề chân khí, quần tụ ở hai tay, chuẩn bị sẵn nếu hơi có gì khác là lập tức phát chưởng đập chết con yêu quái ấy đi liền. Ngay lúc đó, nàng đưa tay ra. Thoáng thấy vật ở tay nàng cầm, bần tăng như bị trúng phong, hai tay mềm ra, chân khí tiêu tan, cơ hồ muốn té xiêu người đi..."

Vô Tâm vội hỏi, "Vật gì mà ghê gớm đến thế?"

Bách Duy mấp máy môi, mãi mới nói ra lời, "Đó là... một chuỗi tràng hạt và... và độ điệp thông hành của..."

Nhâm Vô Tâm tái người la lên, "Của Bách Đại đại sư? Như vậy là Bách Đại đại sư... đã bị họ hại... hại rồi!"

Bách Duy thở dài nói, "Bần tăng quát lên một tiếng, vừa toan hỏi tại sao nàng có được các vật ấy thì thiếu nữ đã cười mà rằng, 'Có người trao cho ta hai vật này, dặn rằng Nhà chùa cứ coi đây làm tin để rồi theo ta đi mà coi... Giờ nhà chùa khỏi phải hỏi ai trao cái này cho ta... Cứ theo ta, tới nơi sẽ rõ! Nếu không muốn tới coi thì thôi, ta đi đây!'" Ngừng một giây, lão nhìn Vô Tâm và hỏi, "Xử vào tình thế ấy, tướng công có đi theo không?"

Vô Tâm nói, "Đi chớ! Không theo sao tìm ra manh mối!"

Bách Duy gật đầu, nói tiếp, "Nàng đi trước, bần tăng theo sau... không một giây phút nào không thận trọng đề phòng. Chừng một lúc sau, nàng dẫn đến một nơi... tha ma mộ địa..."

Vô Tâm hỏi, "Khinh công của nàng hẳn là..."

Không đợi chàng hỏi hết lời, Bách Duy nói luôn, "Khá lắm! Với cỡ tuổi mười bảy, mười tám thôi mà khinh công chẳng kém gì bần tăng!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Với tài khinh công ấy mà chạy bay một loáng tới nơi, hẳn là nơi đó cách đây ngoài một dặm đường."

Chàng vừa nói vừa quay ra nhìn bọn người trong xóm đương tụ hội trước cửa và hỏi, "Xóm ta ở, cách đây một hai dặm có chỗ tha ma mộ địa nào chăng?"

Mọi người cho biết rằng bãi tha ma ấy là của xóm làng bên cạnh và rộng tới hàng dặm vuông.

Bách Duy kể tiếp, "Úi chao! Tới bãi tha ma rồi còn quanh co, len lỏi mãi mới đến một gian nhà mồ nọ, tường vách xiêu đổ, lộ ra một chiếc quan tài. Thiếu nữ cười khanh khách, chỉ tay vào chiếc quan tài mà rằng, 'Người mà nhà chùa muốn gặp hiện ở trong này.' Thấy bần tăng giật mình rú lên, thiếu nữ cười ngặt nghẽo nói tiếp, 'Nhà chùa không tin ư? Theo ta đây...' Vừa nói nàng vừa đưa tay lên ấn một cái vào một góc quan tài. Nắp quan tài tự nhiên chui tuột vào phía trong. Trong quan tài không có xác chết, té ra là cửa đi vào một con đường ngầm..."

Người lối xóm nghe tới đây đều sợ rú cả lên. Nhâm Vô Tâm nói, "Đó chỉ là một trong nhiều sào huyệt bí mật. Không nên vào đó."

Bách Duy trợn mắt, méo miệng nói tiếp, "Đúng vậy! Bần tăng còn lưỡng lự, cân nhắc thì từ trong có tiếng Bách Đại sư huynh kêu gọi bần tăng phải vào ngay... Nhận đúng là tiếng sư huynh gọi tên bần tăng rất gấp, bần tăng vội nhảy sấn vào. Có tiếng thiếu nữ ở phía sau cười nói, 'Thiếu Lâm đệ tử can đảm thiệt...' và đồng thời 'sập' một cái, nắp quan tài phía sau đậy kín lại liền... Đường ngầm dưới đất không dài mấy, có chút ánh sáng từ trong một cánh cửa bằng đồng trước mặt chiếu ra. Bần tăng chỉ còn một nước tiến lên, tới nơi chưa dám tự ý đẩy cửa thì cánh cửa đột nhiên mở rộng. Ánh sáng chói loà đến nỗi phải nhắm mắt lại. Sau một cái chớp mắt, bần tăng định thần nhìn lại, nhận ra đây là một gian nhà tuyệt hoa lệ. Giữa bày một tiệc rượu và người ngồi đầu bàn chính là... Bách Đại sư huynh..."

Nói tới đây, lão lè lưỡi ra một cái rồi tiếp, "Nhưng sư huynh lúc này mặc áo gấm thêu, và trên đùi sư huynh là một... tuyệt sắc thiếu nữ... Ngồi kế bên là Hoàng Phủ Thiếu Hồng với hai mỹ nhân áo đen sắc mặt trắng xanh. Một trong hai thiếu phụ mặt lạnh như băng, tuy dự tiệc mà không thấy ăn uống gì hết. Mãi sau bần tăng mới hay, nàng là Tố Thủ Lan Cô!"

Nhâm Vô Tâm rùng mình, vội hỏi, "Tố Thủ Lan Cô cũng có ở đấy? Còn thiếu phụ kia...?"

Bách Duy nói tiếp, "Còn người kia ước độ ba chục tuổi, trong vẻ đẹp thần thánh lại có cốt cách uy nghiêm. Thiếu Hồng với sư huynh đều hết sức cung kính, kêu nàng là phu nhân..."

Nhâm Vô Tâm nói, "A! Chắc đó là đệ Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh. Được ngồi cùng bàn với phu nhân tức là Bách Đại đại sư đã gia nhập vào hàng ngũ Nam Cung thế gia rồi! Chao ôi!"

Bách Duy trợn mắt lớn tiếng, "Và thế là một điều đại nhục cho Thiếu Lâm phái. Bần tăng không nén được giận, liền to tiếng mắng nhiếc. Bách Đại chẳng những không biết thẹn mà còn khuyên bần tăng nên theo về với họ, trong khi con yêu con ngồi trên đùi lão thì cố ý nhí nhảnh, làm nhiều cử chỉ bẩn mắt."

Nghe đến đây, Nhâm Vô Tâm hơi cau mày. Chàng nghĩ rằng, "Trần Phượng Trinh vốn là người nghiêm nghị. Nay dù tâm tình có biến đổi, nhưng lẽ nào có thể để cho ai làm trò bẩn thỉu ngay trước mắt, thì sau này còn ra hiệu lệnh cho ai được!"

Ý đó thoáng qua trong óc, nhưng chàng không lộ vẻ ngờ vực, cứ ngồi lặng nghe Bách Duy nói tiếp, "Thấy như vậy vẫn không làm được bần tăng động lòng, con yêu con càng giở trò khêu gợi dâm đãng hơn nữa... Chà... Xin miễn nói ra sợ làm bẩn tai tướng công! Bách Đại lúc ấy bèn một mặt dụ dỗ, một mặt tỏ ý hăm doạ bần tăng. Biết rằng lúc này chỉ một câu trả lời cả quyết "không theo họ" là nguy đến tính mạng, bần tăng đứng ỳ ra đó, ra bộ ngần ngừ lưỡng lự. Kỳ thực là nghĩ kế thoát thân. Tưởng rằng bần tăng đã động tâm chuyển ý, đệ Tứ phu nhân bỗng cất tiếng hỏi, 'Ta hỏi câu này, nếu thành thực trả lời đúng sự thực thì ta ghi cho là có công lớn với bọn ta. Một là Điền Tú Linh hiện giờ ở đâu? Hai là Bách Nhẫn đại sư hiện ra sao?'

Bần tăng đều trả lời là không biết chi hết. Thấy bần tăng trả lời thành thực, đệ Tứ phu nhân tỏ vẻ mừng rỡ, có lẽ cho rằng như thế là bần tăng quy thuận rồi. Trái lại bần tăng thì mừng thầm rằng nàng chưa dò ra được bí mật gì ở bần tăng, không khi nhờ đó mà bần tăng biết được hai việc rất can hệ là Điền phu nhân cùng Bách Nhẫn đại sư chưa bị họ bắt. Như vậy hai người chóng chày sẽ trở về với tướng công."

Nói tới đây, thấy Vô Tâm luôn miệng khen ngợi tài trí và sự tin tưởng ở hành động của lão. Bách Duy cười thầm, nghĩ bụng, "Đúng như cẩm nang đã dạy, câu chuyện láo khoét của mình thuật ra, một mặt che đậy được sự thực mình đã gia nhập hàng ngũ Nam Cung thế gia, một mặt làm cho chàng tin rằng Bách Đại đã theo hàng phe địch". Nghĩ thế rồi, Bách Duy đắc ý nói tiếp, "Đương lo nghĩ cách thoát thân, thì vụt cái thiếu nữ lúc nãy dẫn đường tới cửa hầm, chợt hiện ra, chạy tới bên đệ Tứ phu nhân ghé tai thì thầm. Nhờ công phu hàng chục năm toạ tĩnh nên dù con nha đầu thì thầm mà bần tăng cũng nghe rõ cả. Nó thuật lại tình trạng của tướng công, từng cử chỉ hành động một cách rõ ràng, hệt như lúc nào nó cũng có mặt ở bên mình tướng công vậy!"

Thấy Vô Tâm giật mình hỏi, "Thật vậy ư?"

Bách Duy vội chứng thực, nói tiếp, "Nó biết rò rằng tướng công đã đem Huyền Chân đạo trưởng về cứu chữa! Nghe nó nói vậy, đệ Tứ phu nhân cười nhạt mà rằng, 'Huyền Chân bị trúng chín mươi mốt thứ thuốc độc của ta rồi! Nhâm Vô Tâm dù có bản lĩnh tày trời cũng không cứu chữa lại được.'"

Thấy Vô Tâm giật mình biến sắc mặt, Bách Duy vội rỉ tai rằng, "Coi đó, đủ thấy là bên mình tướng công lúc nào cũng có tai mắt chân tay của Nam Cung thế gia."

Thấy chàng tái mặt đi, Bách Duy thừa dịp nói thêm vào, "Vô luận là gì, chúng ta phải dời khỏi đất này ngay tức khắc. Mà... ngoại trừ bọn Bách Hộ sư đệ ba người với bần tăng cùng Huyền Chân ra, thì những người khác không thể tin được. Vậy nếu hễ đem theo nhiều người đi là khó vượt qua được tai mắt nhà Nam Cung thế gia."

Nhâm Vô Tâm gật đầu tán thưởng, "Đại sư bàn phải lắm!"

Thấy Vô Tâm không chút nghi ngờ về câu chuyện bịa đặt của mình, Bách Duy mừng quá, mắt loang loáng đầy đắc ý. Vừa toan thôi thúc chàng lên đường ngay, chợt nghe dân cư lối xóm đứng ngoài cửa sổ, xôn xao lên, và có tiếng nhiều người hỏi, "Nhưng... bằng cách nào đại sư thoát thân về được? Chúng tôi nóng lòng được nghe thuật lại, dù chỉ vắn tắt thôi!"

"A! Xin lỗi... quên mất! Bần tăng xin... xin... kể lại!"

Chính Vô Tâm, vì lo lắng, nên cũng quên không hỏi lại câu chuyện thoát thân ra sao! Bách Duy lúc đó quả thực là quýnh lên, nghe mọi người thúc giục, lão chưa biết trả lời ra sao. Lão nhắc đi nhắc lại nhiều lần mấy tiếng "Xin... xin kể! Bần tăng quên mất, xin... xin lỗi..." Sở dĩ nhắc đi nhắc lại là để có thì giờ nghĩ, bịa đặt câu chuyên. Sự thực lúc đó mồ hôi trán đã toát ra, lão lo cuống lên. Chợt nhớ đến lời cẩm nang dặn rằng, "Chỉ những chuyện tuyệt vô lý, mới đủ khiến cho Vô Tâm nát óc suy nghĩ và phải tin là thực." Bách Duy liền ứng khẩu kể ra, "Chao ôi!"

Ngừng một giây, mới nói tiếp, "Quý vị thử nghĩ coi, trừ khi có trời giúp thì được... còn cách nào thoát ra khỏi nơi hang hùm ấy! Thoạt tiên bần tăng lập mẹo, định giả vờ như mình bị mồi phú quý, rượu ngon gái đẹp làm mê hoặc, xin theo về với họ đã, sau sẽ thừa dịp nào đó chuồn đi báo tin bí mật cho Nhâm tướng công rõ. Làm được như vậy, tức là mình đã hạ một đòn "chí tử" đập vào đầu não họ."

Nhâm Vô Tâm vỗ tay khen, "Kế ấy tuyệt diệu! Chỉ có đại sư là bậc chân tu mới làm nổi!"

Bách Duy vội ngắt lời Vô Tâm, "Nhưng nghĩ lại... Xin lỗi tướng công! Nghĩ lại, kế ấy không dùng được với nhà Nam Cung thế gia."

Vừa nói lão vừa giả vờ rùng mình lắc đầu, "Quý vị thử nghĩ xem, họ có thể tin là mình thực lòng theo về với họ chăng? Mà dù họ có..."

Nhâm Vô Tâm la to một tiếng, trố mắt ra nhìn rồi khen rằng, "Đại sư quả thật là tinh tế, thận trọng! Dù họ có tin là đại sư thật lòng theo họ thì trước khi tin dùng cũng bắt đại sư uống một số thuốc độc khiến đại sư biến đổi hẳn tính tình, đâm ra mê muội, buộc phải thần phục họ thực sự. Như vậy thành ra "chơi đùa mà hoá thật". Nguy hiểm, nguy hiểm!"

Bách Duy được thể, thuận miệng bịa ngay ra câu chuyện hoang đường kia, đúng như cẩm nang đã dạy, "Thế rồi... giữa lúc tiến thoái lưỡng nan, đột nhiên từ bên trong nhà hầm... úi chao ôi! Nước... nước tuôn ra như Hoàng Hà vỡ đê, mạnh đến nỗi ngay lập tức mấy con nữ tiểu yêu bị té sấp xuống, tiếng bàn ghế, chén bát, với tiếng người kêu la rùm lên. Trầm tĩnh đến như bọn Hoàng Phủ Thiếu Hồng mà cũng cuống lên, kêu trời như bọng. Thần tình hơn nữa là nước không ngớt xối xả tuôn ra như sấm mà bọn chúng đều không biết bơi lội..."

Ngừng một chút, đợi mọi người vỗ tay, giậm chân cười lên như phá rồi Bách Duy nói tiếp, "Quý vị tưởng tượng xem, cảnh hỗn loạn lúc đó! Nháy mắt, nước lên ngang bụng rồi ngang ngực. Thế là..."

"Thế là mạnh ai nấy chạy..."

Người nghe cùng reo lên và...

"Và bần tăng là kẻ thoát ra trước tiên, vì bần tăng là tay bơi lội số một trong Thiếu Lâm... Cũng chẳng hiểu là do lối cống rãnh nào mà ra thoát, chỉ biết là lúc đó mình hụp xuống, lao mình đi theo dòng nước cuốn, và phải nhịn thở một hơi dài! Ra khỏi nhà hầm, nhìn đi ngó lại xem có bóng người nào là ân nhân đã phóng nước vào cứu sống mình chăng, nhưng chẳng thấy ai cả..."

Nhâm Vô Tâm ra vẻ khoan khoái, nói, "A! Hèn chi mà về tới đây, quần áo đại sư còn ướt át... Nhưng chỗ đại sư ra thoát đó, có gì lạ? Và là chỗ nào?"

Bách Duy gãi gãi cái đầu trọc "sột sột" và nói, "Chỉ nhận ra có một vệt ngấn nước ngoằn ngoèo từ trong đám cỏ dại cao quá đầu người, chảy tới chỗ mình đứng, tức là một khoảng bao la toàn là nhà mồ đổ nát. Bần đạo theo vệt nước lần mò vào trong biển cỏ dại, tới một chỗ khá xa, cũng toàn là mồ mả cả, thì vụt cái như có một bóng ma thoáng hiện ra. Chỉ nghe "sột soạt" vài ba tiếng cỏ động là bóng ma ấy biến mất. Cả một khoảng mồ mả, cỏ dại mênh mông, làm gì có giếng, cũng chẳng có khe ngòi... Vậy thì nước ở đâu ra! Giá như có khe, có giếng nữa thì bằng cách nào dẫn nước tới đường hầm kia được? Và ai đã dẫn nước... mà lại lẩn tránh không ra mặt...?"

Nhâm Vô Tâm ngẩn mặt ra hỏi, "Thế thì kỳ thật! Nơi thoát ra đó, và cả nơi nhà hầm, đại sư còn nhớ chỗ chăng?"

Bách Duy lắc đầu thở dài, "Trước hết là khi theo con yêu con tiến vào nhà hầm, bần tăng vô tình không để ý nhớ lối. Rồi khi thoát ra khỏi, vì quá chú ý vào việc theo vệt nước tiến vào rừng cỏ dại thành thử cũng không để ý nhận lấy lối ra ấy ở đâu. Nhất là ở tình trạng mười phần chết cả mười, lại là nơi bao la hàng mấy vạn nhà mồ xiêu đổ, thì chỗ nào cũng giống chỗ nào cả. Còn đầu óc nào mà nhận ra lối... Làm gì có đường có lối... Chỉ là một khoảng mênh mông, um tùm và đổ nát..."

Nhâm Vô Tâm cau mày, hỏi, "Ngoại trừ gian nhà hầm bí mật, đại sư đã có tới đó, còn nhận ra có gian nào hoặc cửa lối nào khác chăng?"

Cứ mắt bần tăng được thấy thì không có gian hầm hoặc đường hầm nào khác.

Nhâm Vô Tâm lẩm nhẩm như suy nghĩ và nói một mình, "Nếu như có vậy thì hẳn là nước bên trong còn ứ lại..."

Bách Duy vội nói, "Biết đâu chẳng có cửa ngõ, đường lối ngầm kín khác mà bần tăng không nhận ra được. Những tay như Thiếu Hồng và nhất là Tố Thủ Lan Cô, tuy có kinh hoàng chốc lát, nhưng đời nào họ chịu khốn trong đó!"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, "Chắc là thế! Chẳng cần trở lại điều tra nữa! Huống chi, lỡ gặp Tố Thủ Lan Cô, thì chúng ta không... địch nổi!"

Bách Duy cười thầm, vì lẽ nhắc đến "Tố Thủ" là đủ khiến chàng thụt lại, không dám ho he nữa. Chợt Vô Tâm lại hỏi, "Đại sư hẳn đã biết rõ mặt mũi, thần sắc, nhất là đôi mắt Tố Thủ Lan Cô, có gì lạ đặc biệt chăng?"

Câu hỏi quả tình khiến Bách Duy toát mồ hôi lạnh cả gáy.

Lão chưa hề biết mặt mũi Lan Cô, thì trả lời sao được. Nhưng nếu chậm trả lời thì sợ Nhâm Vô Tâm sinh nghi, lão ấp úng nói liều, "Về thần sắc thì... thì khó tả ra được, nhất là trong nhà hầm lúc đó, dưới ánh đèn... Bần tăng chỉ... chỉ..."

Vừa ấp úng nói tới đây thì "Huyền Chân" đạo trưởng từ trước vẫn nằm bẹp dí ở phòng bên, bỗng cười rú lên, vùng đứng dậy, hai mắt đỏ ngầu, bàn tay khoằm khoằm, như con chó dại sộc tới, chực vồ người để ngoạm. Bách Duy vờ ra vẻ khủng khiếp, la thất thanh, "Hỏng to! Mau... mau... chết..."

Nhâm Vô Tâm nhoài mình vươn tay một cái như điện chớp, chụp đúng mạch máu cổ tay "Huyền Chân", và gọi váng lên, "Các đại sư mau giúp tại hạ một tay..."

Chàng vừa nói vừa đẩy "Huyền Chân" vào nhà trong, "Tại hạ lúc này đã kiệt sức rồi, không kìm giữ nổi người điên... Nhờ các đại sư canh chừng, coi giữ cẩn thận hộ cho..."

Chàng vừa nói vừa thở.

Đương chuẩn bị không biết tả dung mạo Tố Thủ Lan Cô ra sao, lại được dịp tiếp xúc liền sát bên mình "Huyền Chân" để ngấm ngầm bàn mưu tính kế, Bách Duy mừng quýnh, nhảy vội lại giữ lấy tay "Huyền Chân", và gọi ầm lên, "Các sư đệ mau vào cả trong này, mỗi người mỗi góc giường để ý canh chừng! Nếu thấy đạo trưởng phát điên lên nữa thì cũng nhẹ tay đàn áp, chớ hạ thủ quá nặng! Và chúng ta cũng cần để Nhâm tướng công nghỉ ngơi cho lại sức chứ!"

Trao "Huyền Chân" cho bọn Bách Duy coi giữ rồi, Nhâm Vô Tâm cúi mình vái dài, nói câu "Cảm tạ" đoạn lập tức quay mình đi ra khỏi nhà. Bách Duy không dám theo ra dòm ngó, đành cùng bọn Bách Hộ ngồi xuống bốn bên đầu giường. Một lúc sau, Bách Duy đứng lên định đóng cửa lại, bỗng nghe "Huyền Chân" gọi lại, sẽ nói, "Chớ đóng cửa mà nguy!"

Bách Duy được biết lão là người của Nam Cung thế gia sai tới giả mạo làm Huyền Chân. Còn bọn Bách Hộ thì vẫn tưởng là Huyền Chân thật nên không khỏi giật mình. Chỉ thấy mặt mũi lão tỉnh táo như không, vẫn nằm bẹp đó, và tiếp tục nói với Bách Duy, "Hắn là kẻ tinh tế! Mấy câu hắn hỏi vừa rồi, nếu ta không mau lẹ vờ nổi điên lên phá đám kịp thời thì đại sư bị lộ tẩy ra rồi... và chúng ta bị nguy cả. Nếu giờ ta đóng cửa lại mà hắn còn ở quanh quẩn đây, tất là phải để ý và càng ngờ vực. Giờ đây bốn người ngồi ra bốn góc giường, giả vờ để ý canh giữa ta. Và muốn nói gì thì cúi mặt xuống, dùng lối truyền âm nhập mật nói... chớ để bên ngoài họ thấy ta đương bàn chuyện với nhau."

Ngừng một lát, lão tiếp tục nói, "Từ nay, mỗi lời mỗi cử động đều phải cẩn thận, chớ để hắn có thể nghi ngờ, lộ tích!"

Nghe giọng nói có vẻ như ra mệnh lệnh, bọn Bách Duy biết lão là tay cao cấp của Nam Cung thế gia phái tới, nên chỉ "vâng dạ" tỏ ý cung kính. Lão nói tiếp, "Ta chỉ là giả mạo Huyền Chân thôi! Nhưng ta là ai, chưa cần phải cho mọi người biết tên thực vội! Xin cứ gọi ta là đạo trưởng "Huyền Chân"!"

Chép miệng và nói tiếp, "Nghe câu chuyện vừa rồi, ta đoán rằng đại sư vừa gặp Ngũ phu nhân phải không?"

"Dạ đúng thế!"

Bách Duy lẩm nhẩm nói tiếp, "Nhưng chỉ được nghe tiếng nói, chưa được thấy dung nhan!"

"Ngũ phu nhân là bậc quyền hành rất lớn trong Nam Cung thế gia."

Huyền Chân (giả) gật đầu nói tiếp, "Chắc chắn phu nhân đã dặn đại sư khi về cứ bịa chuyện hoang đường ra nói. Nhưng đáng tiếc là câu chuyện của đại sư bịa chưa thực hoang đường hoàn toàn. Theo ta nhận xét thì như việc mấy thiếu nữ khêu gợi nọ kia, dù đã bịa ra, kỳ thực là có phần nào thuật lại theo mắt thấy tai nghe. Không quên được hẳn những gì mắt thấy tai nghe, cho nên đã căn cứ phần nào vào đó rồi bịa thêm ra. Đó là một nhược điểm về tâm lý, khiến người nghe như ta có thể để ý nghi ngờ ngay... Cũng may là Nhâm Vô Tâm chưa được thông minh tới bậc đó, nên hắn không biết là mưu kế!"

Bách Duy phục lăn ra. Quả tình vừa rồi, trong khi cố ý bịa đặt mà đầu óc hắn không quên được hình ảnh với những gì mà Liên Nhi và Cúc Nhi đã thi thố ra với hắn, cho nên dù có cố bịa mà trong đó vẫn có phần nào sự thực!

Huyền Chân (giả) lại hỏi, "Ngũ phu nhân có dặn đại sư đưa bọn người còn lại của Điền gia trang di cư đi đâu không?"

Thấy Bách Duy lè lưỡi gật đầu nói rằng có dặn, Huyền Chân (giả) bèn nói tiếp, "Vậy đại sư phải đi ngay đi, chớ chậm trễ."

Bách Duy thấy lão đoán trúng thì sợ xanh mắt, vội "dạ dạ" lập tức đứng lên, chạy ra ngoài đường, thấy bọn dân xóm đã sửa soạn xong hành lý, sắp lên đường. Bách Duy thất kinh, hỏi, "Các vị định đi về đâu? Và ai đã ra lệnh di cư?"

Mọi người cùng nói, "Nhâm tướng công cho biết rằng nơi đây bất an, phải đi về phía đông cách 500 dặm. Nơi đó là Tập Hiền Trang, chủ nhân là Lục đại hiệp, tính tình cổ quái, đầy nhiệt huyết. Có thể chúng tôi ở đó bốn, năm năm cũng chẳng lo thiếu thốn."

Bách Duy ngơ ngác hỏi, "Nhâm tướng công đi đâu? Về phía nào?"

Một ông già trả lời, "Chỉ thấy từ trong nhà bước ra, tướng công có vẻ lo lắng lắm. Sau khi dặn mấy lời như trên, tướng công còn nói rằng, "Vì quá mệt mỏi, cần phải nghỉ ngơi suy nghĩ..." Nói thế rồi, tướng công vội vã đi về phía kia," ông già giơ tay chỉ về phía bên. "Chúng tôi chưa kịp hỏi đi đâu!"

Thấy phía đó không phải là phía có bãi tha ma, Bách Duy mừng thầm, gật đầu than rằng, "Tướng công quá vất vả! Phải nghỉ ngơi chứ!"

Miệng nói vậy, chân chạy bon đi theo phía ông già vừa chỉ. Ông già nhìn theo bóng hắn đi xa rồi mới chép miệng sẽ sẽ nói, "Tướng công tiên liệu như thần! Vị đại sư này quả nhiên căn dặn, gạn hỏi kỹ lưỡng quá."

* * *

Lại nói chuyện Nhâm Vô Tâm ra đi, đúng như phía ông già vừa chỉ. Ra khỏi xóm rồi chàng tìm một nơi có cây cối um tùm ngồi nghỉ ngơi, nhắm mắt dưỡng thần. Một lúc sau vùng đứng dậy đi vòng quanh xóm tìm tòi, nghe ngóng... Chợt nhận ra một khu bát ngát toàn là mồ mả, chàng liền vạch cỏ tiến vào trong. Quanh co một lúc, thoáng thấy trên đống cỏ hoang có một vật gì loang loáng dưới ánh trăng. Chàng cúi xuống nhìn. Đó là một chiếc bát lớn bằng bạc, úp miệng xuống mặt đất. Chàng ngạc nhiên vì tại sao nơi mồ hoang đây lại có của quý này, và càng kinh ngạc hơn nữa là khi lật chiếc bát lên, phía dưới toàn là vi cá nấu rồi. Tuy đã nguội, và nước dùng đã thấm hết xuống đất, mà hương vị còn thơm ngon, rõ ràng là món ăn chưa lâu quá một ngày.

Chàng liếc mắt nhìn chung quanh, thấy phía tay trái là một khoảng đất. Tuy có ít nhiều cành khô, lá úa rải rắc lung tung, nhưng nhận ra nơi đó được dọn dẹp sạch sẽ rồi mới bầy rắc cành khô ra để không ai ngờ là chỗ sửa soạn hội họp.

Chàng là người rất mực tinh tế, đoán ngay rằng khoảng đất ấy là nơi hội họp, yến tiệc. Nhưng vì một lẽ gì đó mà có sự xô xát đến ném tung cả bát đĩa đi, một bát vi cá bay ra tới chỗ chàng đứng.

Bao nhiêu ý nghĩ và suy đoán làm vẩn lộn đầu óc chàng. Phải chăng đây là một nơi Bách Duy gặp bọn Nam Cung thế gia. Theo Bách Duy thuật lại thì là một gian nhà hầm chớ không lộ thiên như đây. Bách Duy nếu là gián điệp cho họ, thì cần gì họ phải đặt tiệc khoản đãi. Nhưng nếu họ muốn dụ dỗ Bách Duy theo về với họ, thì một bữa tiệc há đủ để nhử mồi một tay như Bách Duy.

Chàng suy luận một hồi lâu. Không hiểu lúc đó chàng đã tìm ra đầu mối gì chưa? Chỉ thấy mặt chàng lúc thì trắng nhợt, khi thì tái xanh lại. Bỗng chàng cúi xuống, hốt chỗ vi ca vào trong chiếc bát bằng bạc, lấy mảnh khăn gói lại, nhét vào trong bọc. Coi bộ hình như chàng nhận ra trong bát vi cá có đầu mối gì bí mật vậy.

Chợt tai nghe có tiếng chân người đi, Nhâm Vô Tâm lẹ như chớp, vọt mình tới nấp ở sau một ngôi nhà mồ ngó ra, thấy một bóng thiếu nữ đi trước, khinh công vào bậc cao thủ. Sau nàng là một đại hán to lớn, áo chẽn sắc đen, chân bước nặng nề, cố sức lắm mới theo kịp thiếu nữ.

Tới chỗ khoảng đất có cành khô rải rắc, hai người đứng lại. Chàng nhận ra thiếu nữ xinh đẹp như hoa. Nàng bỗng quay lại nhìn vào mặt người to lớn tới sau, gắt giọng nói, "Hai mươi tám chiếc bát đĩa bằng bạc, chỉ còn lại hai mươi bảy chiếc. Nếu không phải ngươi đánh cắp thì còn ai vào đây mà lấy! Hừ! Không kiếm ra thì dù cô nương đây không muốn giết, chỉ sợ ngươi chẳng dám sống mà trở về..."

Đại hán cất tiếng run run, lạy van, "Cúc cô nương ơi! Tiểu nhân dù gan tày trời cũng chẳng dám đánh cắp!"

Thiếu nữ quát giật lên, "Câm miệng! Kiếm tìm mau!"

Đại hán "dạ dạ" lom khom tìm kiếm đó đây. Nhâm Vô Tâm vừa kinh hãi, vừa mừng thầm. Chàng kinh hãi vì thấy bọn Nam Cung thế gia hành động rất kín đáo, dù là thiếu một chiếc bát cũng phải tìm kiếm cho ra. Chàng mừng thầm là vì theo Bách Duy thuật tả lại thì hẳn là lão đã từng trông thấy và gặp thiếu nữ này. Và đó là sự thật! Nay nếu tóm cổ thiếu nữ này, có thể điều tra ra nhiều điều bí mật!

Còn đại hán kia, sau một hồi tìm kiếm như điên như cuồng, mồ hôi ra ướt cả tóc, thở hồng hộc lên. Bỗng hắn quay lại, "uỵch" một tiếng, đâm thục hai đầu gối xuống, rập đầu kêu, "Cúc... Cúc cô nương ơi! Tiểu nhân từ bao nhiêu năm qua, vô luận vào sinh ra tử, chưa từng có lầm lỗi! Xin cô nương nghĩ lại mà... cho!"

Thiếu nữ trừng mắt, quát lên, "A! Giỏi thiệt! Ngươi có ý kể công lao ra! Ngươi chưa thấy Ngũ phu nhân đối xử với tụi hay khoe công, cậy tài ra sao hả? Với hạng chó lợn như ngươi, cô nương đây giết đi chẳng bõ bẩn tay!"

Trong khi đại hán rập đầu lạy đến tóe máu ra, thiếu nữ chắp tay ra sau quay hẳn lưng lại, thủng thỉnh nói, "Đợi tới lúc ta quay đầu trở lại, nếu ngươi chưa chết, thì lúc đó... ái chà... Ngươi dù muốn hay chết ngay cũng không được nữa... Khôn hồn biết điều tự xử trước đi!"

Miệng nói, mặt ngẩng lên nhìn trời, thiếu nữ như tin chắc rằng đại hán kia không dám chạy trốn đâu!

Quả nhiên đại hán không dám bỏ chạy. Hắn chỉ ngẩng đầu nhìn, mắt đầy căm hờn oán hân. Bỗng hắn nghiến chặt hàm răng, méo xệch cả miệng đi, tay run run rút lưỡi dao găm bên mình, từ từ đưa lên cổ họng, quyết tự tử.

Bỗng mắt hắn sáng dội lên, tai vo ve nghe có tiếng ai nói, "Việc gì ngươi phải tự sát! Sao dại vậy! Ngươi có quyền sống!"

Hắn rùng mình một cái, thiếu chút nữa thì lưỡi dao găm rời khỏi tay! Hắn đưa mắt ngó quanh, chẳng thấy bóng ai hết.

Tiếng vo ve giống ong bay, rõ như rót vào tai, "Ngươi có quyền sống! Cả quyết theo lời ta bảo thì sống! Nghe rõ chưa?"

Hắn trố mắt ra, gật đầu, biết là có tay dị nhân dùng lối "truyền âm nhập mật" nói với hắn, và chỉ một mình hắn nghe rõ thôi. Tiếng vo ve lại tiếp tục với một sức hấp dẫn thúc đẩy kỳ mãnh.

"Coi kìa! Con bé quay lưng đi! Ngươi thừa cơ nhào tới ôm ngang lưng, quật nó xuống liền. Ta giúp cho một "chỉ phong" là nó hết cựa quậy. Khỏi sợ!"

Hắn nhỏm người ngẩng đầu lên nhìn. Quả nhiên thiếu nữ vẫn giữ vẻ cao ngạo, quay lưng lại. Hắn hơi do dự... Bỗng trong màng tai nổi lên tiếng hô, "Nhào vô! Một... hai... ba!"

Hắn bị một ma lực kỳ cường thúc đẩy, sôi trào tâm huyết lên. Cùng với tiếng đếm "ba" vang lên trong óc, hắn lao mình đi như cái chớp, chỉ nghe "hụp" một cái, đôi cánh tay sắt đã quàng giữ đúng ngang eo thiếu nữ.

Thiếu nữ quát to một tiếng kịp đưa tay phất vào mặt đại hán, "Mày muốn... chết!"

Giữa lúc đó, một làn gió như một sợi dây rít gió tuôn đến đánh trúng huyệt "kỳ môn" nơi ngực nàng. Thiếu nữ chỉ kịp há miệng, chưa kịp kêu thành tiếng, người đã mềm nhũn ra như bún ngâm nước. Nàng té xiêu đi, đại hán cũng té theo, lộn đi hai vòng, đè dí nàng xuống. Lóp ngóp nhổm dậy, một tay vẫn ghì chặt ngang lưng, đại hán đưa tay lên dụi mắt, cơ hồ không tin đó là sự thật! Hắn đâm ra lúng túng, giết đi ư? Hắn không dám! Chẳng lẽ lại thả ra ư?

Giữa lúc vừa mừng vừa sợ, và e dè thì từ trên cao rớt xuống một cái gói, đồng thời lỗ tai lại có tiếng vo ve rằng, "Mở gói ra. Chia vật trong gói ra làm hai phần!"

Hắn như người máy, vội mở gói ra, nhìn kỹ lại té ra là món vi cá, mùi thơm tho, ngon lành. Tiếng vo ve lại tiếp tục, "Con bé bị ta cách không điểm huyệt rồi, hết làm hung! Chớ sợ! Vạch mồm nó ra, nhét nửa chỗ vi cá vào mồm nó, nhồi rõ sâu, bắt nó phải nuốt. Còn một nửa hà... hà... ngươi ăn đi... hà... hà!"

Quả nhiên hắn theo lệnh, vạch miệng nàng ra tọng vi cá vào như nhồi lòng vịt vậy.

Hồi thứ bốn mươi bảy

Cờ sai một thế, kế độc vô song

Thiếu nữ bị tê liệt từ cổ trở xuống, cứng đờ người ra, nhưng đầu óc vẫn tỉnh. Nàng biết rằng phản kháng lại vô ích, đành há miệng ra nuốt đại đi. Đại hán thấy nàng nuốt một cách ngon lành liền cũng bắt chước bỏ chỗ vi cá còn lại vào miệng, nhai ngấu nghiến nuốt. Chừng một lát, hắn thấy khí nóng từ nơi bụng dưới đưa lên, thoáng cái tản khắp cả mình mẩy, bốc lên mặt. Hắn giật mình, cúi xuống ngó, thấy mặt thiếu nữ lúc nãy trắng xanh, mà giờ thì gò má đỏ ửng lên, đôi mắt lừ đừ nhìn hắn, như say sưa đắm đuối.

Quả tình hai người lúc đó thấy người nóng ran, dục hoả bốc lên ngùn ngụt. Hắn ôm chặt lấy thiếu nữ, nàng bị điểm huyệt cứ đờ người ra như gỗ.

Hắn lăm le định giải huyệt để nàng tỉnh lại nhưng bản lãnh còn thấp kém, làm sao giải huyệt nổi. Hắn vần xoay chê chán, đâm ra phát khùng lên, hết lật úp nàng xuống lại lật ngửa lên. Cuối cùng cáu quá, hắn ghé răng cắn vào vai, vào đùi, rồi đấm xuống thùm thụp. Nàng hình như không đau đớn gì cả, trái lại đôi mắt lim dim, có vẻ lấy làm dễ chịu thích thú là khác!

Ẩn mình nơi bóng tối, Nhâm Vô Tâm thấy vậy, bất giác thở dài nghĩ thầm, "Bỏ thuốc vào món ăn, việc rõ ràng lắm rồi! Nhưng để thết ai? Phải chăng là để hại Bách Duy? Bách Duy phải chăng là môn hạ của Nam Cung thế gia? Đã là môn hạ thì cần gì phải dùng thuốc mê với thết tiệc? Nếu lão không phải là môn hạ Nam Cung thế gia thì sao lại bịa đặt câu chuyện, nói láo?"

Bấy nhiêu nghi vấn dồn dập trong đầu óc, thực là khó giải đáp. Nhưng cũng từ bên trong những phức tạp đó, hầu như chàng tìm ra một vài manh mối.

Bỗng từ trong tối, một bóng thiếu nữ như bay tới. Dáng vẻ với khinh công cũng chẳng kém gì Cúc Nhi. Vừa thoáng thấy hai người đương ôm nhau lăn lộn dưới đất, thiếu nữ giật mình "ủa" lên một tiếng, nhưng kịp đưa tay lên bịt miệng lại, mắt lẹ như chớp liếc nhìn xung quanh một lượt. Bỗng nàng đưa hai tay lên vỗ "bốp bốp" hai tiếng. Cách đó ước hai mươi trượng xung quanh cũng nổi lên tiếng vỗ tay trả lời. Lập tức bốn bề đều có lửa bốc lên ở khoảng các nhà mồ, và thiếu nữ kia đã lẩn mình vào bóng tối. Liền đó, có hai đại hán áo đen chạy ra, mỗi người xách một thùng nước đổ chụp lên đầu hai người nằm dưới đất.

Đại hán cùng Cúc Nhi vụt tỉnh táo trở lại. Đại hán nhìn xung quanh, ra vẻ kinh hãi, vụt cái hắn la to lên một tiếng, cắm đầu chạy biến vào trong bóng tối. Liền đó nghe hắn rú lên một tiếng rùng rợn rồi im bặt đi. Rõ ràng là hắn đã bị đập chết!

Còn thiếu nữ tức Cúc Nhi mặt mũi cũng kinh hãi, tái đi, nhưng vẫn không động cựa được vì chưa được giải huyệt.

Mọi việc xảy ra trong giây phút. Nhâm Vô Tâm không ngờ rằng bọn Nam Cung thế gia điều động người lẹ đến thế, mà bốn bề tám mặt đều thấy gió thổi ào ào, ánh lửa loe loé, duy không thấy bóng người đâu cả. Đủ biết rằng nơi đây cực nguy hiểm, do những tay đầu não của Nam Cung thế gia như Tố Thủ Lan Cô điều khiển. Do sự truyền tin quá lẹ, dù chàng đi về phía nào cũng không qua được con mắt họ. Với một mình Lan Cô, cũng đủ thấm mệt rồi, nếu lại thêm một hai tay cự phách nữa như Hoàng Phủ Thiếu Hồng thì chàng khó lòng trốn thoát.

Bỗng có tiếng còi rít lên liên tiếp. Vòng đai lửa dần dần thâu hẹp lại. Bóng hai người to lớn chạy tới chỗ đất trống khiêng thiếu nữ (tức Cúc Nhi) đem đi.

Ánh lửa chung quanh mỗi lúc một mạnh, rồi tiếng chân chạy qua lại huỳnh huỵch. Giữa một rừng biển toàn là mồ mả cây cỏ um tùm, sự kiện biến diễn thực kinh nhân động phách.

Nhâm Vô Tâm không khỏi lạnh gáy, chàng không thể cứ ẩn nấp mãi được, trong khi vòng đai lửa cứ thu hẹp dần lại.

Chàng trấn tĩnh tinh thần, đưa mắt nhận định bốn phía. Thấy góc phía đông, ánh lửa sáng rực, phía tây ánh lửa nhẹ nhất. Chàng nghĩ thầm, "Nơi ánh lửa yếu ớt nhất chính là nơi bố trí mai phục, mạnh nhất, nguy hiểm nhất".

Lập tức chàng lượm một cục gạch ném về phía tây cách xa chỗ chàng đứng độ hai trượng. Kế theo, chàng liệng một khối gạch nữa ra ngoài bốn trượng.

Quả nhiên ánh lửa từ ba phía đông, nam, và bắc lập tức di động, tiếng chân huỳnh huỵch chạy đổ xô cả về phía tây là phía có gạch ném xuống.

Không để lỡ cơ hội, chàng thoát mình đi như thỏ chạy về phía đông. Phía này vừa một giây phút trước là nơi náo nhiệt nhất, thì lúc này yên lặng như tờ, không một ánh lửa.

Chàng thở phào một hơi! Chỉ cần đề khí vọt mình đi ba cái nữa là ra khỏi đống mồ hoang. Dù có truy binh tập nã cũng không sợ nữa. Nhếch vai một cái, chàng vọt người đi lẹ hơn lên. Trong khi chân chưa chạm đất, sửa soạn đề khí để vọt mình đi nữa, bỗng nghe có tiếng từ trong bóng tối gọi, "Nhâm Vô Tâm! Người trúng kế ta rồi! Đứng lại!"

Năm vệt xẹt sáng ngời như điện, cùng với tiếng hô "Đứng lại" thét gió bay tới, nhằm đánh vào sau lưng, trước ngực chàng.

Vô Tâm kịp đưa tay quơ một cái, thân hình hạ xuống liền.

Tiếng lạnh lùng từ trong bóng tối lại gọi ra, "Nhâm Vô Tâm! Lúc này xung quanh ngươi đều có mai phục toàn những tay võ nghệ cao cường. Nếu ngươi định trốn chạy, lập tức có chín mươi đạo ám khí phát ra, hạ ngươi trong chớp mắt."

Tuy chẳng tin rằng có chín mươi đạo ám khí mai phục quanh mình, nhưng cũng biết rằng số ám khí của họ chẳng ít đây. Chàng lạnh ớn xương sống lên. Té ra vừa rồi, tiếng chân dồn dập di chuyển về ba phía kia, chỉ là hư binh, trong khi họ đã đoán trúng là chàng sẽ lẻn qua phía tây này. Thế mới thực là nước cờ dương đông kích tây của chàng đã cao, lại bị nước cờ hư hư thực thực của họ cao hơn, khiến chàng bị sa lưới. Có lẽ bình sinh chưa bao giờ chàng bị khủng bố, cảm thấy sống chết như lần này. Tiếng cười lạnh lùng từ bóng tối lại nổi lên mà rằng, "Bách Nhẫn, Bách Đại, kể cả Bách Duy luôn luôn ở bên mình ngươi, cũng theo làm môn hạ của Nam Cung thế gia cả rồi. Ngươi còn trơ trọi một mình, chống đối sao nổi. Phu nhân ta vì nghĩ rằng ngươi là một tay đại hảo hán, cho nên chưa nỡ giết đó thôi!"

Chàng vẫn đủ trấn tĩnh để suy nghĩ, "Nếu quả thật mấy anh em Bách Nhẫn đã theo họ thì đời nào họ lại tố cáo ra cho mình biết, rõ ràng đây là kế ly gián... Nhưng hiện giờ mình bị hãm vào vòng mai phục của họ. Biết là mình hết lối thoát, nên họ nói thực ra cho mà biết, cũng chưa biết chừng! A! Nguy hiểm thực, hư hư thật thật, khó lường thật."

Tiếng từ trong bóng tối lại nói ra, "Vô Tâm à! Còn đợi gì nữa! Quy thuận theo Nam Cung thế gia đi!"

Nghĩ ngợi một giây, chàng vụt cười lên mà rằng, "Được lắm! Ta bằng lòng... quy thuận...!" Vừa nói,chàng vừa rảo bước tiến thẳng đến chỗ phát ra tiếng nói!

"Ngừng bước lại! Ngươi muốn nếm mùi ám khí chăng?"

Chàng ngừng bước, cười trả lời, "Tại hạ đã quy thuận rồi, chẳng lẽ cấm cả động cựa sao?"

Tiếng từ trong tối nổi lên và có một vật ném ra rớt dưới chân chàng, "Ngươi cho ta là tụi ngốc cả sao? Nếu thật bụng quy thuận, thì ngươi hãy uống hết gói thuốc này đã. Sẽ được đặc cách ưu đãi."

Chàng cúi lượm gói thuốc lên, nhét luôn vào túi, cười mà rằng, "Muốn ta uống thuốc mê này ư? Dễ lắm, trước hãy hạ ta bằng ám khí... đi đã!"

Vừa tiến thẳng vào nơi bóng tối, vừa nói tiếp, "Lúc đó ta không còn sức phản kháng nữa, thì dù là mười bao thuốc ta cũng phải nuốt... Thế có tiện hơn không?"

Cùng với hai tiếng "hơn không" cuối cùng từ miệng thốt ra thì thân hình chàng đã như lò xo nảy đi, vọt thẳng tới chỗ có tiếng nói phát ra, và tay mặt tống theo một chưởng!

Chàng định bụng rằng, sau khi phát chưởng thì phía sau lưng đã có tiếng cười, trả lời, "Như thế chẳng tiện chút nào cả!"

Chàng giật bắn người, tóc gáy dựng lên, quay lại nhìn. Xa xa, ánh lửa lập loè, nổi bật lên ba bóng người áo đen, người đứng trước rõ ràng là Tố Thủ Lan Cô, bên cạnh là Hoàng Phủ Thiếu Hồng. Đứng sau nàng, quay lưng trở lại, hai tay thu vào trong ống tay áo bào đen, tóc uốn lên bồng bồng, thân hình không cao lớn, không nhận ra nam hay nữ, điệu bộ có vẻ du nhàn.

Chàng hơi động tâm, nghĩ thầm không đoán ra người ấy à ai. Bóng dáng, bộ dạng có vẻ quen quen, phải chăng đó là nhân vật chủ não của Nam Cung thế gia.

Chàng vận lực đề khí. Hễ thấy Lan Cô hơi phất tay áo lên, chàng phát chưởng đánh ra trước. Chợt nghe Hoàng Phủ Thiếu Hồng cất tiếng lạnh lùng nói, "Nhâm Vô Tâm! Quay đầu ngó lại phía sau xem. Ngươi hãm vào tử địa rồi mà còn mê ngủ ư?"

Chàng lặng yên không nhúc nhích, đôi mắt toé lửa nhìn thẳng vào ống tay áo Lan Cô. Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười nhạt, "Ngươi không có gan quay lại ngó một giây phút sao?"

Thấy chàng y nguyên bất động, hắn cười gằn, nói tiếp, "A! Ngươi không dám quay lại nhìn! Vậy để ta nói cho mà biết. Lúc này sau lưng ngươi có năm tay "đại... đại cao thủ" trong hàng bảy mươi hai vị Địa Sát. Trừ hai vị là tay chơi ám khí bậc nhất trên đời, thì ba vị kia đều là tay chưởng lực âm độc vô song. Vô luận là bị trúng một chưởng của một trong ba vị ấy, ngươi sẽ kêu gào đủ bảy ngày đêm rồi chết, không thuốc nào cứu nổi!"

Nhâm Vô Tâm ớn lạnh xương sống. Bất kể là hắn nói thật hay nói dối, chàng cũng không dám quay đầu lại ngó. Tâm lý chàng nghĩ rằng dù cả năm người phía sau lên đánh chàng cũng chưa nguy hại bằng bị bàn tay trắng tinh của Lan Cô sẽ phất lên một cái!

Lan Cô vẫn đứng yên lặng, nhưng phía sau chàng đã có tiếng chân bước tới mỗi lúc một gần. Chàng chỉ cầu mong Lan Cô nhích tay áo trước là chàng tận lực phát chưởng ra. Nàng vẫn lặng như tờ. Chàng cảm thấy phía sau có hơi thở vào gáy, rõ ràng là người phía sau chỉ còn cách chàng vừa đúng tầm tay đánh. Tình thế khẩn trương, đầu óc chàng căng thẳng, hệt như con cá mắc trong lưới, mắt lưới cứ dần dần gò thắt lại.

Trời đã hoe hoe điểm sáng! Mấy lần chàng đã toan phát chưởng đánh Lan Cô trước, nhưng lại ngừng, vì lẽ nếu chàng hơi nhúc nhích thì Lan Cô phát chưởng đánh liền, cướp được thượng phong là chàng nguy!

Ánh bình minh đã rõ. Chàng vẫn đứng yên bất động, mà đối phương tức Lan Cô cũng bất động, cả bọn sau lưng cũng bất động. Hình như cả đôi bên cùng găng giữ nhau, chỉ đợi hễ đối phương hơi động là mình động... nghĩa là phản ứng sau mà hoá ra đòn mình tới trước.

Quả tình, nếu quần thảo nhau, thì cũng không mệt người mệt óc bằng đôi bên đều chăm chú rình miếng, chờ đợi. Huống chi trải bao ngày gian lao khổ tứ, lúc này chàng đã hầu kiệt sức rồi và mồ hôi đã thấm ướt cả áo ngoài. Giả như lúc đó Hoàng Phủ Thiếu Hồng cứ nhảy tới đẩy một cái là chàng té xiêu đi liền. Chàng lấy làm lạ, không hiểu sao đối phương còn chưa hạ thủ giết chàng hoặc bắt sống đem đi cho rồi!

Trời đã sáng rõ, có thể nhận ra tóc người vận áo bào dài lốm đốm hoa râm, vài cỡ trên dưới bốn chục tuổi. Người đó vẫn quay lưng lại. Chàng chỉ cảm thấy hình dạng ấy rất quen thuộc mà không đoán được là ai.

Chợt từ xa xa, trong đám nhà mồ xiêu vẹo, có bóng người mặc áo cà sa sắc tro hiện ra rồi thoắt biến đi. Chàng giật mình đoán là có cứu tinh chăng? Chỉ cần hễ có ai làm cách gì khiến Lan Cô giật mình hay để ý ra chỗ khác là chàng thừa cơ thoát thân. Nhưng dù sao cũng là quá trễ vì lúc đó chàng như cây đèn đã kiệt dầu rồi. Đầu óc loạn lên, mắt bỗng hoa đom đóm rồi tối sầm lại, "huỵch" một cái, chàng té xiêu ngay xuống!

Thấy vậy, Tố Thủ Lan Cô ré lên cười. Nàng đưa tay lên kéo mảnh vải che mặt xuống. Dưới ánh sáng ban mai, té ra nàng không phải là Lan Cô mà là Cúc Nhi giả dạng ra.

Hoàng Phủ Thiếu Hồng bước tới, đưa tay điểm vào "huyệt mê" bên sườn chàng, đoạn ngửa mặt lên trời cười rằng, "Nhâm Vô Tâm a! Ngươi dù tài giỏi cũng vẫn mắc mưu!"

Cúc Nhi cười ngặt nghẽo, chỉ tay vào chàng mà rằng, "Ngươi có ngờ đâu rằng Tố Thủ Lan Cô lúc này ở cách xa đây vào trăm dặm, đương đích thân diệt trừ vây cánh của ngươi."

Hoàng Phủ Thiếu Hồng cười ngất, "Hà hà! Ngươi cũng chẳng ngờ đến rằng cả năm người ở phía sau lưng ngươi vừa rồi, chẳng ai chịu nổi một cái búng tay của ngươi. Nghe tiếng chân huỳnh huỵch đi tới sau, ai cũng biết tụi năm người ấy chẳng phải là tay võ nghệ cao cường gì cả. Nhưng vì ngươi quá thông minh nên mới đoán rằng họ là tay giỏi, nhưng cố làm ra bộ chân bước nặng nề để trộ người. Nếu là tay xoàng thì ai dám tiến đến gần ngươi trong vòng một hai thước! Hà... hà! Ngươi chết vì thông minh! Biết chưa!"

Một trong bọn năm người cười mà rằng, "Nói vậy chớ tụi chúng tôi năm người lúc đó đều sợ mất mật đi. Chỉ cần hắn quay đầu lại một cái là tụi tôi té hết."

Cúc Nhi cũng cười, "Chẳng riêng các ngươi! Chỉ cần hắn giơ tay một cái là đủ khiến tôi té lăn ra. Có thể tắt thở liền là khác! Hí hí!"

Hoàng Phủ Thiếu Hồng bật cười mà rằng, "Tóm lại, mọi sự kiện, mưu kế đều do Ngũ phu nhân nghiên cứu rất đúng. Chà! Nhưng hết sức nguy hiểm và sát nút!"

Người mặt áo bào tới lúc này mới từ từ quay mặt lại. Qua lần mạng mỏng che mặt, cũng có thể nhận ra đó là Điền Tú Linh. Nàng chưa tới hai mươi tuổi mà mái tóc đã hoa râm. Mới trong vòng nửa năm thôi, do ngày đêm uất hận và lo mưu kế, mà một tuyệt đại giai nhân đột nhiên già xọm đi tưởng chừng người bốn chục tuổi. Chợt Hoàng Phủ Thiếu Hồng hỏi, "Bây giờ xử trí hắn... ra sao?"

Điền Tú Linh ngẩng mặt, thở dài, "Ta chưa giết hắn đi được!"

Thấy mọi người ngạc nhiên, nàng vuốt mái tóc, nói tiếp, "Sở dĩ ta khổ tâm bày ra mưu kế này, cốt là làm cho hắn dần dần hoá điên rồ, hắn sẽ hao mòn đi rồi chết, chớ không thể chết ngay được. Chết ngay! Chẳng hoá ra sung sướng lắm ru!"

Ngừng một giây lại nói, "Mưu này hết sức mạo hiểm. Trước hết làm cho hắn không rõ thực lực Nam Cung thế gia, sau là khiến hắn không dò ra hình tích của Lan Cô, vì Lan Cô là địch thủ đáng sợ của hắn. Chỉ hai điểm ấy thôi là đủ lắm rồi!"

Miệng tuy nói vậy,kỳ thực nguyên nhân chính vẫn là để hả giận, và vẫn hy vọng một ngày kia Nhâm Vô Tâm hối lại và yêu nàng.

Cái bóng người khoác áo cà sa sắc tro tới đây mới hiện hẳn ra.

Điền Tú Linh không quay lại nhìn, nhưng cất tiếng hỏi, "Ai đó? Bách Duy đại sư đó phải không? Xin lại đây!"

Thấy lão "dạ" và tiến lại, Cúc Nhi nhoẻn miệng cười, liếc mắt đưa tình, khiến lão té xỉu đi được. Hoàng Phủ Thiếu Hồng cũng cười mà rằng, "Đại sư bày mưu dẫn được Nhâm Vô Tâm tới đây! Khá thực!"

Bách Duy ngạc nhiên nói, "Hắn đi lúc nào tôi không hay biết. Vả lại còn cuống lên đi tìm kiếm hắn là khác."

Điền Tú Linh nói với Hoàng Phủ Thiếu Hồng, "Ta hiểu rồi! Chẳng qua vì đại sư bịa câu chuyện hoang đường, không khéo, khiến Nhâm Vô Tâm ngờ vực, hắn bèn tự động tới đây điều tra, dò xét... Nay hắn đã có ý ngờ, vậy phải thế nào chứ? Chao ôi! Khó quá!"

Bách Duy nghiến răng nói, "Vậy chỉ còn cách giết hắn đi là hơn! Nếu không thì tại hạ không dám trở về nữa, vì sẽ bị hắn giết!"

Điền Tú Linh hơi cau mày, cười nhạt, "Ta đã nói rằng không thể giết ngay hắn! Có điều rằng Nam Cung thế gia tổn phí trên ba chục năm mới rèn luyện, đào tạo thành một tay trung kiên như đại sư. Nay nếu đại sư không dám về, chẳng cũng uổng phí mấy chục năm tâm huyết rồi."

Nàng cau mày cười, ra vẻ chua chát, "Nhưng nếu đại sư chịu cho ta mượn một vật... thì... thì mọi việc trở nên êm đẹp vô cùng!"

Bách Duy ngớ ngẩn hỏi, "Phu nhân định mượn vật... gì?"

Điền Tú Linh khoan thai tiến lại bên mình Bách Duy. Hương xạ thơm tho ngào ngạt từ người nàng xông ra đủ khiến Bách Duy rạo rực ngây ngất đi rồi, huống chi nàng lại đưa bàn tay trắng muốt như ngọc, sẽ đặt lên cánh tay lão, sẽ sẽ vuốt ve rồi sẽ sẽ vỗ lên vai.

Bách Duy đỏ mặt, trống ngực đổ hồi, cúi đầu nhìn đôi bàn chân trắng nõn của nàng. Hắn cảm động sung sướng.

Nàng nhỏ nhẹ nói, "Cho ta mượn... cái này."

Theo với hai tiếng "cái này" từ miệng nàng thốt ra, với hơi thở thơm tho khiến Bách Duy căng thẳng mạch máu, thì tay trái nàng lẹ như chớp điện đưa lên chộp đúng theo tay lão. "Rắc" một tiếng, cùng với tiếng Bách Duy thất thanh la lên, tay trái lão bị gẫy rời, thân hình lão đổ nhào xuống đất, nằm mê man như chết!

* * *

Chừng nửa giờ sau, Bách Duy hồi tỉnh, ngơ ngác nhìn, chỉ còn lại một mình. Cúc Nhi ngồi bên, đương vỗ về vuốt ve hắn. Hắn vừa sợ, vừa đau đớn, tức giận, cất tiếng run run nói, "Điền... Điền phu nhân... quá... độc ác!"

Cúc Nhi đưa bàn tay thơm tho vội bịt miệng hắn,và sẽ nói, "Chớ... chớ nói thế! Chính là phu nhân thương lão đó!"

Lão nhăn nhó rên, "Úi chao đau! Thương... thương ta ư?"

Cúc Nhi ghé miệng vào tận tay lão thì thầm thân mật, "Anh này thực là thơ ngây tệ! Ngốc ở đâu! Không hiểu thâm ý của phu nhân sao? Đó là... khổ... khổ nhục kế!"

Sẽ dí cho lão một cái chết điếng người, nàng cười nói tiếp, "Đã là người đọc kinh sử rồi mà... mà còn không hiểu ư!"

Bách Duy chợt hiểu ra, nhăn nhó, nói, "A! Khổ nhục kế! Câu chuyện Vương Tá ở Thuyết Nhạc Hoàng Cái trong Tam Quốc Chí! Sao ta không biết? Cả hai cùng chặt cánh tay để lừa bịp đối phương! Nhưng phu nhân lúc nãy có dặn... gì không?"

Thấy lão vừa nói vừa rên xiết, Cúc Nhi liền đặt một cái hôn lên gò má sần sùi của lão đoạn ghé tai thì thầm, "Phu nhân nói rằng, 'Lúc này anh bị khổ đôi chút. Nhưng đến ngày thành công thì... sẽ được bồi thường, ân thưởng xứng đáng.'"

Đặt thêm một cái hôn lên má bên kia của lão, Cúc Nhi cười tình, sẽ giúi lão một cái mà rằng, "Biết chưa! Đồ ngốc!"

Thấy lão cười, gật đầu, Cúc Nhi lại giúi cho cái nữa mà rằng, "Ngốc! Giá có chặt cả hai tay, và luôn cả cái đầu trọc tếu này đi thì cũng đáng đời!"

Lúc này lão quên cả đau nhức, và máu ở cánh tay vẫn rỉ ra. Giờ mới chợt nhớ ra, lão đòi Cúc Nhi băng bó lại.

Cúc Nhi lắc đầu, chỉ vào một người nằm gần đó, rồi nói, "Nhâm Vô Tâm bị điểm huyệt, còn mê man nằm kia! Chừng lát nữa tỉnh dậy, hắn sẽ tự động cứu chữa, băng bó cho. Vậy ta đợi ở đây, chừng nào hắn gần tỉnh lại, sẽ giáng cho cái đầu trọc này một chưởng khiến ngất lịm đi!"

Vừa nói nàng vừa dí ngón tay búp măng vào má lão, ra vẻ thương xót mà rằng, "Tội nghiệp cho cái thân anh! Hiểu chưa?"

Bách Duy cười híp mắt, gật đầu, "Hiểu! Hiểu mà! Nàng đánh ta luôn mười chưởng, ta cũng xin vâng!"

Cúc Nhi cười nũng nịu, "Mười chưởng thôi à? Phải một trăm, một ngàn chưởng cho bõ ghét!"

Chợt nàng nghiêm mặt lại, nói tiếp, "Lát nữa, Nhâm Vô Tâm tỉnh lại, việc trước tiên là lo băng bó cho anh, sau đó hắn sẽ căn dặn hỏi han. Vì hắn có ý ngờ vực anh, nên sẽ hỏi han vớ vẩn tận đâu đâu, chớ không hỏi thẳng vào câu chuyện!"

Nói tới đây, nàng chợt quay đầu lại nhìn Nhâm Vô Tâm, đoạn cúi xuống thì thầm dặn dò vào tận tai bắt đầu. Chỉ thấy Bách Duy luôn luôn gật đầu, mắt lão sáng lên như điên. Một lúc sau, dặn dò kỹ lưỡng rồi, nàng chúm môi son lại, hôn lão một cái, chép miệng nói, "Nhâm Vô Tâm sắp tỉnh lại rồi! Thôi ta tạm biệt! Trước khi đi phải tặng anh một... chưởng cho ngất lịm đi! Chớ oán ta nhé!"

Dứt lời, nàng giơ tay lên. Bách Duy ưỡn lưng, phồng ngực đón lấy mà rằng, "Một trăm, một ngàn... chưởng."

Cúc Nhi cười tình, lườm lão một cái, miệng nói, "Anh quả niên là bậc anh hùng! Như vậy gái nào mà chẳng yêu anh!"

Cùng với hai tiếng "yêu anh" mới thốt ra nửa miệng, tay nàng giáng xuống ngực lão. "Huỵch" một tiếng, lão quằn quại, trợn mắt, nằm đờ người ra.

Cúc Nhi vội đứng phắt lên, rút khăn tay lau chùi đôi môi son cẩn thận. Vẻ tình tứ, nũng nịu, yêu đương vừa rồi biến đi hết. Mặt quạu lại, mắt quắc lên, nàng co chân đá vào xác lão lăn đi mấy vòng, nghiến răng rít lên tiếng mà rằng, "Thằng chó chết! Thằng trọc ngu xuẩn! Một ngày kia mày sẽ biết tay cô nương này."

Dứt lời, quăng mình đi như rắn, lẩn vào trong đám mồ mả, cỏ dại, biến mất dạng.

Đến lượt Nhâm Vô Tâm chợt giật mình tỉnh lại, ngơ ngác bàng hoàng. Mặt trời lên cao, tứ bề lặng lẽ, toàn là mồ mả với cỏ hoang. Nhớ lại rõ ràng mình bị lọt vòng phục kích của Nam Cung thế gia. Trước mặt là Lan Cô hai bên giữ miếng hàng giờ, cuối cùng lực kiệt,mình ngã ra bất tỉnh. Nhưng tại sao... tại sao họ không giết mình mà lại bỏ đi cả!

Chàng nát óc nghĩ, không ra đầu mối. Một lúc sau, cố trấn định lại tinh thần, chàng vẫn nằm yên, nghe ngóng...

Chợt có tiếng rên khừ khừ ở phía bên. Chàng nhỏm dậy ngó tìm. Trong lùm cỏ, một thân hình mặc áo bào sắc tro, máu me đầm đìa, nhận ra là Bách Duy, miệng tuy rên mà coi bộ mê man chưa tỉnh.

Chàng rú lên một tiếng, chạy lại ôm xốc Bách Duy lên. Xé vạt áo mình ra băng bó cho lão. Xương cánh tay gần nơi bả vai lão bị gãy vụn ra, thương tích quá nặng. Trong khi băng bó, trăm ngàn câu nghi vấn dồn dập làm loạn óc chàng lên. Nếu bảo Bách Duy là tay sai của đối phương, thì sao họ lại đánh lão trọng thương đến thế này. Nếu lão không là gián điệp của họ, thì sao lão lại bịa câu chuyện quái đản để bịp chàng? Và tại sao lão có mặt ở đây v.v... Vì sao lão bị đánh v.v...

Một lúc sau, do công phu chàng chà xát, nắn bóp, giải huyệt, Bách Duy nhăn nhó, bừng mở mắt ra, rên lên từng hồi!

Quả nhiên đúng như Điền Tú Linh tiên liệu, đợi lão tỉnh hẳn rồi, chàng vội hỏi nguyên nhân và do ai hạ độc thủ.

Theo lời Thiếu Lâm dặn, Bách Duy bịa đặt lại câu chuyện lúc lão tìm đến nơi vừa lúc bọn Nam Cung thế gia đương vạch miệng chàng ra, nhồi vào một liều thuốc.

Nghe tới đây, Nhâm Vô Tâm tái mặt đi, mồ hôi vã ra. Thấy vậy, Bách Duy cười thầm, chép miệng nói tiếp, "Chỉ tiếc rằng bần tăng tới trễ một chút."

Lão chép miệng, thở dài nhìn vào bên tay bị gãy, "Nhưng dù đến sớm thì cũng chẳng..."

Nhâm Vô Tâm vội hỏi, "Đại sư có nhận ra hình dạng và màu sắc thuốc đó thế nào?"

Bách Duy cuống lên, lắc đầu. Nhưng rồi lại nói, "Hình như là sắc đen. À, không phải! Sắc vàng! Cũng không phải..."

Một lúc lão nói ra đến tám màu sắc khác nhau.

Chàng lắng tai chú ý nghe, cuối cùng như chẳng để ý đến lão nói gì hết, vẻ mặt chàng buồn rầu thảm đạm.

Bách Duy ra vẻ lo ngại cho chàng, hỏi rằng, "Tính ra ước chừng lúc này chất thuốc đã ngấm. Chẳng hay tướng công thấy trong người có gì khác chăng?"

Nghe nhắc đến đó, chàng lại giật mình. Kiểm điểm lại thấy rằng thần trí ý nghĩ vẫn trong sáng. Chàng hơi yên tâm, ngồi xếp chân bằng tròn, vận hành khí huyết, điều dưỡng hơi thở. Thấy rằng mạch lạc lưu thông không có gì khác thường, bèn từ từ mở mắt đứng lên. Bách Duy cau mày hỏi, "Có gì khác chăng?"

Thấy chàng lắc đầu, lão hàm hồ nói tiếp, "Chẳng lẽ họ cho uống thuốc bổ! Úi chà! Có thứ thuốc uống vào tới ba bốn ngày, hoặc vài ba tháng có khi vài năm sau chất độc mới phát!"

Chàng chép miệng thở dài, "Đúng thế! Càng chậm phát thì khi phát ra càng độc hại!"

Làm bộ như chợt nghĩ ra điều gì, lão hớt hải nói, "Nếu... nếu họ đã hạ thuốc độc cho tướng công thì hẳn chẳng tha gì bần tăng! Ôi thôi! Chỉ mong thuốc độc phát ngay để được chết sớm!"

Nhâm Vô Tâm lẩm nhẩm nói, "Có thể đúng thế đó! Đại sư cũng có thể trúng độc!"

Nghĩ đến cánh tay Bách Duy bị lìa gãy, thì lòng ngờ vực đối với lão tự nhiên giảm đi hẳn. Dù trong lòng còn nhiều thắc mắc, nhưng cũng chẳng bụng dạ nào căn vặn hỏi tra thêm.

Mặt trời đã lên giữa đỉnh đầu rồi, chàng vội ôm xốc Bách Duy lên vai, chạy trở về, đem theo bao nhiêu kinh hoàng ám ảnh, nan giải đáp của một đêm đầy hãi hùng. Nhất là nghĩ đến liều thuốc độc bị họ nhét vào họng, không rõ bao giờ chất độc phát ra... Chàng ớn mình, mệt óc!

Về đến Điền gia thôn thì chàng đã thở dốc. Giữa ban ngày mà bốn bề lặng ngắt, nhà nào nhà nấy cửa đóng then gài. Bách Duy nằm ở trên vai chàng bật lên hỏi, "Ủa! Họ chạy hết cả rồi! Sao không đợi tướng công về rồi hãy đi!"

Nhâm Vô Tâm vừa thở, vừa nói một cách hờ hững, "Vì cấp bách nên tại hạ nhủ họ cứ việc lên đường khỏi đợi chờ!"

Bách Duy chỉ "a" một tiếng, trong bụng giận lắm, nhưng không dám nói ra.

Về tới ngưỡng cửa, chàng vội đẩy cửa bước vào. Bách Duy sợ bên trong đương bàn bạc gì, bị chàng trông thấy thì khốn, bèn vờ gọi lớn lên, "Bách Hộ sư huynh ơi! Huyền Chân đạo trưởng khá không?"

Trong nhà lặng như tờ, Nhâm Vô Tâm có vẻ lo ngại, còn Bách Duy biết trước, yên trí là chẳng có gì xảy ra được. Vì tụi họ là tay sai của Nam Cung thế gia cả. Và nếu như bên phe Nhâm Vô Tâm có ai định giở trò gì ra, thì một mình "Huyền Chân" cũng đủ đối phó lại rồi.

Nhâm Vô Tâm bước thẳng vào bên trong. Đưa mắt nhìn qua một cái, cả hai cùng tái mặt rú lên một tiếng.

Gian phòng nhỏ phía trong lênh láng máu đọng. Bách Hộ, Bách Phù, Bách Vệ đã biến thành ba cái thây không đầu. Duy một mình "Huyền Chân" đạo trưởng ngồi trên vũng máu tận góc phòng, tay cầm thanh gươm dài vấy máu, mặt mũi cũng đỏ lòm máu, đương ngửa cổ lên trời, nhăn răng ra cười. Rõ ràng là lão đã giết ba mạng kia trong một cơn điên phát đến cực độ.

Yên trí là lão nổi cơn điên mà giết người, nên Nhâm Vô Tâm tuy có sợ nhưng chẳng ngạc nhiên lắm. Chỉ có Bách Duy là kinh hãi, ngạc nhiên hết sức, vì hắn biết rằng Huyền Chân không điên. Nhưng... nếu không điên thì tại sao lại giết cả đồng bọn đi như thế?

Bị khích động quá đột ngột và quá mạnh, Bách Duy buột miệng quát lên hỏi, "Mi điên hay sao? Sao lại giết cả... đi như vậy?"

Nhâm Vô Tâm nổi giận, mắng Bách Duy, "Huyền Chân vốn bị điên, không biết sao? Sao lại bỏ đây mà đi?"

Bách Duy giật thót người, nghĩ thầm, "Mình ngu quá! Hỏi Huyền Chân câu ấy ư? Suýt nữa thì lộ tẩy."

Nghĩ vậy lão yên lặng, mặt càng tái đi.

Thấy lão không nói gì, Nhâm Vô Tâm lại nghĩ rằng tại mình nóng nảy, mắng lão cho nên lão giận. Nghĩ thế rồi, chàng thở dài mà rằng, "Ít lâu nay tại hạ quá lo nghĩ, tâm tính hoá ra thất thường, cục cằn. Xin đại sư chớ giận!"

Bách Duy lúng túng, nói, "Bần tăng quả thực có lỗi!"

Nhâm Vô Tâm buồn bã nói, "Đối với việc này, tại hạ cũng có trách nhiệm, không thể trách lỗi đại sư được!"

Chàng lại đưa mắt tìm kiếm một lần nữa khắp các xó nhà, không thấy đầu lâu ba người đầu, trong khi ba cái xác chết vẫn ngồi ngay ngắn, hình như bị giết mà không kịp trở tay phản kháng gì hết. Chàng lấy làm lạ, hỏi Bách Duy, "Với võ nghệ của ba vị đại sư, bị một kẻ điên giết mà không trở tay kịp hay sao? Có thể rằng trong lúc bất ngờ thì một người bị giết thôi. Nhưng đến người thứ nhì thì thừa thì giờ phản kháng hoặc ít nhất cũng kịp chạy thoát!"

Bách Duy cau mày nói, "Đúng thế! Tướng công mà còn không hiểu tại sao thì bần tăng cũng đến chịu... không nghĩ ra sao cả!"

Tới đây, Nhâm Vô Tâm từ từ đặt Bách Duy nằm xuống. Chàng chắp tay sau lưng, đi quanh phòng nhận xét.

Bách Duy miệng tuy nói vậy, nhưng trong lòng thì nghĩ thầm rằng, "Lão Huyền Chân không điên, vậy mà giết cả đồng bọn đi! A ha! Hoặc giả lão này làm gián điệp cho cả hai bên. Bất cứ đối với bên nào thắng bại, lão đều có lợi. Biết đâu chẳng phải lão giết bọn Bách Hộ đi là để được lòng tin của Nhâm Vô Tâm?"

Nghĩ vậy lão sợ mướt mồ hôi ra. Lại ngó Nhâm Vô Tâm thấy lo sợ đến nỗi tia mắt mờ loạn ca lên. Quả tình là chàng kinh hoàng thực sự chứ không phải là giả tạo ra.

Chợt lão lại nghĩ, "Hoặc giả Bách Hộ có cử động ngôn ngữ gì lộ ra là phản bội Nam Cung thế gia, có ý tiết lộ bí mật gì cho Nhâm Vô Tâm mà bị Huyền Chân khám phá kịp thời bèn giết đi? Nếu quả như thế thì mình cũng đỡ lo!"

Lúc ấy, Nhâm Vô Tâm vừa đi vừa nói lảm nhảm, "Còn ba cái đầu lâu! Tại sao không có ở đây?"

Chính Bách Duy cũng nghĩ mãi về việc đó. Nghe chàng nói vậy, lão cũng nói góp, "Thật là lạ! Phải chăng có... kẻ nào lấy đi! Trừ phi chính lão Huyền Chân nổi điên mà ăn đi... cả rồi!"

Nhâm Vô Tâm cau mày nghĩ một lúc rồi nói, "Ta phải ra ngoài tìm kiếm!"

Nói rồi chàng vọt mình qua cửa sổ. Đợi bóng chàng khuất hẳn rồi, Bách Duy giơ tay ra hiệu cho Huyền Chân. Huyền Chân cũng giơ tay ra ám hiệu, Bách Duy hơi yên lòng, bèn thở dài nói, "Đạo trưởng...!"

Bỗng thấy "Huyền Chân" đưa tay lên bịt miệng ra hiệu bảo đừng nói, rồi lại giơ tay chỉ ba cái xác, liền đó lại cau mặt lắc đầu đặt ngón tay lên ngực vạch chéo một cái, cuối cùng miệng lão "hách" một tiếng, mở bàn tay ra hiệu chém phạt một cái. Bách Duy gật đầu. Hắn hiểu ý "Huyền Chân" cho biết là bọn Bách Hộ ba người không trung thành với Nam Cung thế gia, cho nên "Huyền Chân" giết đi.

Hiểu vậy rồi, Bách Duy đưa một ngón tay cái lên tỏ ý tán thưởng rằng, "Thà giết một ngàn kẻ vô tội, còn hơn lầm lỡ phóng thích một kẻ dù chỉ là đáng ngờ thôi." Nguyên vì bọn Bách Hộ sở dĩ phải theo mệnh lệnh của Bách Duy là vì tuân giữ quy luật nghiêm khắc của phái Thiếu Lâm đối với vị Chưởng môn là bậc tôn quý. Bọn Bách Hộ vì thế đành cứ nuốt hơi kín tiếng, thà rằng phải trái với lương tâm, phản bội Nhâm Vô Tâm, còn hơn là phản bội quy luật môn phái làm thương tổ tính mạng của vị Chưởng môn. Cho nên bất cứ việc gì, bất cứ lúc nào, chỉ một mình Bách Duy lên tiếng nói, còn bọn Bách Hộ rất ít nói năng, thậm chí lúc cần, họ có thể hy sinh tính mệnh để cầu cho vị Chưởng môn được bình an. Còn Bách Duy sở dĩ chưa bắt họ uống"thuốc mê biến tính nết" là vì sợ rằng họ đâm ra si dại, có những cử chỉ khác thường, lộ hình tích, khiến Nhâm Vô Tâm nhận ra chân tướng cả bọn.

Chợt lại thấy "Huyền Chân" mỉm cười đưa tay lên bịt miệng.

Liền đó quả nhiên nghe có tiếng chân và Nhâm Vô Tâm đã về đến nơi. Lông mày cau lại, vẻ mặt trầm trọng, chàng nhìn Bách Duy, lắc đầu nói, "Chẳng những chẳng thấy đầu lâu đâu cả, đến vết máu vệt chân cũng không... Ha hà... Ha ha ha!"

Hình như chợt nghĩ tới một việc gì tức cười nên chàng phát ra một chuỗi cười như vậy. Bách Duy ngạc nhiên, toan hỏi vì sao lại cười. Bỗng thấy chàng đưa tay lên ôm mặt rồi nói, "Bốn bề lặng ngắt, chỉ có mấy con chó... hoang. Mấy chiếc đầu lâu ấy đâu... phải chăng... phải chăng..."

Thấy chàng vụt cười, vụt lại thảm đạm như muốn khóc, Bách Duy nghĩ thầm chắc hẳn mấy bữa liền tâm tình bị khích thích mạnh, đầu óc rối loạn, có lẽ chàng sắp hoá điên rồi. Nghĩ vậy, lão lấy làm cao hứng, càng phục mưu trí Điền Tú Linh, đồng thơi hơi có ý thương xót cho một tài trí như chàng, có thể từ này hoá ra một kẻ điên cuồng hoặc ngớ ngẩn.

Chợt có tiếng chó xa xa sủa lại. Nhâm Vô Tâm vụt đứng phắt lên, "Ai đó? Kẻ... nào đó?"

Bách Duy nói, "Tướng công nghỉ ngơi! Để bần tăng cố gượng ra coi!"

Chàng giật giọng quát, "Không cần đến ngươi! Ta không có chân... hay sao?"

Chưa dứt lời chàng đã nhảy vọt ra ngoài.

"Huyền Chân" nhảy vọt đến bên cửa, ngó qua ngó lại, yên trí là chàng đi xa rồi mới quay trở vào, nhìn Bách Duy lạnh lùng sẽ nói, "Nhâm Vô Tâm nổi cơn điên lên rồi. Ngươi có thể yên tâm."

Bách Duy cười đắc ý nói, "Mưu kế của Ngũ phu nhân tài tình thật. Tại hạ mừng quá."

"Huyền Chân" bỗng cất giọng âm trầm hỏi, "Ta giết bọn Bách Hộ! Ngươi biết tại sao chưa?"

Bách Duy nói, "Chắc hẳn là vì...! Biết rồi... Tại hạ hiểu mà!"

Thấy hắn cứ ấp a ấp úng, "Huyền Chân" quắc mắt lên, nói, "Ngươi mà không hiểu thì... ai hiểu!"

Bách Duy càng ấp úng, nói, "Phải chăng các hạ đã nhận ra bọn họ có ý bội phản?"

"Huyền Chân" nổi giận, nói, "Đã biết thế sao không nói ra ngay. Định đổ trách nhiệm cho ai?"

Bách Duy cúi đầu xuống nói, "Tại hạ đâu dám..."

Chợt nhớ ra rằng mình với "Huyền Chân" là ngang hàng, tại sao phải ra vẻ sợ hãi khép nép. Nghĩ vậy lão phấn chấn lên, ưỡn ngực ra phân trần, "Huống chi dù tụi họ có ý phản đối, thì tại hạ cũng chẳng có trách nhiệm gì hết!"

"Huyền Chân" càng nổi giận nói, "Ngươi không có trách nhiệm ư? Nói vậy có lẽ trách nhiệm ở ta sao? Nếu như ta không kịp thời khám phá ra để lỡ hết việc."

Bách Duy gắt giọng, cãi lại, "Ta dùng Bách Nhẫn làm con tin để uy hiếp bọn Bách Hộ phải trung thành với Nam Cung thế gia. Việc đó đã trình bày với Ngũ phu nhân rồi. Phu nhân đồng ý chưa nên bắt buộc họ uống "thuốc mê biến tính" vội, vì e rằng Nhâm Vô Tâm thấy họ vụt biến đổi tính nết mà đoán ra mưu gian chăng? Đó là nước cờ cao của Ngũ phu nhân. Ta đây có trách nhiệm gì?"

"Huyền Chân" đưa mắt liếc một cái dài rồi nói, "Dù đó là lệnh của Ngũ phu nhân, nhưng trên còn có Thái phu nhân!"

Bách Duy cười nhạt nói, "Tất cả mưu kế đều do Ngũ phu nhân chủ trương. Thái phu nhân từng ra lệnh tuyên bố như vậy. Các hạ không theo lệnh ấy sao?"

"Huyền Chân" chớp chớp mắt, cúi đầu nói, "Việc này quá liều lĩnh. Nếu như Bách Nhẫn..."

Bách Duy trở nên hăng hái, cắt lời "Huyền Chân" đi, "Bách Nhẫn thì sao? Lão đã bị thuốc mê làm biến tính, chỉ biết có tận trung với Nam Cung thế gia thôi. Dù bọn Bách Hộ có gặp mặt lão cũng chẳng sao..."

Bị Bách Duy nói cho một hồi đến tắc khẩu lại. Huyền Chân kém lý, đành chịu lép, phất tay áo ngồi xuống.Hai người đối diện nhau, yên lặng một lúc. Bỗng nghe có tiếng tà áo "phạch phạch" xé gió bay tới. Trong nháy mắt, có bốn bóng người áo màu lam, tay cầm gươm dài từ bốn phía cửa sổ vọt mình vào. Chẳng nói nửa lời, bốn thanh gươm múa lên nhằm đầu "Huyền Chân" mà phất. Bách Duy kinh hãi, thét lên, "Ai...?"

Vừa thốt ra được một tiếng "ai" thì cánh tay phải đã bị một bàn tay cứng như gọng kềm thép giữ chặt, không thoát ra được. Lúc đó "Huyền Chân" đã kịp thời đứng phắt dậy, tay áo rộng múa lên, né khỏi những lằn kiếm quang loang loáng. Bốn người áo lam, kiếm pháp tuy chẳng cao siêu mấy nhưng cũng khá lanh lẹ. Một lằn kiếm bao bọc xoay khắp bốn bề, một lằn kiếm tấn công tới ngay, bốn thanh kiếm phối hợp với nhau, công thủ bủa vây không một kẽ hở. Bách Duy sợ run lên, không dám ngoảnh mặt lại phía sau, không đoán ra được kẻ đứng sau lưng mình là ai. Hắn chỉ mong lúc này Nhâm Vô Tâm kịp thời trở về.

Trong chốc lát, bọn người áo lam đã tuôn ra liên miên tới ba mươi sáu ngọn kiếm, khinh linh tuyệt xảo, kết hợp với nhau tưởng chừng như là một người mà đồng thời phóng ra bốn ngọn kiếm cùng một lúc.

Bách Duy chỉ nhận ra rằng kiếm pháp ấy có vẻ quen quen. Chợt nghĩ ra, lão quát lên, "Những người kia phải chăng là đệ tử phái Vũ Đương? A! Có vẻ là Lưỡng Nghi kiếm pháp biến thành Tứ Tượng kiếm trận!"

Tiếng người đứng sau lưng lão nói, "Đúng thế! Họ đều là Tử Y đệ tử của Vũ Đương, ăn vận khác lối đi!"

Bách Duy nhận ra người đứng sau nói là Nhâm Vô Tâm, tuy rằng tiếng nói có vẻ là tiếng kẻ mê loạn, hơi ngọng nghịu một chút. Bách Duy kinh hãi nghĩ thầm, "Luật lệ của Vũ Đương nghiêm ngặt cũng như luật lệ của Thiếu Lâm. Đều coi vị Chưởng môn tôn quý như bậc thần minh. Huyền Chân dù thực có hoá điên chăng nữa thì bọn đệ tử cũng không thể ra tay đánh Chưởng môn bao giờ. Huống chi Tử Y đệ tử đều là những bậc tu hành thanh khiết, thì càng không có những hành vi đánh lại thầy như thế... A! Hoặc giả họ đã biết Huyền Chân là giả mạo, là tay sai của Nam Cung thế gia rồi! Mình bị trọng thương, lại bị sa vào trong tay Nhâm Vô Tâm rồi. Nếu quả hắn đã khám phá ra những bí ẩn của mình thì mình hết sống."

Nghĩ đến đó lão sợ toát mồ hôi ra. Ngó lại Tứ Tượng kiếm trận, tuy mỗi lúc đánh mỗi gấp, nhưng "Huyền Chân" vẫn đủ sức đối phó, có khi mũi kiếm chưa ra mà lão đã tiên cơ né trước rồi.

Bỗng nhiên Nhâm Vô Tâm buông hai tay ra, rồi nhảy vào trận chiến.

Vũ Đương tứ kiếm liền thu kiếm về, lùi xa ra mấy bước ôm thanh kiếm trước ngực rồi nhất tề quỳ cả xuống.

Bách Duy ngạc nhiên nghĩ bụng, "Bọn này hoá điên cả hay sao thế này? Tại sao lúc nãy kiêu ngạo thế, mà bây giờ lại khúm núm thế kia?"

Lúc này Vô Tâm đã nắm lấy cổ tay "Huyền Chân" rồi lật bàn tay phẩy vào "vựng huyệt" của hắn, xuất thủ nhanh như luồng chớp. Bọn tứ đại đệ tử Vũ Đương sắc mặt đều buồn rầu u uất, hướng vào "Huyền Chân" vái đi vái lại mãi rồi mới đứng lên, lại sụp quỳ xuống lạy Bách Duy, đồng thanh thưa rằng, "Vũ Đương mạt học tham kiến tiền bối."

Nên biết Vũ Đương và Thiếu Lâm nguyên cùng một nguồn gốc, vì thế đệ tử Vũ Đương đối với các vị tiền bối Thiếu Lâm vẫn một mực tôn kính, mà đệ tử Thiếu Lâm đối với các vị tiền bối Vũ Đương cũng vậy.

Bách Duy vội vàng đáp lễ, trong bụng rất lấy làm ngờ, nghĩ bụng, "Xem đây đủ hiểu bọn họ chưa biết những sự bí ẩn bên trong, nhưng tại sao họ lại bắt "Huyền Chân" xuất thủ?" Vô Tâm lúc này đã bế "Huyền Chân" đặt lên giường. Bách Duy buột miệng hỏi, "Bốn vị đã là đệ tử Vũ Đương, tại sao lại dám đánh Chưởng môn?"

Một người trong bọn thở dài nói, "Hồi bẩm tiền bối, bọn đệ tử thực quả không dám tin là Chưởng môn chân nhân đã hoá điên, mà lại không thể không tin được..."

Nói tới đó, lại chỉ vào một vị đạo nhân trẻ, thân hình gầy gò, mặt vàng như nghệ, nhưng hai mắt sáng quắc như điện, nói tiếp, "Diệu Vũ sư đệ của đệ tử đây đã đoán là rất có thể môn hạ của Nam Cung thế gia trá hình làm Chưởng môn chân nhân, để làm gian tế. Diệu Vũ sư đệ tuy vẫn được tiếng là "túi khôn" trong bọn, nhưng đệ tử vẫn không dám tin, vì thấy câu chuyện này quá hoang đường. Nhưng việc đã thế này, bọn đệ tử đành chỉ mong sao lời Diệu Vũ sư đệ đoán là đúng, thì tức là Chưởng môn chân nhân chưa hề bị tai hoạ gì... Ôi! Đó là những nỗi khổ tâm của bọn đệ tử, chắc tiền bối cũng lượng xét..."

Bách Duy gật đầu. Người kia lại nói, "Sở dĩ bọn đệ tử thốt nhiên xuất thủ với Chưởng môn mục đích chỉ cốt dò xem có phải thật là Chưởng môn chân nhân không? Đó cũng là theo kế của Diệu Vũ."

Diệu Vũ từ nãy vẫn ủ rủ cúi đầu lẳng lặng, lúc này mới ngẩng lên nói, "Vì đệ tử trộm nghĩ người ta trong lúc thần trí mê muội cũng không thể sao quên được võ công hàng mấy chục năm rèn luyện, nhất là trong lúc bất ngờ bị người đánh lén. Thế nào cũng phải thi triển ngón võ công bản môn ra, như vậy thì thật giả sẽ biết ngay lập tức."

Bách Duy tái mặt vội hỏi, "Thế... thế võ công bản môn của "Huyền Chân" đạo trưởng vừa rồi có đúng không?"

Diệu Vũ cúi đầu nói, "Chưởng môn chân nhân thần trí tuy hôn mê nhưng vẫn còn nhớ được tâm pháp của Vũ Đương... Kiếm trận của bọn đệ tử vừa rồi, trừ bản Chưởng môn dùng tâm pháp Vũ Đương để hoá giải đi thì được, còn người ngoài khó lòng phá nổi!"

Bách Duy nghe xong thở phào một tiếng, như vừa trút được gánh nặng. Hắn đưa mắt nhìn "Huyền Chân" và nghĩ thầm, "Người này tài thật! Hắn giả mạo Huyền Chân quá hệt... lại còn lén học được cả kiếm thuật Vũ Đương nữa."

Lúc ấy bốn đệ tử Vũ Đương đã xúm nhau lại, dùng thuốc bí truyền rắc lên chỗ cánh tay bị gãy của Bách Duy. Tức thời hắn thấy bớt hẳn đau khổ. Nhâm Vô Tâm thì cúi đầu, bù tóc ra, chẳng còn đâu là bộ dạng mạnh mẽ anh tuấn nữa. Còn "Huyền Chân" thì bị điểm vào huyệt mê ngất nên ỳ ra đó không chút động cưa. Bách Duy sốt ruột nghĩ thầm, "Chẳng biết bao giờ họ sẽ giải huyệt cho Huyền Chân. Nếu lão cứ ngất lim đi thế này thì làm sao có thể thông tin tức của Nam Cung thế gia cho lão biết được. Nhưng cũng may là Vô Tâm đã biến thành hầu như là ngớ ngẩn, si độn. Chắc hắn cũng chẳng chịu đựng nổi bao lâu nữa... Nếu mình như hắn thì chỉ có cách chết sớm đi là... sướng hơn!"

Bốn đệ tử Vũ Đương đều là tay cường tráng, lanh lẹ. Chỉ một loáng sau đã thâu dọn và chôn vùi xong thi thể bọn Bách Hộ đại sư.

Sau đó, Diệu Pháp sư huynh là kẻ trầm nghị nhất bọn, hỏi, "Chưởng môn nhân thì như thế, Bách Duy đại sư bị trọng thương, vậy nếu muốn khởi hành thì phải có xe mới được."

Đệ tứ sư đệ là Diệu Quả lanh lẹ nói, "Tiểu đệ xin đi kiếm xe."

Nhị sư huynh Diệu Không, miệng lúc nào cũng mỉm cười nói, "Mình chỉ nên thuê cỗ xe không rồi tự mình đánh xe lấy thì hành trình mới giữ được kín đáo bí mật."

Thấy Diệu Quả "dạ" một tiếng chạy đi liền, tam sư huynh Diệu Vũ vội gọi lại mà rằng, "Nơi đây vắng hết người rồi, sư đệ định tìm thuê xe ở đâu?"

Diệu Quả ngẩn người ra ấp úng, "Cái ấy... ấy..."

"Vừa rồi khi bước chân vào trong xóm để ý thấy gian nhà thứ ba đầu con đường này vốn là nhà cho thuê xe, cả ngựa kéo. Sư đệ thử tới coi, xem có chiếc nào còn đủ cả bánh xe chăng!"

Diệu Quả "dạ" rồi vọt mình đi luôn. Diệu Vũ nhìn theo nói, "Có xe mà không có ngựa thì cũng chẳng đi nổi!"

Diệu Không mỉm cười nói, "Ý sư đệ muốn rằng ta đi kiếm hai con ngựa chứ gì? Được rồi!"

Diệu Vũ cười nói, "Bất cứ lúc nào sư huynh đều đoán biết trước được ý tiểu đệ."

Diệu Pháp vội ngăn lại, "Hãy khoan! Đi kiếm ngựa ở đâu?"

Diệu Không cười trả lời, "Việc khẩn cấp thì phải quyền biến. Nếu cho phép quyền biến thì kiếm đâu cũng có ngựa!"

"Chớ làm càn... làm bậy!"

Diệu Pháp lắc đầu thở dài, nhưng tay thì ra hiệu, chẳng khác gì bảo rằng "Cũng được! Đi đi!"

Không được ra hiệu đến lượt thứ nhì, như cái chớp. Diệu Không đã ra khỏi cửa, biến dạng.

Diệu Không đi rồi, Diệu Pháp bèn chạy lại bên giường cúi nhìn "Huyền Chân" hồi lâu, rồi thở dài nói, "Chẳng hay Nhâm tướng công có thể giải huyệt cho vị Chưởng môn của chúng tôi, để tránh cho..."

Nhâm Vô Tâm nói, "Chừng nào thần trí ông ấy chưa khôi phục thì chưa dám giải huyệt! Nếu giải huyệt mà ông ta điên lên, đánh giết kẻ khác cũng chưa can hệ bằng ông ta lại tự sát, thì Nhâm mỗ này sao yên được."

Diệu Pháp nói, "Vãn bối biết rằng Nhâm tướng công lo giữ an toàn cho vị Chưởng giáo chân nhân của chúng tôi, nhưng..."

Giơ tay chỉ vào "Huyền Chân" rồi nói tiếp, "Vị Chưởng giáo của chúng tôi coi có vẻ đau khổ hết sức. Vãn bối dám hỏi Tướng công cho biết phép điểm huyệt của Tướng công có tổn hại gì đến sức khoẻ của kẻ bị điểm huyệt chăng?"

Nhâm Vô Tâm trả lời, "Không hề chi cả! Và nếu thần trí ông ta sáng suốt trở lại thì vẫn nghe hoặc thấy được mọi sự kiện..."

Nói rồi, chàng để ý nhìn "Huyền Chân". Quả nhiên mặt lão ra vẻ đau đớn khổ cực, hình như có câu chuyện gì hết sức quan hệ muốn nói ra, phải nói ra ngay tức khắc. Nhưng vì thần trí lão vẫn hôn mê, dù là nói ra việc gì cũng chẳng ai thèm để ý. Thực có ngờ đâu rằng câu chuyện mà lão muốn nói ra lúc đó có quan hệ lớn lao với cả võ lâm, cục diện sẽ thay đổi ngay và Nhâm Vô Tâm cũng bớt được lo lắng, sầu khổ. Khốn nỗi, huyệt đạo bị bế tắc, lão nói làm sao thành tiếng.

Nhâm Vô Tâm thong thả nói, "Nếu có xe cộ, thì khẩn cấp phải đưa "Huyền Chân" đạo trưởng đến chỗ các tay danh y của ta, lo chữa cho khỏi bệnh đã..."

Giọng chàng khi rõ, khi không, có vẻ cố gắng lắm mới nói ra được mấy câu. Phải để ý lắm mớ nghe hiểu được.

Diệu Pháp ngấm ngầm thở dài, quay mặt đi có ý thương hại, kinh dị. Cả Bách Duy cũng có ý tiếc cho chàng là tay hảo hán, vì sa cơ mà đến nỗi mất hết tinh thần tráng chí.

Chợt nghe một tiếng hô to, một người vọt mình tới, chính là Diệu Quả, mặt mày hớn hở, nói, "Sư huynh tôi liệu việc như thần! Gian hàng ấy quả nhiên có cỗ xe. Tuy rằng cũ kỹ nhưng hình như được sửa chữa, còn dùng được. Tôi đã lôi lại để trước cửa. Chỉ cần đợi ngựa nữa là khởi hành được!"

Vừa nói vừa ngó quanh một lượt, rồi thở dài, nói tiếp, "A! Nhưng ở đây làm gì có ngựa?"

Diệu Vũ mỉm cười nói, "Đã có nhị sư huynh đảm nhận, muốn có hai trăm con ngựa, cũng chẳng khó gì!"

Bách Duy ra vẻ không tin, vừa toan hỏi ở đâu ra mà sẵn vậy thì tai nghe tiếng vó ngựa "lộp độp" mỗi giây mỗi gần hơn. Bách Duy trố mắt, lắng tai, vẻ mặt kinh dị.

Một chuỗi cười vang từ ngoài cửa, liền đó Diệu Không bước vào trong nhà, vẻ mặt với dáng bộ y nhiên như lúc ra đi,không có gì khác. Nhìn mọi người, hắn cúi mình, nói, "May mắn! Không nhục sứ mệnh!"

Dứt lời hắn quay mình trở ra ngoài, thoắt cái lại quay trở vào, cười mà rằng, "Quả nhiên là hai con ngựa tốt!"

Bách Duy giật mình nghĩ thầm, "Tay này thực không ngờ là tài ba đến cỡ ấy!"

Diệu Pháp hỏi, "Đôi ngựa kiếm được ở đâu? Phải nói thực ra!"

Giọng hỏi tuy nghiêm nghị nhưng vẻ mặt thì không chút giận dữ, hình như hắn đã thừa biết bằng cách nào Diệu Không kiếm ra được đôi ngựa ấy.

Diệu Không khom mình, cười nói, "Vô luận là tiểu đệ kiếm ở đâu ra, miễn là chính đáng và hợp lý, trong bụng không xấu hổ, khỏi hối hận."

Diệu Pháp gật đầu khen "được"! Diệu Không, Diệu Quả nhìn nhau cười, và trong ánh mắt lờ đờ của Nhâm Vô Tâm hình như cũng hơi thoáng lẹ qua một nét cười.

Diệu Pháp ra lệnh, "Đóng ngựa vào xe luôn... còn đợi gì!"

Diệu Vũ, Diệu Quả cùng "dạ... dạ", quay trở ra, một loáng sau trở vào đợi lệnh.

Chỉ thấy Diệu Pháp khom mình, nói với Nhâm Vô Tâm, "Vãn bối với Diệu Không sư đệ giong xe, Diệu Vũ với Diệu Quả sư đệ kèm hai bên để hộ vệ. Xin Nhâm tướng công nghỉ ngơi để dưỡng sức. Bên ngoài, vô luận là xảy ra việc gì, đã có anh em vãn bối lo liệu."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, lập tức ôm xốc "Huyền Chân" lên chạy ra xe, trong khi Diệu Pháp lại khom mình nói với Bách Duy, "Đại sư bị thương nặng, không nên cử động mạnh. Tam và tứ sư đệ nâng đỡ đại sư cho khéo đó!"

Diệu Vũ, Diệu Quả "dạ dạ" rồi nâng đỡ Bách Duy ra xe. Bề ngoài chiếc xe có vẻ cũ kỹ, nhưng bên trong được bọn Diệu Vũ đã lau rửa sạch sẽ.

Nhâm Vô Tâm phủ phục ở trong góc thùng xe, nhắm mắt cúi đầu, không ai biết chàng thức hay ngủ. "Huyền Chân" nằm ở trong lòng chàng, vẻ mặt đau đớn khổ cực. Bách Duy ngồi bên, nghĩ thầm rằng, "Nếu như ở dọc đường đi mà Nhâm Vô Tâm cứ để yên không giải huyệt cho Huyền Chân thì sẽ ra sao?"

Xe chuyển bánh đã lâu. Coi bộ Nhâm Vô Tâm ngủ có vẻ mê mệt. Bách Duy vờ nhắm mắt, kỳ thực vẫn ti hí hé coi xem Nhâm Vô Tâm có cử chỉ động tĩnh gì chăng? Hắn cố đưa cánh tay phải ra, sẽ sẽ đặt ở gần sát mặt chàng.

Nhâm Vô Tâm chợt động hai vai. Bách Duy giật mình rụt tay lại, thì Nhâm Vô Tâm đã trở mình đi, quay mặt vào vách xe và ngủ ra vẻ say sưa lắm. Một lúc nữa thì chàng ngáy lên mỗi lúc mỗi lớn. Lại một lúc sau, Bách Duy sẽ sẽ dịch người lại sát bên "Huyền Chân", sẽ thì thầm vào lỗ tai lão, "Có nghe ta nói đây không? Hãy thở mạnh lên ba tiếng làm hiệu."

Quả nhiên "Huyền Chân" thở lên ba tiếng dài. Bách Duy liền hỏi, "Có điều gì muốn nói? Ta tạm giải huyệt cho nhé! Nhưng chỉ nên giải huyệt trong chốc lát thôi, và mỗi ngày giải huyệt một lần, xong câu chuyện lại bế huyệt trả lại vì e Nhâm Vô Tâm phát giác ra thì khốn to."

Dứt lời Bách Duy đưa tay phải ra điểm huyệt một cái trên mình "Huyền Chân".

Nhưng nếu Bách Duy mà biết ra rằng Huyền Chân trong xe lúc đó chẳng phải là Huyền Chân do Nam Cung thế gia phái đi làm gián điệp. Nếu lão biết rằng Huyền Chân này chỉ muốn được nói với Nhâm Vô Tâm một đôi lời thì dù cho chặt đầu Bách Duy đi, Bách Duy cũng chẳng dám giải huyệt ra cho Huyền Chân!

Hồi thứ bốn mươi tám

Cờ thua một nước

Xe ngựa đi chừng nửa giờ, bàn tay Bách Duy luôn luôn đưa đi đưa lại trên mình "Huyền Chân", mắt vẫn liếc nhìn cử chỉ của Vô Tâm. Nhưng mặc dù hắn làm đủ mọi cách, vẫn không sao giải nổi huyệt đạo cho "Huyền Chân".

Bách Duy thở dài lẩm bẩm, "Không ngờ Vô Tâm lại có thủ pháp điểm huyệt độc môn thế này! Không biết làm thế nào giải được bây giờ?" Giữa lúc ấy chợt nghe "Huyền Chân" cũng thở dài một tiếng. Bách Duy hỏi, "Ngươi có biết cách giải huyệt không? Có biết thì nói mau lên!"

Hắn nói tới đấy mới chợt nhớ ra "Huyền Chân" đã bị điểm huyệt, còn nói thế nào được? Hắn lại tuyệt vọng thở dài, ruột gan nóng như lửa đốt, kỳ thật thì trong bụng "Huyền Chân" lúc ấy có lẽ còn bồn chồn hơn cả Bách Duy.

Ngày đi đêm nghỉ, không biết trải qua bao nhiêu lâu, Bách Duy đã thử nhiều lần, vẫn không sao giải được huyệt cho "Huyền Chân" mà vết thương của hắn tuy đã gần khỏi, nhưng còn một cánh tay vẫn không vận chuyển được như ý.

Anh em Diệu Pháp thì vì tuổi trẻ, sinh lực đang bồng bột, nên chưa biết lo, họ cho là họ có thể làm được hết mọi sự và ở trên đời không có việc gì là khó cả!

Vô Tâm được nghỉ ngơi mấy ngày, sắc diện đã bớt tiều tuỵ, nhưng thần trí vẫn còn lúc mê lúc tỉnh, có khi chàng ngồi ngây ra tới bốn năm giờ, đôi mắt đăm đăm nhìn qua cửa sổ, chẳng nói chẳng rằng.

Hôm ấy đã đi tới địa phận Dự Châu, Diệu Quả chợt trỏ tay về phía trước, cười nói, "Lạ chưa kìa, ban ngày ban mặt, mà sao lại có người đi đường phải thắp đèn?"

Diệu Không cười nói, "Mỗi nơi có một phong tục lạ, mình không biết lại còn cười người ta!"

Diệu Quả nói, "Chiếc đèn ngũ sắc đẹp quá, trông như đồ chơi của trẻ con."

Bách Duy thấy nói là đèn ngũ sắc, bất giác giật bắn người lên, hắn vừa chợt nhớ tới trên chiếc cẩm nang thứ hai có đề rằng, "Lúc nào trông thấy chiếc đèn lồng bằng giấy ngũ sắc thì mở ra xem. Nhưng nếu dưới chiếc đèn không có xác người, thì phải đốt ngay cẩm nang đi."

Bách Duy tuy đã thuộc lòng mấy câu ấy, nhưng vẫn yên trí rằng gặp đèn lồng tất phải vào lúc đêm tối, nên khi nghe thấy Diệu Quả nói có người xách đèn lồng, hắn cũng không để ý. Lúc này hắn mới hốt hoảng, thò đầu ra cửa sổ hỏi, "Đâu? Chiếc đèn lồng ngũ sắc đâu?"

Diệu Quả ngoảnh lại cười nói, "Vừa rồi có hai người xách đèn lồng, nhưng họ đã rẽ vào con đường nhỏ từ nãy rồi."

Bách Duy kinh sợ buột miệng hỏi, "Dưới chiếc đèn lồng có cái xác chết nào không?"

Diệu Quả ngơ ngác hỏi, "Xác chết? Dưới đèn lồng thì phải có xác chết à?"

Bách Duy tự biết lỡ lời, vội cười gượng lấp, "Ta hỏi đùa đó thôi. Nhưng người xách đèn lồng hình dạng thế nào? Trạc độ bao nhiêu tuổi?"

Bọn Diệu Pháp thấy hắn hỏi tỉ mỉ như vậy, đều lấy làm kinh ngạc. Diệu Quả sẽ đáp, "Họ đứng xa quá nên trông không rõ, nhưng hình như tuổi cũng còn trẻ, quần áo đều màu đen, mặt mũi trông không rõ lắm."

Bách Duy cau mày nghĩ thầm, "Có lẽ đúng là người phía ta rồi!"

Diệu Vũ chợt hỏi, "Tiền bối hỏi kỹ thế, hẳn đã nhận thấy sự gì lạ chăng?"

Bách Duy chột dạ, gượng cười nói, "Có gì lạ đâu? Ta cũng giống tính Diệu Quả hiền khế, hay tò mò, nên hỏi cho biết thế thôi!"

Nói xong lại rụt đầu vào trong xe, nghĩ thầm, "Dưới ngọn đèn lồng không có xác người, theo lời dặn ta phải huỷ chiếc cẩm nang này đi. Nhưng hãy để thong thả đã, đừng hấp tấp mà lỡ việc."

Giữa lúc ấy, chợt nghe có tiếng vó ngựa rầm rập từ phía sau đưa lại, chốc lát đã vượt qua cỗ xe. Bách Duy trông theo chỉ kịp nhân thấy ba con ngựa, người ngồi trên ngựa đều mặc võ phục đen, và mỗi đầu ngựa đều treo một chiếc đèn lồng bằng giấy ngũ sắc.

Bách Duy còn đang ngẩn người suy nghĩ, đã nghe tiếng Diệu Quả kêu lên, "Kìa kìa, lại thêm ba chiếc đèn lồng ngũ sắc nữa kìa!"

Bọn Diệu Pháp lúc này đều đã linh cảm thấy những chiếc đèn lồng kia tất phải có ẩn ý gì, nhưng không hiểu những ẩn ý ấy có liên quan gì tới bọn mình không?

Diệu Vũ trầm ngâm một lát rồi nói, "Ba người này với hai người ban nãy nhất định là đồng bọn. Không hiểu họ đi đâu mà cùng tỏ ra vội vã hấp tấp thế không biết?"

Diệu Quả nói, "Sư huynh có đoán ra bọn này là ai không?"

Diệu Vũ đáp, "Năm người này có nhiều chỗ giống nhau, xem thế đủ hiểu chắc họ đều là người của một môn phái bí mật nào, và môn phái ấy tất đang hội họp ở đâu, nên mới truyền lệnh cho đệ tử dùng đèn lồng làm biểu ký cầm tới dự hội."

Diệu Pháp nói, "Nhưng từ khi xuất sơn đến giờ, ta chưa từng thấy nói trong giang hồ có môn phái nào dùng đèn lồng ngũ sắc làm biểu ký. Không khéo lại là đảng phái Nam Cung thế gia cũng nên?"

Diệu Vũ lắc đầu, "Không phải, theo sự nhận xét của tiểu đệ thì phái này chắc là mới thành lập, nhưng thế lực cũng lớn lắm. Vì thế mà bọn đệ tử đi đường không cần phải tránh tai mắt mọi người."

Diệu Không nói, "Môn phái ấy đã không quan hệ gì tới mình, thì mặc người ta, hơi đâu mà xét đoán cho mệt?"

Mọi người cười cười nói nói một hồi, không câu nào lọt ra khỏi ta Bách Duy. Hắn nghĩ thầm, "Bọn đó nhất định là môn hạ của Nam Cung thế gia, không biết họ hội họp ở phía trước có việc gì? Hoặc giả cũng là vì việc Nhâm Vô Tâm chăng? Nếu không thì sao Ngũ phu nhân lại phải trao cẩm nang cho mình?"

Cỗ xe vẫn tiếp tục đi lên, ước chừng thổi chín nồi cơm. Vô Tâm chợt gọi to, "Quay về bên trái!"

Diệu Pháp sẽ gò dây cương, chú ý nhìn về phía trước, chỉ thấy trên đường cái vết xe ngựa chi chít ngổn ngang, người đi đường cũng đông vui tấp nập, rõ ràng là đã sắp tới một thị trấn.

Bên trái có con đường nhỏ, cỏ tốt ngập đầu, che kín cả lối đi. Nếu không chú ý, tất không mấy ai biết. Diệu Pháp tuy đánh xe rẽ vào đó, nhưng bụng vẫn nghi hoặc, buột miệng hỏi, "Phải con đường này không?"

Vô Tâm gật đầu, "Đúng rồi, ngươi sợ ta thần trí mê man, trỏ lầm đường chăng?"

Diệu Pháp đỏ mặt nói, "Không dám giấu tướng công, tại hạ sợ con đường vắng vẻ thế này, rất có thể chỉ là đường cụt?"

Vô Tâm cười nói, "Đường này ta nhớ rõ lắm, không thể sai được, đừng sợ!"

Chợt chàng hạ thấp giọng, nói nhỏ, "Ngươi có biết con đường này ăn thông tới đâu không?"

Diệu Pháp lắc đầu, "Xin tướng công chỉ rõ cho!"

Vô Tâm nói, "Hồi nọ tại hạ vì muốn đối phó với Nam Cung thế gia nên mới đón một số cao nhân về đây tương tụ. Bọn họ tuy phần đông không phải là người có võ nghệ, nhưng mỗi người đều có một sở trường riêng. Vì muốn tránh tai mắt Nam Cung thế gia, nên tại hạ mới phải chọn chỗ bí mật này cho họ trú ngụ. Con đường này chỉ là một trong những lối đi vào đó."

Diệu Pháp nghe chàng nói năng có đầu đuôi rành mạch, trong bụng cũng mừng thầm, liền nói, "Tướng công lo xa nghĩ sâu, bọn vãn bối thật không sao theo kịp."

Xe ngựa càng vào sâu bên trong, đường đi càng khúc khuỷu gập ghềnh, bánh xe thỉnh thoảng lại bị cỏ dài quấn vào. Diệu Vũ, Diệu Quả đành phải xuống xe đi theo phía sau để gỡ cỏ.

Đang đi chợt nghe đánh "sầm" một tiếng, hình như xe đụng phải cái gì. Vô Tâm vội hỏi, "Xem có phải bên đường có nửa cái bia đá không?"

Diệu Pháp dừng xe lại. Diệu Vũ rảo bước đi lên, chợt giẫm chân nói, "Bia đá đây rồi!"

Vô Tâm lại hỏi, "Mé bên trái có cái gò phải không?"

Diệu Pháp đảo mắt nhìn quanh, rồi đáp, "Có cái gò thật!"

Vô Tâm mở cửa xe nhảy xuống, rồi nói với Bách Duy, "Đại sư đi lại bất tiện, chi bằng hãy nằm trên xe mà nghỉ!"

Bách Duy vội nói, "Không sao! Bần tăng thương thế đã bớt, có thể đi theo tướng công được mà!"

Nói xong cũng nhảy xuống xe. Diệu Không tình nguyện ở lại coi xe, còn tất cả mọi người đều theo Nhâm Vô Tâm đi về phía gò bên trái.

Đứng xa trông cái gò chỉ nhỏ bằng tí, nhưng lúc tới gần mới thấy sừng sững một toà, không kém gì trái núi nhỏ, trên gò chỉ toàn những thứ cây lăng nhăng đủ các loại, không có đường lên. Vô Tâm nói, "Chúng ta đi vòng qua hết cái đồi này, tức là tới cửa bí mật vào động."

Diệu Quả nói, "Đệ tử xin đi mở đường."

Nói xong xăm xăm đi lên trước, nhưng vừa qua chỗ đường vòng, thốt nhiên kêu lên một tiếng khủng khiếp, rồi bước lùi lại mấy bước. Bọn Vô Tâm đều sợ tái mặt, vội quát hỏi, "Cái gì thế?"

Diệu Quả mặt nhợt như tờ giấy, giơ tay chỉ về phía trước không nói được nên lời. Mọi người đều rảo bước tiến lên, bất giác cũng đều rú lên một tiếng, đứng dừng cả lại.

Thì ra họ vừa trông thấy trong bóng tối có hai câu sào dài, trên đầu sào treo hai chiếc đèn ngũ sắc, và bên cạnh hai chiếc đèn còn buộc lủng lẳng bốn năm chiếc đầu lâu, máu tươi hãy còn nhỏ giọt.

Dưới bãi cỏ, thẳng chỗ treo đầu người xuống, còn có bốn năm cái xác không đầu, nằm thành một dãy. Đủ hiểu là những người này chết chưa được bao lâu, có thể chỉ trước khi bọn này tới đó một lát.

Diệu Vũ chỉ tay lên một chiếc đầu lâu treo trên sào, run run nói, "Cái... cái đầu kia chính là người ban nãy cưỡi ngựa vượt qua xe chúng mình."

"Diệu Vũ đạo huynh thử khám mấy cái xác xem họ chết về bị thương ở đâu? Và có thấy vật gì khả nghi không? Diệu Quả đạo huynh thì đi xét quanh đây xem quân địch đã đi xa chưa?"

Chỉ trong phút chốc, có lẽ vì bị kích thích quá độ, nên tâm trí Vô Tâm đã trở lại bình tĩnh như thường. Chàng điều khiển công việc thật đâu ra đấy. Diệu Vũ tinh mắt nên sai đi khám thây. Diệu Quả nhanh chân nên phái đi dò địch. Hai người vâng lệnh đi rồi, chàng bảo Diệu Pháp, "Còn đạo huynh nên ở lại đây, sách ứng cho các mặt. Nếu thấy gì lạ thì hú lên báo hiệu, tại hạ sẽ chạy đến ngay."

Diệu Pháp hỏi, "Tướng công định đi đâu?"

Vô Tâm buồn rầu đáp, "Trong bí huyệt lúc này, quang cảnh không biết đã biến chuyển đến thế nào, tại hạ thử đi điều tra xem sao."

Diệu Pháp nói, "Tướng công không nên mạo hiểm, xin cho đệ tử cùng theo để tiện tiếp ứng."

Vô Tâm chợt quay lại nhìn Bách Duy. Bách Duy hiểu ý nói, "Tướng công cứ yên tâm đi đi. Bần tăng tuy tàn phế nhưng còn đủ sức đương nổi trọng trách."

Vô Tâm nói, "Nếu thế tại hạ đành phải bái phiền đại sư vậy."

Nói xong lập tức cùng Diệu Pháp quay đi. Bách Duy thấy Diệu Quả đi đã lâu rồi, còn Diệu Vũ đường đang lúi húi khám xét tử thi, không để ý gì đến mình, bèn vội lẩn vào chỗ khuất mở cẩm nang ra xem. Chỉ thấy trong cẩm nang có một mảnh giấy biên đặc chi chít những chữ. Thì ra đó là một tờ mật thư.

Trong thư đại ý nói rằng, "Nơi đây chính là một trong những sào huyệt của Vô Tâm, còn mấy tên xách đèn lồng làm ám hiệu lúc nãy bị giết ở dưới cây đèn kia toàn là phe đảng của Nhâm Vô Tâm bị người nhà Nam Cung thế gia mua chuộc làm nội ứng, và dẫn bọn môn hạ Nam Cung thế gia về bí huyệt giết đồng bọn.

Nhưng sau khi đã quét sạch sào huyệt của Nhâm Vô Tâm rồi, bọn môn hạ Nam Cung thế gia lại giết luôn cả mấy tên nội ứng nữa, vì sợ để chúng có ngày mang hoạ. Trong thư còn dặn Bách Duy kiếm cớ hạ cây đèn xuống, trong đèn có một cái ống ngang, ruột ống có mảnh giấy dặn dò kế hoạch, bảo Bách Duy chiếu theo kế đó mà làm. Còn Huyền Chân thì phải đi về phía đông cách đó ba dặm, tức khắc có người chờ liên lạc."

Bách Duy xem xong cẩm nang, thở phào một tiếng như vừa trút được gánh nặng. Thế là bao nhiêu sự nghi hoặc đã tháo gỡ được tất cả. Nhưng yên tâm một lúc, hắn lại lo không biết "Huyền Chân" bị điểm huyệt thế kia thì làm sao mà đi tới chỗ hẹn được? Hay để mình đi thay vậy?

Kế đó hắn thủng thỉnh bước tới bên Diệu Vũ, hỏi, "Đạo huynh đã tìm thấy gì chưa?"

Diệu Vũ chỉ vào mấy đồ vật để ngổn ngang dưới đất nói, "Mấy vật này đều tìm được ở trong tử thi, toàn là vật dụng thường, không có gì lạ. Tiền bối coi thử xem."

Bách Duy cúi xuống xem chỉ thấy mấy mũi chuỷ, một ít tiền lẻ, mấy cái chìa khoá, mấy chiếc khăn tay nhỏ, ngoài ra không còn vật gì đáng để ý thật.

Hắn lại hỏi Diệu Vũ, "Những vết thương chí mạng của họ ở đâu? Đạo huynh có tìm thấy không?"

Diệu Vũ nói, "Những cái xác này mới trông thì tưởng bọn họ bị một đao chém bay đầu, nhưng nếu để ý nhìn kỹ mới thấy là họ đều chết trước khi bị cắt đầu. Cứ xem chỗ vết thương kia máu chảy ít như vậy thì đủ rõ."

Bách Duy gật đầu khen phải. Diệu Vũ trầm ngâm một lát rồi lại nói, "Việc này lạ lắm, đệ tử nói ra, chỉ sợ tiền bối lại buồn."

Bách Duy tái mặt, trống ngực đập thình thịch vội hỏi, "Sao? Sao? Việc này có liên quan đến bần tăng à?"

Diệu Vũ cúi xuống vạch vạt áo của một tử thi lên, nói, "Tiền bối xem đây sẽ biết."

Bách Duy chú ý nhìn kỹ, chỉ thấy phía ngực bên trái, chỗ gần quả tim nạn nhân có dấu bàn tay tím đen, năm ngón tay in rõ rành rành, hình như đây là một công phu ngoại gia rất lợi hại.

Diệu Vũ đăm đăm nhìn Bách Duy, hỏi, "Chưởng lực này là công phu của phái nào? Tiền bối có nhận ra không?"

Bách Duy ngẩn người ra một lát rồi lẩm bẩm, "Thiếu Lâm..."

Diệu Vũ cau mày, "Nếu tiền bối đã nhận ra, tất không phải đệ tử trông lầm. Đệ tử không ngờ chưởng lực "Phục ma kim cương" lại có cái uy lực khủng khiếp đến thế!"

Bách Duy lẳng lặng một lúc rồi nói, "Kim cương chưởng lực tuy lợi hại, nhưng không phải ai cũng luyện được tới trình độ này. Cứ xem những cái vết tím đen trên ngực nạn nhân đây đủ biết là hoả hầu của người này còn ở trên bần tăng."

Diệu Vũ kinh sợ hỏi, "Ở trên đại sư? Hay là... hay là..."

Bách Duy thở dài, "Ngươi hà tất phải rụt rè... Trên đời này người luyện Phục ma kim cương chưởng tinh thuần hơn bần tăng chỉ có vài ba người. Bần tăng không nói ra, người khác cũng biết."

Diệu Vũ cúi đầu nói, "Đệ tử không tin rằng Bách Nhẫn hoặc Bách Đại đại sư lại có thể bị nhà Nam Cung thế gia mua chuộc."

Bách Duy tỏ vẻ buồn bã nói, "Bần tăng tuy không muốn tin, nhưng cũng không thể không tin được."

Diệu Vũ lẳng lặng giây lâu rồi nói, "Nhưng chỗ kỳ quái, không những chỉ có thế. Đây đại sư trông!"

Vừa nói vừa cúi xuống lật vạt áo của một nạn nhân khác ra, chỉ cho Bách Duy coi. Thì ra chỗ gần quả tim trên ngực người này cũng có một vết đen lớn bằng ngón tay, nhìn kỹ mới biết vết đen ấy chỉ là một lỗ thủng nhỏ, thịt bên trong đã thối nát, nhưng không thấy có máu.

Bách Duy tuy lịch duyệt giang hồ đã lâu, các môn võ công được trông đã nhiều mà lúc này thấy vết thương đó, cũng không khỏi sửng sốt bàng hoàng.

Giữa lúc ấy chợt nghe phía sau có một tiếng gọi nhỏ. Bách Duy quay lại, đã thấy Vô Tâm đi tới. Diệu Vũ hỏi, "Tướng công có biết lai lịch môn võ công này không?"

Vô Tâm cúi xuống nhìn kỹ một lúc rồi lắc đầu. Bách Duy nói, "Vết thương này mới thoạt trông thì giống vết ám khí tẩm độc, nhưng bần tăng không dám quyết đoán là ám khí loại nào."

Diệu Vũ thở dài nói, "Nếu là vết thương do ám khí gây nên, thì cũng chẳng lấy gì làm lạ."

Bách Duy vội hỏi, "Có lẽ đạo huynh đã nhân ra không phải là ám khí ư?"

Diệu Vũ lại mở vạt áo nạn nhân ra, nói, "Xin các vị trông đây. Mảnh áo này tuy đầy những máu nhưng không có lỗ thủng. Nếu là ám khí, tất phải xuyên qua áo chứ?"

Bách Duy gật đầu khen, "Đạo huynh nhận xét tinh tế lắm, đây chắc là chỉ lực mà chỉ lực của người này tất đã luyện tới trình độ cách sơn đả ngưu, trích diệp thương nhân rồi. Người ấy ngoài Nam Cung phu nhân ra thì còn ai nữa?"

Vô Tâm lắc đầu nói, "Nam Cung phu nhân không khi nào lại thân hành tới chỗ này. Theo ý tại hạ thì rất có thể đám này do Tố Thủ Lan Cô cầm đầu!"

Mọi người bất giác đều rùng mình yên lặng, không khí khủng khiếp như đang bao trùm lên đầu họ. Một lúc lâu, Bách Duy mới hỏi Vô Tâm, "Tình cảnh trong bí huyệt ra sao, tướng công có tìm thấy dấu vết quân địch không?"

Vô Tâm cau mày nói, "Tình trạng trong động, tại hạ thật không muốn nhắc lại, nếu đại sư muốn biết, thì xin cứ vào hẳn trong đó mà xem. Diệu Pháp đạo huynh hiện còn đang liệu lý hậu sự, tại hạ không sao đứng nán lại được một phút nào nữa."

Diệu Vũ thấy chàng sắc mặt đã tái xanh, ngơ ngác như người mất vía, thì sợ quá, vội nắm lấy tay chàng, cười gượng nói, "Đệ tử với tướng công thử dạo quanh khu này xem có thấy gì lạ không, đi!"

Nói xong không cần đợi chàng trả lời, cứ cầm tay lôi đi xềnh xệch. Vô Tâm lúc này hình như không còn biết gì nữa, cứ để mặc cho Diệu Vũ muốn lôi đi đâu thì lôi.

Bách Duy chờ hai người đi khỏi, mới đưa mắt nhìn quanh bốn phía, sau khi đã yên trí là không có ai nhìn trộm, bèn đẩy đổ cây sào xuống, xé chiếc đèn lồng ra, quả nhiên thấy bên trong có cái ống nứa nằm ngang, hắn tháo cái ống, vừa định chẻ ra xem bên trong có chỉ thị gì, thì chợt nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đi tới.

Bách Duy hốt hoảng, vội giấu cái ống vào tay áo, rồi quay lại nhìn, thì ra là Diệu Quả. Hắn cố lấy giọng bình tĩnh hỏi, "Đạo huynh có tìm thấy gì lạ không?"

Diệu Quả mồ hôi đầm đìa trên trán, vừa thở vừa nói, "Chẳng thấy gì cả, thật là phí công!"

Bách Duy nói, "Sao đạo huynh không chịu khó tìm kỹ xem, biết đâu chúng không nấp vào một chỗ kín đáo nào đó, đạo huynh chỉ đi lướt qua, làm sao mà thấy được?"

Hắn biết tính Diệu Quả nóng nảy hấp tấp, nên mới nói như vậy. Quả nhiên Diệu Quả đứng ngẩn người ra, cười gượng, "Tiền bối nói đúng, đệ tử quả chỉ xem qua thật."

Bách Duy nói, "Vậy thì đạo huynh ở đây coi, để bần tăng đi tra lại một lượt xem sao."

Diệu Quả nói, "Ai lại thế. Thôi để đệ tử đi xem lại vậy."

Miệng nói chưa dứt, thân hình đã bay xa tới mấy trượng. Bách Duy nhìn theo thấy hắn đi về phía đông, chợt nhớ lời dặn trong cẩm nang, bất giác sợ cuống lên, vội gọi, "Đạo huynh đừng đi về phía đó, không có quân địch nấp ở đó đâu!"

Diệu Quả dừng chân, ngạc nhiên hỏi, "Sao tiền bối biết?"

Bách Duy ngẩn người, ấp úng, "Ừ, ta biết... biết chứ!"

Hắn lúng túng không biết tìm câu gì nói cho xuôi, lại thấy Diệu Quả đôi mắt cứ nhìn vào mặt hắn chòng chọc, lại càng sợ toát mồ hôi, mãi một lúc mới lắp bắp, "Chỉ vì... chỉ vì lão tăng thấy ba mặt kia đều có... có tiếng chim ráo rác, duy có mặt ấy thì không... nên đoán thế!"

Diệu Quả chớp chớp mắt mấy cái, rồi nói, "Thôi được! Để đệ tử đi sang lối khác vậy."

Nói xong quả nhiên thay đổi phương hướng, lập tức đi ngay.

Bách Duy trông thấy sắc diện của hắn, biết hắn đối với những lời giải thích của mình, hình như vẫn có vẻ bất mãn, thì sợ nửa chừng hắn lại hối mà quay về.

Lúc này bốn bề đã vắng vẻ không người. Bách Duy lại lấy chiếc ống nứa đập vỡ ra, bên trong quả có một mảnh giấy xanh cuộn tròn lại, bèn mở ra đọc.

Trong thư đại ý dặn Bách Duy và "Huyền Chân" phải liên thủ với nhau, luôn luôn theo sát bên cạnh Vô Tâm. Nếu có sự gì cần phải báo cáo, thì mỗi lần gặp miếu Thổ địa, sẽ viết thư gói vào một mảnh giấy trắng nhét xuống đáy bát hương. Nếu thấy trong bát hãy còn nén hương cháy dở thì dưới đĩa đèn tất có chỉ thị để sẵn ở trong cái ống đèn xanh, dặn hai người nhớ lấy ra mà xem...

Bách Duy đọc một hơi hết bức thư, nghĩ thầm, "Hiện giờ "Huyền Chân" đã bị điểm huyệt nằm một chỗ, ta phải liên lạc với ai bây giờ?"

Điều làm cho hắn lo ngại hơn hết là Ngũ phu nhân đã giao mật giản cho hắn, sao lại còn bảo "Huyền Chân" đi một mình tới gặp người kia? Hay là Ngũ phu nhân còn có điều gì muốn giấu hắn, hoặc giả phu nhân lại sai "Huyền Chân" ngầm hại hắn chăng?

Nghĩ tới đây, hắn lại lạnh toát cả xương sống. Nói của đáng tội, hắn tuy là người của Nam Cung thế gia mà đối với những thủ đoạn tàn khốc của Nam Cung thế gia hắn vẫn phải luôn luôn đề cao cảnh giác, không dám lơ là.

Lúc này hắn không còn thì giờ suy nghĩ lâu nữa, bèn lập tức đề khí tung mình chạy như bay.

Ra khỏi đấy chừng ba bốn trượng, chỉ thấy bốn bề toàn là giống cỏ dại, cao tới ngang thắt lưng, hắn liền nằm rạp xuống bò dần đi.

Bò trong ruộng cỏ một lúc khá lâu, chợt nghe đâu đây có tiếng sột soạt như rắn bò lướt trên mặt cỏ. Bách Duy mừng lắm, liền dừng lại lắng tai nghe, thấy cái tiếng ấy mỗi lúc một gần. Hắn liền dồn tụ chân lực vào cánh tay phải, đề phòng.

Nhưng cũng ngay lúc ấy lại nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đưa tới. Bách Duy nghĩ thầm, "Người này khinh công khá lắm, chắc Diệu Quả. Hắn đi do thám mà cứ lộ liễu như vậy, thì còn dò xét được gì nữa?"

Kế lại nghe đánh "vụt" một tiếng, một bóng người đã lướt qua đầu hắn mà đi, mỗi lúc một xa dần, còn cái tiếng rắn bò sột soạt vừa rồi, cũng dừng lại cách đó vài trượng.

Cách một lúc lâu, cái tiếng áo bay phần phật lúc nãy lại vùn vụt trở lại, và lướt qua đầu hắn một lần nữa, nhưng vẫn không biết là hắn ở trong đồng cỏ. Môn khinh công "thảo thượng phi" của người này thật đã cao hơn người một bực, mà cái tính vô ý vô tứ của y trên đời chắc cũng chỉ có một không hai.

Bách Duy lắc đầu than thầm, "Chẳng trách hắn tìm đi tìm lại mãi vẫn chẳng thấy gì, thì ra hắn tìm bằng cái lối đó."

Lúc này cái tiếng sột soạt lại nổi lên, thanh âm mỗi lúc một nhẹ, một chậm hơn, mà hình như không phải chỉ có một người.

Bách Duy nhìn quanh, thấy về mé tay trái có một vũng nước nhỏ bằng cái chậu tắm, hắn bèn mon men bò tới, lăn xuống vũng nấp. Cũng may cái vũng ấy tuy nhỏ nhưng cũng sâu tới gần hai thước, nên cũng đủ cho hắn dung thân.

Hắn vừa dìm mình xuống nước xong, thì cái tiếng sột soạt ban nãy đã tiến lại gần, Bách Duy sẽ liếc mắt trông quả thấy hai cái bóng mặc võ phục đen đang bò dần tới, mặt mũi bị cỏ che khuất nên trông không được rõ.

Lúc này Bách Duy đã nhận ra hai người đó chính là môn hạ Nam Cung thế gia, đáng lý hắn không cần phải ẩn náu, nhưng vì hắn vẫn có một chút tư tâm, nên không muốn cho ai trông thấy.

Hai người bò tới cách vũng nước còn ba bốn thước thì dừng lại, đưa mắt nhìn quanh bốn phía ra ý tìm tòi, khi đã chắc chắn không có ai rồi, người đi trước mới giơ tay ra hiệu cho người đi sau. Người đi sau bèn lập tức bò lại gần, rồi cả hai cùng sóng vai nằm phục xuống bãi cỏ. Một người thì thầm nói, "Thằng bé ấy ở trong động làm gì mà lâu thế? Báo hại chúng mình cứ phải nằm đây canh mãi."

Người kia nói, "Chúng mình không những chỉ ở đây canh chừng bọn chúng, mà còn phải chờ một người..."

Người nọ lại thì thào đáp lại, "Tôi chỉ sợ là Bách Duy tiết lộ ra, nếu tên kia biết mình ở đây thì nguy lắm."

Người kia cười nói, "Theo ý tiểu đệ thì Bách Duy mật lớn tày trời cũng không dám liều đến thế."

Người nọ cười nhạt, "Nếu hắn không lớn mật sao dám lẻn vào Thiếu Lâm nằm vùng?"

Người kia gật đầu, "Huynh đài nói cũng có lý, nhưng Bách Duy từ trước vẫn một dạ trung thành với Nam Cung thế gia, nay sao bỗng dưng lại giở quẻ?"

Gã nọ cười nhạt, "Tin gì cái thằng lão tặc đó!"

Gã kia lại nói, "Nếu vậy thì sao Ngũ phu nhân còn tín nhiệm hắn?"

Gã nọ lạnh lùng nói, "Sao huynh đài biết là Ngũ phu nhân vẫn tin hắn? Hôm nay phu nhân sai chúng ta đến đây liên lạc với "Huyền Chân" là vì cớ gì? Chẳng lẽ huynh đài lại không biết hay sao?"

Người kia lắc đầu, gã lại nói, "Để tiểu đệ nói cho huynh đài nghe. Ngũ phu nhân bảo ta dặn "Huyền Chân" phải lưu ý tới hành động của Bách Duy. Khi nào xét thấy cần thiết thì phải dùng ngay "Mê tâm tán" của bản môn đổ cho hắn uống."

Bách Duy nghe tới đấy, tưởng chừng như bị một thùng nước lạnh dội suốt từ đỉnh đầu xuống, khắp người như nổi da gà. Hắn thật không ngờ mấy chục năm trời cúc cung tận tuỵ phục vụ cho Nam Cung thế gia để đổi lấy cái kết quả cay đắng như ngày nay.

Hắn tự vấn lương tâm thật chư làm điều gì đắc tội với nhà Nam Cung thế gia, không hiểu tại sao họ lại đối xử với mình như vậy?

Hắn còn băn khoăn chưa tìm được giải đáp, thì may sao gã áo đen cao lớn đã lên tiếng hỏi hộ hắn, "Bách Duy tính tình dẫu xảo quyệt nhưng mấy năm nay hắn đối với Nam Cung thế gia nhà ta, thật đã hết lòng hết sức, tại sao Ngũ phu nhân vẫn còn ngờ?"

Gã thấp bé lạnh lùng đáp, "Hắn cùng bọn Nhâm Vô Tâm từ Điền gia thôn tới đây, dọc đường chỉ chúi vào một xó, không dám thò mặt ra ngoài. Vô Tâm thì đã đành rồi, nhưng còn Bách Duy thì vì cớ gì mà cũng dám ra mặt liên lạc với bọn ta? Trong đó tất phải có nguyên cớ!"

Gã kia gật đầu, hắn lại tiếp, "Bách Duy không ra mặt, cũng chẳng nói làm gì, nhưng còn "Huyền Chân" đã giả điên giả dại, sao cũng cả ngày núp ở trong xe? Có thể hắn đã bị Vô Tâm điểm huyệt, nhưng tại sao Bách Duy không giải huyệt cho hắn, và tìm cách cho hắn hoạt động? Xem đó đủ thấy việc này có nhiều bí ẩn đáng ngờ."

Gã cao lớn lẳng lặng một lúc rồi lại nói, "Biết đâu không phải là do anh chàng đóng vai "Huyền Chân"..."

Gã thấp bé vội ngắt lời, "Không phải đâu, người ấy là kẻ thân tín của Thái phu nhân, đến Ngũ phu nhân còn phải kiêng nể, ta không nên phê bình. Riêng về phần Bách Duy còn hai điểm đáng ngờ nữa, ấy là ba gã Bách Hộ, Bách Phù, Bách Vệ từ hôm ở Điền gia thôn đến giờ bỗng dưng biết mất, vậy thì họ đi đâu?"

Gã kia nói, "Ừ nhỉ! Điều ấy tiểu đệ cũng đã nghĩ tới, mà không sao đoán ra được!"

Gã nọ cười nhạt, "Ba người ấy đều là tâm phúc của Bách Duy, tất nhiên họ được Bách Duy phái đi đâu vì việc cơ mật gì đó. Bách Duy đã không dám đem việc ấy trình với Ngũ phu nhân, thì đủ hiểu là hắn có gian ý."

Gã kia hình như lúc ấy mới tỉnh ngộ, bèn nói, "À ra thế! Vậy thì Ngũ phu nhân định đối xử với hắn làm sao?"

Gã nọ đáp, "Cho tới hôm nay, phu nhân vẫn lờ như không biết gì hết, chỉ vì hắn tuy bội phản nhưng chưa có chứng cớ xác thực. Vả lại lúc này vẫn còn có nhiều việc cần phải lợi dụng hắn."

Bách Duy nghe tới đấy mới hiểu hết đầu đuôi, trong bụng vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm, "Hừ, đã thế ta cần gì phải tận trung với họ, bất nhược ta giúp Nhâm Vô Tâm phản lại Nam Cung thế gia cho mà coi!"

Chợt lại nghe gã áo đen nói, "Tuy nhiên ta cũng chẳng sợ gì hắn, vì hắn tuy gian hoạt, nhưng cũng không đến nỗi mù quáng. Cuộc chiến đấu lần này Nhâm Vô Tâm tất đã nắm chắc phần thua, hắn dù bội phản ta theo phe kia, cũng chẳng qua chỉ được một thời gian, rồi cũng chết. Hay nói một cách khác, dù Nhâm Vô Tâm có thắng đi nữa,nhưng hắn đã hãm hại Bách Nhẫn, bội phản sư môn, đó là một tội rất lớn. Chùa Thiếu Lâm môn quy xưa nay vốn đã rất nghiêm, dù hắn có công to đến đâu cũng không thể chuộc được hết tội. Lúc ấy Vô Tâm dẫu có thế lực tày trời cũng không cứu nổi hắn."

Bách Duy nghe hắn nói tới đấy, mồ hôi lại toát ra như tắm. Gã áo đen nói thực không sai, lúc này tình thế của hắn đã như cưỡi trên lưng hổ, tiếng cũng dở mà thoái cũng không xong.

Giữa lúc ấy chợt lại nghe tiếng quần áo bay phần phật từ xa đưa lại. Bách Duy chợt nảy ác ý, nắm lấy một nắm bùn, viên thành từng viên nhỏ.

Hắn ngẩng mặt trông lên đã thấy một cái bóng xám bay tới bên mình. Hắn cong ngón giữa và ngón tay cái thành vòng tròn, nhè nhẹ búng một cái... chỉ nghe "vút" một tiếng, viên bùn xé luồng không khí bay ra. Hắn vì không muốn lộ hình tích, lưng bàn tay để áp xuống mặt đất, nên viên bùn ném không trúng đích, nhưng cũng đủ làm cho người ta phải để ý.

Hai cái bóng đen giật mình vội nhỏm người lên trông ra bốn phía để dò xét, đồng thời cái bóng xám đang bay cũng dừng lại, rơi xuống ruộng cỏ. Người ấy chính là Diệu Quả.

Hai gã áo đen đã trông rõ bóng địch, vội nhảy lùi ra hơn một trượng, đứng thành thế ỷ giốc. Diệu Quả cũng vội rút thanh trường kiếm ra, cầm sẵn ở trong tay.

Ba người đứng trong ruộng cỏ gườm gườm nhìn nhau, chẳng khác gì ba con thú dữ rình mồi.

Một lúc không lâu, Diệu Quả đã sốt ruột, không sao dằn nổi, đã nắm chặt lấy đốc kiếm, tiến lên. Bách Duy thở dài than thầm, "Diệu Quả dại dột khinh địch như thế chỉ tự mua lấy cái chết."

Hắn lại quay mặt nhìn về phía kia, thấy người áo đen phía sau đã đứng cách vũng nước hắn nấp chỉ còn xa độ bốn thước, hai tay duỗi thẳng về phía trước, lưng cúi lom khom, năm ngón tay cong lên như móng ưng, nhỡn quang lóng lánh, thần tính cực kỳ hung ác. Người phía trước cũng đã đứng lên, lấy tấn để đợi nghênh địch.

Diệu Quả tay cầm trường kiếm, đôi mắt luôn luôn đưa đi đưa lại, hai chân hình như nặng tới ngàn cân, nên cứ bước dần từng bước một cách rất chậm chạp. Có lẽ hắn cũng còn e dè vì chưa biết rõ lực lượng của địch thủ.

Hai gã áo đen cũng bắt đầu di động thân hình, nhưng lúc nào cũng giữ một mực độ cách nhau như trước, đó chính là một bộ pháp đặc biệt, làm cho đối phương xuất thủ khó lòng trúng đích.

Diệu Quả chợt hú lên một tiếng, tức thì một luồng ánh sáng xanh lè phóng ra như một chiếc cầu vồng vắt ngang nền trời, nhằm thẳng người cao lớn đánh tới.

Thanh trường kiếm xé luồng không khí rít lên thành tiếng, kiếm phong tinh nhuệ, tấn tốc dị thường.

Gã áo đen không ngờ đối phương tuổi còn nhỏ mà kiếm pháp đã ghê gớm như vậy, trước hắn đã định dùng chiêu thức tay không bắt binh khí, nhưng lúc này lại không dám chỉ vội vàng lùi lại mấy bước, tránh thoát thế kiếm.

Diệu Quả đã định hạ đối phương ngay tức khắc, nên thanh kiếm trên tay luôn luôn rung động, luồng kiếm quang xanh biếc loang loáng tuôn ra, liên tiếp điểm vào mấy huyệt lớn ở hai bên cạnh sườn và sau lưng gã nọ.

Chỉ trong nháy mắt đó gã áo đen bé nhỏ đã lẻn đến phía sau lưng Diệu Quả. Hắn thấy đồng bạn bị nguy, nhưng vẫn chưa ra tay vội, hai cánh tay nửa co nửa duỗi, mười ngón tay xoè ra vây chặt lấy phía sau Diệu Quả.

Lúc này Bách Duy cũng đã len lén bò ra khỏi vũng nước giơ cánh tay lên tác thế, chuẩn bị xông vào.

Hắn thấy Diệu Quả sắp nguy đến nơi, nhưng lại không chịu ra tay ngay, hình như cố ý chờ cho Diệu Quả bị thương đã, rồi mới tiếp cứu thì phải?

Diệu Quả chỉ mải giết cho kỳ được người áo đen trước mặt, bao nhiêu tinh thần chuyên chú vào mũi kiếm, nên không đề phòng có kẻ rình đánh lén sau lưng.

Mà gã áo đen thấp bé cũng tuyệt đối không ngờ là trong bụi cỏ còn có một người nữa, cũng đang lăm lăm định đánh trộm mình.

Tình thế lúc này giống hệt như cái cảnh bọ ngựa bắt ve sầu, mà không dè rằng phía sau còn có con hoàng tước đang chờ sẵn.

Gã cao lớn gắng gượng chống đỡ được năm chiêu, vừa toan cất tiếng gọi đồng bạn tiếp cứu, thốt nhiên một luồng sáng xanh loé lên, rồi máu đỏ phun ra như mưa, gã chỉ kịp rú lên một tiếng, cả cái thân hình đồ sộ đã ngã ngửa xuống ruộng cỏ, tắt thở lập tức.

Nhưng cũng ngay lúc ấy, gã áo đen nấp sau lưng Diệu Quả vội giơ chưởng lên, mười đầu ngón tay của gã đã cắm vào hậu hối và bên sườn Diệu Quả, lực lượng ma chảo kinh hồn đó so với mười thanh đoản kiếm có lẽ còn bá đạo hơn.

Và đồng thời cánh tay của Bách Duy cũng ráng sức vung lên đập vào thiên linh cái của gã.

Gã áo đen chưa kịp rút tay về, vừa ngửa cổ lên cười được một tiếng, đã nghe phía sau có luồng kình phong ập tới. Trong lúc hốt hoảng, không kịp tránh né, chỉ gắng gượng quay lại, nhưng một chưởng của Bách Duy đã đập lên vai hắn đồng thời còn co một chân lên, đá hắn bắn xa ra mấy thước, luôn cả Diệu Quả cũng bị cuốn theo.

Bách Duy tuy bị thương mới khỏi, nhưng nội lực tu dưỡng mấy chục năm đâu phải tầm thường? Huống hồ hắn lại xúc thế từ lâu, nên một cái đá với một chưởng ấy sức mạnh đến thế nào đủ hiểu, gã áo đen có mình đồng da sắt cũng cũng không chịu nổi. Gã chỉ kịp kêu một tiếng, rồi thân hình cũng theo đà chân của Bách Duy bay tung lên, rồi rơi xuống đất, chết thẳng.

Từ lúc Diệu Quả rút kiếm ra cho tới lúc đó, thời gian bất quá chỉ trong khoảnh khắc, mà ba tay cao thủ võ lâm đã lần lượt gục ngã.

Bách Duy trống ngực đập thình thình đủ hiểu tâm hồn hắn đang kích thích tới cực điểm. Hắn biết hắn vừa làm một việc quá ư mạo hiểm, nếu chẳng may gã áo đen không chết, thì chuyến này không hiểu nhà Nam Cung thế gia sẽ hành tội hắn đến thế nào?

Hắn thở phào một tiếng đưa mắt nhìn khắp xung quanh, khi đã chắc chắn không ai, mới lấy ra một chiếc khăn tay, buộc chặt bàn tay lại, rồi kéo ba cái xác đặt ra ba góc, hình như tam giác.

Hắn nắm bàn tay cầm kiếm của Diệu Quả đâm vào gã thấp bé mấy nhát, che giấu vết thương bị chưởng lực của hắn đánh trúng, dàn thành một cảnh ác chiến giữa ba người và cùng đâm chết lẫn nhau.

Mọi việc vừa xong, hắn lại thò tay vào túi hai người áo đen khám kỹ một lượt, thấy trong mình người cao lớn có vài món đồ dùng lặt vặt và một hạt đào nhỏ bằng vàng đúc rất khéo, y như món đồ chơi của những nhà phú quý.

Bách Duy cũng không xem kỹ chỉ bỏ luôn vào túi, rồi lại khám tới người bé nhỏ. Trong mình người này ngoại trừ mấy món đồ vặt, còn có cái ngân bài mặt chính khắc một chữa "lệnh" bốn bên khắc ba mươi sáu ngôi sao, mặt trái cũng có hai chữ "Địa Sát" theo lối cổ triện. Xung quanh cũng khắc toàn ngôi sao, nhưng còn thêm một mảnh trăng lưỡi liềm nữa. Bách Duy nghĩ thầm, "À, thì ra tên này là người trong bảy mươi hai chức địa sát, thảo nào mà hắn hống hách như vậy. Nhưng không biết tên hắn là gì?"

Hắn lại cúi xuống xem kỹ lần nữa, thấy trong mình gã bé nhỏ còn có một chiếc bình ngọc, có lẽ là bình thuốc mê mà gã dự định sai "Huyền Chân" lén cho Bách Duy uống.

Cái làm cho Bách Duy chú ý nhứt là một phong thư rất dầy dán kín, trên không đề tên ai, chỉ đóng một cái dấu có chữ "lệnh" giống hệt cái dấu trên ngân bài.

Bách Duy ngần ngừ một lát rồi ghé răng cắn dấu phong bì định lôi phong thư ra xem. Chợt nghe phía xa có tiếng người gọi, "Tứ sư đệ! Bách Duy đại sư!"

Bách Duy giật mình, biết là Diệu Vũ đang đi tìm mình và Diệu Quả, bèn vội giấu phong thư vào trong bít tất. Tiếng gọi mỗi lúc một gần, đó chính là chỗ tinh tế của Diệu Vũ, nếu hắn cứ ngậm miệng mà đi thì dù có quân địch nấp trong bụi cỏ, cũng không sao dò ra được. Và nếu trong ruộng cỏ quả có quân địch thì chắc chắn Bách Duy và Diệu Quả đã bị hại rồi, dù hắn có im hơi lặng tiếng cũng khó lòng tránh khỏi con mắt đối phương và như thế thì chỉ làm cho đối phương có thì giờ chuẩn bị, nấp trong bóng tối đánh kẻ ngoài sáng thật dễ như trở bàn tay.

Đằng này hắn cứ vừa đi vừa gọi réo lên như thế, tuy rằng đả thảo kinh xà, nhưng cũng đủ làm cho đối phương kinh sợ, và nếu hai người kia chưa bị hại, thì nghe tiếng gọi tất phải thưa lên, thế là đỡ mất công tìm kiếm.

Nhưng Diệu Vũ có ngờ đâu sự khôn ngoan của mình lại dùng không đúng chỗ. Vừa rồi Bách Duy đã lấy phong mật thư ra đọc, nếu hắn cứ len lén đi tới, thì thế nào cũng bắt đúng quả tang, Bách Duy hết đường chối cãi, đằng này chẳng những hắn đã đủ thì giờ giấu bức thư đi, lại còn kịp bố trí để che đậy tội lỗi. Hắn lại lăn mình xuống nước, nhưng có ý tỳ cánh tay cụt xuống trước cho vết thương vỡ ra, rồi nhắm mắt lại vờ ngất đi.

Tiếng gọi vừa dứt, lại nghe tiếng rẽ cỏ lào xào, rồi tiếp theo là một tiếng rú khủng khiếp của Diệu Vũ, thì ra hắn đã trông thấy xác sư đệ.

Hắn đứng lặng người như chôn xuống đất, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Mãi một lúc sau, hắn mới cố gắng định thần, bước tới bên gã áo đen cao lớn, vạch mấy vết thương của gã ra xem một cách rất tỉ mỉ.

Hắn cầm thanh kiếm trong tay Diệu Quả lên, lấy vạt áo chùi một chút máu dính trên mũi kiếm, đem so với máu gã áo đen, rồi gật gù nói một mình, "Tên này quả bị lão Tứ giết thật, kể cũng không đến nỗi lỗ vốn!"

Hắn lại cúi xuống xem kỹ thi thể của Diệu Quả, thấy trên xương sống của nạn nhân bị người dùng công phu "Ma chảo lực" đánh bầm tím nhiều chỗ, hắn cầm bàn tay người bé nhỏ lên coi, chỉ thấy bàn tay khô quắt, đen thui thủi trông giống bàn tay ma, mười đầu ngón tay dính đầy những máu, rõ ràng là Diệu Quả đã chết bởi những cái móng tay ấy.

Diệu Vũ oán hận đầy lòng, cặp mắt quắc lên như nảy lửa. Hắn chợt thét to một tiếng, co một chân lên đá phốc cái xác của gã thấp bé bắn xa mấy thước. Bách Duy từ nãy vẫn hé mắt trông trộm, thấy Diệu Vũ khám mấy cái thi thể kỹ quá, trong bụng đã hơi run, chỉ lo khi hắn thử tới máu gã thấp bé, thấy không có ở trên thanh kiếm của Diệu Quả, thì gian mưu của hắn bị bại lộ mất.

Nhưng may làm sao, Diệu Vũ chẳng những đã không xét xác gã cẩn thận như mấy cái xác kia,lại còn đá hắt đi chỗ khác, hắn mới thở phào một hơi, như vừa trút được gánh nặng. Đoạn lại rụt đầu chui vào vũng nước, chẳng quản mắt mũi, mồm miệng đều dính đầy bùn.

Hồi thứ bốn mươi chín

Cố nhịn đau bày khổ nhục kế

Đứng sững một lúc lâu, Diệu Vũ lại thò tay vào mình từng người, tìm xem có thấy gì lạ không. Bách Duy thấy thế trống ngực lại đánh liên hồi.

Tìm mãi không thấy gì, Diệu Vũ lộ vẻ kinh ngạc, bèn từ từ đứng lên bới trong bụi cỏ xung quanh như muốn kiếm vật gì. Thốt nhiên hắn trông thấy vũng nước bèn vội nhảy bổ tới.

Bách Duy vẫn nằm yên không dám thở, chỉ nghe Diệu Vũ kêu lên một tiếng, dường như lấy làm kinh ngạc lắm.

Kế đó hắn lại thấy bị người xốc nách nhấc bổng lên bờ, đặt nằm trên bãi đất phẳng.

Diệu Vũ lấy tay sẽ lay vai hắn, vừa lay vừa gọi, "Đại sư, tỉnh dậy, đại sư..."

Bách Duy vẫn giả vờ thiêm thiếp, thốt nhiên hắn thấy Diệu Vũ thò tay vào mình hắn, như muốn tìm cái gì, hắn sợ quá vội kêu lên một tiếng, rồi cố gắng vùng dậy ngồi lên... Diệu Vũ ấn hắn nằm xuống, nói, "Đại sư tỉnh hẳn chưa? Hãy nằm yên đừng cựa vội!"

Bách Duy vẫn nhắm nghiền hai mắt, làm như vẫn còn mê sảng, kêu rầm lên, "Buông ra... Diệu Quả đạo huynh mau tránh ra... lão tăng liều mạng với chúng... mau!"

Lão dàn cảnh thật khéo, làm cho Diệu Vũ cũng tin là thật, ngậm ngùi nói, "Đại sư, đệ tử đây mà! Diệu Quả bị ác tặc giết chết rồi..."

Hắn nói đi nói lại mấy lần, Bách Duy hình như mới dần dần hồi tỉnh, bèn mở choàng mắt ra, ngơ ngác nhìn Diệu Vũ, lẩm bẩm nói, "Ngươi là ai?"

Vừa nói vừa lấy tay dụi mắt, dường như quên cả Diệu Vũ. Diệu Vũ buồn bã đáp, "Đệ tử là Diệu Vũ... Diệu Vũ... Đại sư quên rồi ư?"

Bách Duy đăm đăm nhìn hắn một lúc, rồi hình như đã hơi nhớ ra, gật gù lẩm bẩm, "Diệu Vũ... ờ... phải rồi, ngươi đã đến đấy à? Tốt!"

Diệu Vũ xé một mảnh vạt áo lau sạch những vết bùn trên mặt Bách Duy, rồi hỏi, "Đại sư thấy trong mình thế nào?"

Bách Duy chỉ lắc đầu, mặt mày nhăn nhó, như đang cố nhớ lại những việc đã qua. Một lúc khá lâu, hắn mới chợt hoảng hốt kêu lên, "Diệu Quả đạo huynh đâu rồi? Có bị thương không? Đạo huynh đi tìm hắn đi, tôi không sao đâu! Đừng lo! Đi đi!"

Diệu Vũ thấy hắn sốt sắng lo cho Diệu Quả như vậy thì cảm động lắm, nghẹn ngào không nói nên lời. Một lúc sau mới ứa nước mắt nói, "Diệu Quả sư đệ tôi đã... đã..."

Bách Duy trợn tròn đôi mắt, hỏi bằng một giọng run run, "Sao? Sao? Diệu Quả đạo huynh làm sao? Hay... hay hắn bị quân thù sát hại rồi?"

Diệu Vũ nước mắt ròng ròng, chỉ gật đầu không nói. Bách Duy dậm chân, nghiến răng rít lên, "Quân khốn nạn, quân gian tặc! Mi trốn lên mây xanh bần tăng cũng quyết đuổi theo, băm vằm mi ra nghìn mảnh mới hả!"

Diệu Vũ gượng cười nói, "Hắn đã bị chết về tay sư đệ đệ tử rồi. Điều ấy đại sư khỏi lo. Bây giờ đại sư hãy ngồi nghỉ một lát cho lại sức, rồi sẽ cùng đệ tử về xe."

Bách Duy ngồi ngây ra một lát, chợt vò đầu bứt tai lầm bầm oán trách, "Ngươi làm cái gì ở trong ấy mà tới bây giờ mới ra? Nếu ngươi ra sớm một chút thì đâu đến nỗi..."

Diệu Vũ thở dài nói, "Nhâm tướng công bảo anh em tôi nhặt hết những tử thi chôn vào một ngôi mộ, khỏi để thi thể của các vị võ lâm hiệp nghĩa phơi thây cho dòi bọ đục khoét, mãi tới bây giờ mới xong."

Bách Duy nghe nói cũng hơi động lòng, nghĩ thầm, "Nhâm Vô Tâm đối với người chết mà còn giữ thuỷ chung chu đáo như vậy mà nhà Nam Cung thế gia thì dù đối với người sống cũng tàn khốc vô tình, coi như giẻ rách, thực cũng đáng buồn!"

Diệu Vũ lại nói, "Trong khi đệ tử đi nhặt từng cái xác chết ghép lại cho đủ bộ, chợt lại phát hiện được một việc kinh hồn."

Bách Duy giật mình hỏi, "Việc gì?"

Diệu Vũ đáp, "Nhân số trong bí động cả thảy có bảy mươi tám người mà chỉ tìm thấy có bảy mươi bảy cái xác. Còn một người nữa không biết đi đâu?"

Bách Duy đôi mắt sáng lên, nói, "Nhâm tướng công đã cùng với bảy mươi tám người ấy ở với nhau lâu ngày, bây giờ thiếu mặt ai tất phải biết chứ?"

Diệu Vũ thở dài, "Đệ tử cũng hỏi thế, nhưng Nhâm tướng công không chịu nói, có lẽ Nhâm tướng công không muốn tiết lộ tên tuổi người ấy ra sợ bị Nam Cung thế gia phái người đi theo ám toán chăng?"

Bách Duy lẳng lặng giây lâu rồi lại hỏi, "Vừa rồi ngươi bảo mới phát hiện được một việc kinh hồn chỉ là việc ấy thôi sao?"

Diệu Vũ do dự một lát rồi nói, "Đệ tử đã xét nghiệm, nhặt mấy chục thi hài, thấy người nào cũng bị chém đầu mà chết, trông bề ngoài thì tưởng là họ chết trong một tình trạng y hệt như nhau, nhưng nếu xem kỹ thì lại khác hẳn."

Bách Duy vội hỏi, "Khác ở chỗ nào?"

Diệu Vũ đáp, "Trong số những thi hài đó, phần nhiều máu đã đọng lại, tỏ ra họ chết ít nhất cũng được nửa giờ, ngoài ra còn có sáu cái thi thể, mãi tới lúc chúng tôi tìm thấy, máu hãy còn chảy ròng ròng. Mấy cái đầu lâu treo ở trên sào đèn cũng có máu chảy nhỏ giọt, chắc đại sư còn nhớ?"

Bách Duy gật đầu, "Đúng! Nhưng thế thì có gì là bí mật?"

Diệu Vũ nói, "Vì đại sư không lưu ý, nên mới cho là thường, để đệ tử nêu lên vài điểm này, chắc đại sư sẽ nhận ra ngay. Điểm thứ nhất, điều đáng ngờ của nó là ở chỗ mấy chục cái xác phần nhiều đều chết vào khoảng hơn nửa giờ trước đây, tuy có kẻ chết trước, người chết sau, nhưng thời gian không chênh lệch nhau lắm. Điều đó rất có thể là Nam Cung thế gia trong lúc bất ngờ, xuất lĩnh đại đội tấn công, làm cho mọi người trong bí động trở tay không kịp, lại vì có võ công hơi kém, nên đồng thời đều bị giết một lượt. Điểm thứ hai, sáu cái xác còn chảy máu kia, ít nhất cũng chết sau bọn người kia nửa giờ. Nếu sáu người đó toàn là tay cao thủ, có thể cầm cự được lâu hơn thì đã đành, đằng này nghe Nhâm tướng công nói thì sáu người đó võ công có thể kém nhất trong động, vậy thì tại sao họ lại chết sau bọn kia tới nửa giờ?"

Bách Duy gật gù, "Ờ! Điều ấy kể cũng hơi lạ."

Diệu Vũ nói, "Điểm cốt yếu của việc này chính là ở chỗ nửa giờ cách biệt đó. Không có lý nào bọn Nam Cung thế gia giết xong mấy chục người kia, rồi lại thốt nhiên nghỉ tay nửa giờ, hoặc là bỏ đi đâu nửa giờ? Vậy trong nửa giờ ấy, họ làm gì?"

Diệu Vũ càng nói càng say sưa hăng hái, tựa như đang tranh luận một vấn đề gì. Bách Duy ngẫm nghĩ một lát, dường như đã hơi đoán rõ chân tướng, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ ngơ ngác, lẩm bẩm một mình, "Ừ nhỉ! Lạ quá! Lạ quá!"

Diệu Vũ lại nói, "Lại nữa, mấy chục người chết trước, thi thể đều ở trong bí động, mà sáu người chết sau lại ở ngoài động, nếu bảo là mấy người ấy trốn ra khỏi động rồi mới bị giết thì cũng vô lý, vì trước tình thế ấy, người trốn ra được tất phải có võ nghệ cao cường, đằng này lại trái ngược hẳn. Cứ xét ba điểm khả nghi đó, đủ thấy việc này còn nhiều bí ẩn rắc rối. Đại sư kinh nghiệm phong phú, kiến thức hơn người, chắc đã đoán ra rồi chứ?"

Bách Duy lắc đầu cười gượng, "Bần tăng già nua ngu tối, làm sao mà phán đoán được? Đạo huynh thông minh tinh tế, hà tất phải nhún mình!"

Diệu Vũ do dự một lát, rồi nói, "Đệ tử đoán mãi, cũng chỉ giải thích được một cách gượng ép, không dám quyết là đúng hay sai. Đệ tử cho là sáu người kia tất đã cấu kết với Nam Cung thế gia từ lâu, nên khi tiết lộ căn động bí mật này cho bọn kia biết, và tình nguyện làm nội ứng cho họ."

Bách Duy giật mình, buột miệng hỏi, "Đạo huynh có tìm được chứng cứ gì không?"

Diệu Vũ lắc đầu, "Nếu có chứng cứ thì việc gì còn phải xét đoán nữa?"

Bách Duy đằng hắng một tiếng rồi nói, "Nếu họ đã làm nội ứng cho nhà Nam Cung thế gia thì sao lại còn bị giết?"

Diệu Vũ nói, "Vì nếu nhà Nam Cung thế gia để sáu người ấy lại, thì thế nào cũng có ngày bị họ mưu phản, cũng như họ đã mưu phản Nhâm Vô Tâm hôm nay, nên họ giết đi để trừ hậu hoạn. Và dó cũng chính là thủ đoạn của Nam Cung thế gia xưa nay."

Bách Duy nghe xong lạnh toát cả người, nghĩ bụng nếu hắn không huỷ phong mật thư vừa rồi, thì nhất định lúc này hắn đã ngờ cho Diệu Vũ nhặt được ở đâu mà xem trộm.

Diệu Vũ lẳng lặng giây lâu, lại nói, "Đại sư há không nghe câu "thỏ chết chó bị phanh thây, chim kia đã hết cung này để chi" hay sao? Giống cái thủ đoạn của nhà Nam Cung thế gia cũng tàn khốc như thế đấy! Hôm nay làm một kẻ tay chân đắc lực của Nam Cung thế gia, ngày mai rất có thể chết dưới mũi kiếm của họ!"

Bách Duy chỉ cảm thấy chân tay lạnh toát, mấy câu cảm khái của Diệu Vũ khác nào như cốt để cảnh cáo hắn.

Hai người cùng im lặng một lúc. Diệu Vũ chợt hỏi, "Bây giờ xin đại sư nói cho đệ tử biết tại sao Diệu Quả lại bị bọn thuộc hạ Nam Cung thế gia giết?"

Bách Duy thở dài nói, "Nhâm tướng công và các vị vừa đi khỏi một lát, bần tăng chợt thấy đau bụng, bèn tìm một chỗ vắng vẻ để đi cầu. Không ngờ giữa lúc đó chợt nghe từ phía xa xa có tiếng binh khí va chạm nhau. Bần tăng xong việc, vội vã chạy tới. Khi tới chỗ cỏ rậm liền nằm phục xuống mà bò. Bò được một lúc, chợt nghe phía trước mặt có tiếng người nói. Bần tăng vội nằm sát xuống đất lắng tai nghe, nhưng tiếng nói nhỏ quá, nên chẳng nghe thấy gì hết, chỉ biết là hình như họ đang bàn luận việc gì thì phải."

Bần tăng đang áp tai xuống đất, cố nghe cho rõ, không dè một cái bóng từ đâu đã lướt qua đỉnh đầu, kèm theo tiếng quần áo bay phần phật.

Bần tăng đoán chắc người ấy là lệnh sư đệ, chưa kịp tìm cách báo động, thì hắn đã bay xa tới hơn một trượng, và đi thẳng tới phía có người mai phục.

Hắn ngừng một lát như cố nén xúc động, rồi lại tiếp, "Bần tăng còn đang luống cuống, không biết làm cách gì cản kịp, thì mấy mũi ám khí đã từ trong bụi cỏ bay ra, nhưng lệnh sư đệ cũng không phải tầm thường, mấy mũi ám khí đó cũng chẳng làm gì nổi hắn. Nhưng chân khí của hắn đã bị tán ra, thân hình liền rơi ngay xuống bãi cỏ."

Trong bãi cỏ có hai tên mặc áo đen, thấy lệnh sư đệ rơi xuống, bèn lập tức chia ra hai phía, trong hai tên có một tên võ nghệ hơi cao, nếu lệnh sư đệ tấn công ngay tên ấy thì không đến nỗi. Bất đồ hắn lại nhắm vào tên kém, dốc toàn lực ra mà đánh, tên võ công đứng ngoài được rảnh tay bèn thừa thế tập kích vào sau lưng hắn.

Diệu Vũ sẽ rùng mình. Bách Duy lại kể tiếp, "Bần tăng thấy thế, sợ quá, không còn kịp nghĩ tới sự an nguy của mình nữa, vội xông ngay ra tiếp cứu. Nhưng trong lúc hốt hoảng quên phứt đi mất là cánh tay trái của mình đã không làm gì được, cả nửa mình bên phải hoàn toàn bỏ trống, rất dễ bị quân địch tấn công. Quả nhiên vừa giơ tay lên đã bị gã nọ xoay mình phóng ra một chưởng, thế là từ đấy không còn biết gì nữa."

Diệu Vũ nghe xong, trầm ngâm giây lát, rồi thở dài, "Đại sư đã tận lực giúp tiện sư đệ, dẫu không cứu được nhưng cũng đủ tỏ ra đại sư là một bực hiệp nghĩa nhân tâm, đệ tử thực muôn vàn cảm kích."

Bách Duy nói, "Đã là bạn đồng chí tất phải có bổn phận cứu giúp lẫn nhau. Đạo huynh nói chi đến hai chữ "cảm kích"?"

Diệu Vũ nói, "Nhâm tướng công chắc đang chờ ta, bây giờ để đệ tử đưa đại sư về trước."

Bách Duy nói, "Vết thương của bần tăng còn đau lắm, thế nào cũng phải nhờ đạo huynh vực về, nhưng còn thi hài của lệnh sư đệ..."

Diệu Vũ nói, "Đệ tử hãy đưa đại sư về trước, rồi sẽ đem thi hài tiểu sư đệ về sau."

Bách Duy nói, "Theo ý bần tăng, thi hài để ở đây, không người canh giữ, lỡ bị dã thú tha đi thì phiền. Bất nhược đạo huynh hãy đem thi hài lệnh sư đệ về trước, rồi hãy ra đón bần tăng cũng được."

Diệu Vũ nói mãi, hắn cũng nhất định không nghe, đành phải vâng lời, bế pháp thể Diệu Quả về trước.

Bách Duy chờ Diệu Vũ đi khỏi, lại lấy phong thư ban nãy ra xem. Trong thư đại ý tóm tắt như sau, "... Sau khi gặp "Huyền Chân" lại phải ngầm theo dõi xe Nhâm Vô Tâm. Lần này rất có thể hắn sẽ tới Hồi Thanh Cốc ngoài thôn Tam Tính. Trong thôn có ngôi miếu Thổ địa và trong bát hương có để sẵn mật lệnh. Cứ theo đó mà thi hành, không cần phải liên lạc với cấp trên vội. Các việc cứ tự ý mà làm."

Bách Duy đọc xong, vo tròn mảnh giấy vứt xuống vũng nước.

Giữa lúc ấy chợt nghe trong bụi cỏ lại có tiếng sột soạt. Bách Duy sợ quá vội quay lại nhìn, thì vừa gặp một con mắt cũng đang nhìn mình chòng chọc.

Bách Duy chỉ thấy xương sống lạnh toát, bất giác rùng mình một cái. Thốt nhiên nghe tiếng nói một ông già từ trong bụi rậm đưa ra, "Người ngồi đó có phải là môn hạ Thiếu Lâm núi Tung Sơn tên gọi Bách Duy không?"

Bách Duy run run hỏi, "Ngươi là ai? Sao lại biết tên bần tăng?"

Trong bụi lại nghe có tiếng cười khanh khách, rồi một ông già bộ mặt đầy sẹo, tóc tai bù xù, chột mắt, cụt một bên chân và một bên tay, mình mặc áo rách, tay chống gậy trúc cũng theo tiếng cười nhảy vụt ra.

Bách Duy giật mình kinh sợ, vội bước lùi lại hai bước. Ông già cụt tay toét miệng ra cười, hai hàm răng nhọn hoắt trắng nhỡn nhe ra như muốn cắn ai.

Hai người trừng mắt nhìn nhau một lúc, chợt người cụt tay rảo bước tiến lên, giơ bàn tay đầy lông lá đập vào vai Bách Duy.

Bách Duy hoảng hốt toan kêu lên, nhưng cổ họng như tắt lại không sao thốt lên thành tiếng. Không ngờ người cụt tay chỉ sẽ vỗ nhẹ lên vai hắn, thở dài nói, "Đáng tiếc, đáng tiếc, cánh tay này hỏng mất rồi, không sao cứu được nữa."

Bách Duy thấy người cụt tay nói năng hoà nhã, đôi mắt cũng dịu lại, không lạnh lùng như ban nãy, mới hơi yên tâm, liền hỏi, "Tiền... tiền bối muốn chỉ giáo điều gì?"

Người cụt tay chợt lại sầm mặt, nói như gắt, "Ngươi muốn tra hỏi lai lịch lão phu à?"

Bách Duy vội nói, "Đệ... đệ tử đâu dám..."

Người cụt tay nói, "Ngươi hà tấtphải hỏi lai lịch lão phu. Lão phu là bạn chứ không phải là thù, ngươi cứ yên trí."

Bách Duy ấp úng, "Dạ, dạ..."

Người cụt tay thủng thỉnh nói, "Vết thương ở cánh tay ngươi tuy không thể cứu được nữa, nhưng ngươi đã vì các bạn võ lâm đồng đạo mà bị thương, lão phu sẽ có cách bồi thường, rồi đây, nếu có dịp lão phu sẽ truyền cho ngươi "chưởng pháp độc tý"."

Bách Duy vừa sợ vừa mừng, luôn miệng cảm ơn. Lão cụt tay chợt nghiêm giọng hỏi, "Nhâm Vô Tâm độ này có được mạnh không?"

Bách Duy thở phào một tiếng như vừa trút được một gánh nặng, nghĩ thầm, "À, thì ra lão quen Nhâm Vô Tâm." Rồi cung kính thưa rằng, "Nhâm tướng công gần đây công việc bận lắm, nhưng thân thể vẫn được khang kiện."

Người cụt tay cặp mắt long lanh nói, "Ngươi chớ nói với hắn là có gặp ta nghe không? Ta không muốn giáp mặt hắn lúc này."

Bách Duy lúng túng, "Đệ tử xin nhớ!"

Lão cụt tay lại nói, "Ngươi về bảo Vô Tâm phải giải huyệt cho Huyền Chân ngay, hiểu chưa?"

Bách Duy ngạc nhiên, nhìn lão một lúc, rồi hỏi, "Huyền Chân đã bị loạn trí, tiền bối muốn giải huyệt cho hắn làm gì?"

Người cụt tay nổi giận nói, "Lão phu bảo ngươi như thế, tất phải có lý do, ngươi có biết tuân lệnh, còn hỏi lôi thôi làm gì?"

Bách Duy ngập ngừng, "Nhưng... nhưng tiền bối đã không cho đệ tử nói là có gặp tiền bối, thì nếu Nhâm tướng công hỏi vì cớ gì phải giải huyệt ngay cho Huyền Chân, đệ tử biết trả lời thế nào?"

Người cụt taycau mày nói, "Ngươi ngần ấy tuổi đầu, mà không biết tìm cách gì bảo Nhâm Vô Tâm giải huyệt cho Huyền Chân, còn phải đợi lão phu dạy nữa hay sao?"

Bách Duy cười một cách khổ sở, "Nhưng... nhưng bần tăng..."

Người cụt tay lại quát, "Thôi im đi! Ngươi cứ bảo Nhâm Vô Tâm giải huyệt xong, tự khắc Huyền Chân sẽ nói rõ cho hắn nghe."

Bách Duy rất lấy làm ngạc nhiên, không hiểu tại sao ông già kỳ dị này cứ nhất định bắt Vô Tâm giải huyệt cho Huyền Chân để làm gì? Dụng ý của ông ta ở chỗ nào? Còn đang băn khoăn nghĩ ngợi, chợt lại nghe ông già nói, "Ngươi không bảo được Nhâm Vô Tâm thì tự mình giải lấy không được hay sao?"

Bách Duy lắc đầu, "Vô Tâm điểm huyệt bằng một thủ pháp riêng, đệ tử làm sao mà giải nổi?"

Người cụt tay nói, "Khó gì? Để ta truyền cho ngươi cách giải."

Bách Duy khấp khởi mừng thầm, vội quỳ xuống xin thụ giáo. Người cụt tay hình như đã chuẩn bị từ trước, bèn lấy trong mình ra một mảnh giấy gấp thành ba góc, nói, "Đây là thủ pháp điểm huyệt riêng của Vô Tâm, một người có căn cơ võ công như ngươi, chỉ luyện chừng ba giờ là thuộc."

Bách Duy vội khom lưng tiếp lấy nói, "Đa tạ tiền bối!"

Ông già chợt lắng tai nghe ngóng rồi nói, "Có người tới! Thôi ta đi... nhớ đừng cho ai biết cuộc gặp gỡ hôm nay nhé!"

Nói vừa dứt lời, người đã đi khỏi một quãng xa. Bách Duy mừng như vớ được của báu vội cất mảnh giấy vào bọc, rồi nghiêm trang ngồi đợi.

Chỉ trong thoáng chốc Diệu Vũ quả đã trở lại, nói với Bách Duy, "Nhâm tướng công chờ đã lâu, chúng ta nên về đi thôi!"

Bách Duy gật đầu, Diệu Vũ nghiêng mình xin lỗi, rồi cắp ngang lưng lão chạy đi như bay.

Cỗ xe ngựa lúc này cũng đã vào tới trong động. Mọi người thấy Bách Duy về, đều xúm lại hỏi thăm. Diệu Pháp chợt quỳ xuống đất, rập đầu ba lượt, nói, "Tệ sư đệ nhờ ơn đại sư thành toàn, Diệu Pháp này xin đa tạ."

Vừa nói vừa ứa nước mắt. Bách Duy vội vái đáp lại, mọi người cùng than thở bùi ngùi.

Vô Tâm đưa mắt nhìn thi hài Diệu Quả, thở dài nói, "Cái chết của Diệu Quả đạo huynh đã làm cho Nhâm Vô Tâm đau đớn. Lại còn việc Huyền Chân đạo trưởng... Ôi! Vô Tâm này còn mặt mũi nào đối với vong hồn các vị tiền bối Vũ Đương?"

Diệu Pháp nói, "Môn hộ Vũ Đương tuy gặp nhiều bất hạnh, nhưng đệ tử Vũ Đương nếu có thể vì giang hồ nêu cao chính nghĩa mà chết, thì lại là một đại hạnh trong cái bất hạnh của phái Vũ Đương."

Giọng nói sang sảng, như tiếng dùi ngọc gõ chuông vàng, làm cho Bách Duy cũng phải sinh lòng kính sợ.

Nhâm Vô Tâm lắc đầu thở dài, "Nhưng mà..."

Diệu Pháp ngẩng đầu, cất cao giọng nói, "Nhưng nếu tướng công chỉ biết tự trách tự thẹn, tự diệt chí khí, không chịu phấn khởi cố gắng, khiến cho nhà Nam Cung thế gia không cần phải đánh cũng thắng, thì bọn đệ tử Vũ Đương chúng tôi dẫu chết cũng không nhắm được mắt!"

Còn nếu tướng công không lấythế làm nản chí, phấn lực tự cường, hăng hái cùng quân thù quyết một còn một mất thì anh em chúng tôi dẫu phải chết tới mấy mươi kiếp cũng được ngậm cười chín suối!

Mấy câu chính nghĩa từ nghiêm của Diệu Pháp đã làm cho Vô Tâm toát mồ hôi trán, chàng run sợ cúi đầu nói, "Đạo huynh lấy đại nghĩa trách mắng, Vô Tâm này đâu dám không tuân."

Diệu Pháp lúc ấy mới tươi cười, đứng lên nói, "Vậy thì tốt hơn hết là chúng ta phải dời khỏi đây tức khắc. Lúc này đâu phải là lúc chỉ ngồi trông nhau mà thở ngắn than dài."

Diệu Vũ hỏi, "Chúng ta nên đi đâu bây giờ? Xin Nhâm tướng công ra lệnh."

Nói xong nhảy lên xe cầm lấy dây cương trong tay Diệu Không rồi quay lại nói to, "Xin mời các vị lên xe, để Diệu Vũ đánh xe đưa các vị đi."

Mọi người lần lượt lên xe. Diệu Pháp buộc pháp thể Diệu Quả vào gầm xe, rồi nhảylên sau cùng. Vô Tâm chỉ về phía đông nói, "Đi lối này! Tôi không tin rằng nhà Nam Cung thế gia có thủ đoạn thần thông phá huỷ được hết những bí huyệt của chúng ta."

Vừa ngồi yên đâu đấy, Bách Duy chợt hỏi Diệu Pháp, "Đạo huynh sao không tìm một ngôi đất tạm an táng pháp thể Diệu Quả đạo huynh, còn định đưa đi đâu nữa?"

Diệu Pháp nói, "Tự vì Nam Cung thế gia một ngày chưa diệt thì thi thể sư đệ tôi cũng một ngày chưa chôn! Nếu Nam Cung thế gia có thể giết hết bốn anh em tôi, chúng tôi cũng tình nguyện phơi thây hoang dã, hoá làm du hồn lệ quỷ, chống đối họ đến cùng!"

Bách Duy cảm thấy lạnh người, cúi mặt không dám trông lên. Diệu Pháp đôi mắt đỏ ngầu, ngửa mặt lên trời nói tiếp, "Nếu trời xanh có mắt, sau này tụi giặc Nam Cung thế gia bị chu diệt, tôi sẽ đem thi hài Diệu Quả sư đệ chôn ngay ở trước mặt quần hào, cử hành một tang lễ cực kỳ trọng thể quang vinh, để cho các bọn vô sỉ trí thức nông cạn cam tâm làm tôi tớ cho nhà Nam Cung thế gia mở to mắt ra mà coi, cho chúng biết rằng nhưng người vì chính nghĩa mà chiến đấu, vì chính nghĩa mà chết, sự hy sinh sẽ còn giá trị tới bực nào!"

Bách Duy chột dạ, trong bụng càng bứt rứt không yên, không biết Diệu Pháp nói câu ấy là cốt nói với mình hay nói với ai.

Ánh sáng yếu ớt chiếu vào trong xe, "Huyền Chân" vẫn nằm yên không động đậy, chẳng khác nào một người chết rồi. Bách Duy quả không nói cho Vô Tâm nghe câu chuyện gặp người cụt tay, chỉ thỉnh thoảng lại lén mở tờ giấy dạy cách giải huyệt ra nghiên cứu.

Hai hôm sau Bách Duy đã thuộc lòng cách giải huyệt độc môn của Vô Tâm. Nhưng lúc này hắn lại không muốn giải nữa.

Lý do vì hắn rất băn khoăn không hiểu người cụt tay muốn giải huyệt cho Huyền Chân hay là có dụng ý gì? Chẳng lẽ ông già ấy lại không biết rằng "Huyền Chân" đã điên cuồng rồ dại, nếu giải huyệt ra, thì chỉ có hại cho Vô Tâm chớ không được ích gì hay sao?

Bao nhiêu lần hắn giơ tay định giải huyệt cho "Huyền Chân" rồi lại vội bỏ tay ngay xuống, trong bụng ngổn ngang trăm ngàn mối mâu thuẫn, mà không biết nói với ai.

Sang đến ngày thứ tư, Vô Tâm càng ngày càng lộ vẻ bồn chồn lo lắng, nhiều lúc ai muốn nói gì, chàng cũng chẳng buồn nghe.

Buổi chiều hôm ấy, Diệu Pháp chợt chỉ tay về phía trước nói, "Phía trước mặt kia là trấn Sa Kỳ, ra khỏi đấy là đồng bằng Trung Châu, chúng ta nên đi phía nào?"

Vô Tâm giật mình, coi bộ như người đang mê chợt tỉnh, ngập ngừng hỏi, "Trước mặt là trấn Sa Kỳ ư?"

Diệu Pháp gật đầu, Vô Tâm lại lặng im không nói gì nữa. Sau đó một lát, Diệu Pháp lại phải hỏi, "Bây giờ xe cứ đi thẳng ư?"

Vô Tâm ngơ ngác một lúc, rồi cười gượng, "Đừng đi thẳng, quay lại..."

Diệu Pháp cau mày hỏi, "Đi quá rồi hay sao mà phải quay lại?"

Vô Tâm vẫn điềm nhiên đáp, "Quay sang phía Nam Thiệu, tới núi Phục Ngưu."

Bách Duy và Diệu Pháp chỉ đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu. Kế đó cỗ xe lại quay lại, đi về phía núi Phục Ngưu. Sáng sớm hôm sau, xe đã lên tới sườn núi.

Đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy bốn bề núi non trùng điệp, ngọn nọ tiếp ngọn kia, liên miên bất tuyệt. Vào tới trong núi, dân cư đã thấy thưa dần, quá chút nữa, chỉ còn lác đác một vài nóc nhà của những người kiếm củi, nằm dựa ven sườn núi, mấyđám khói trắng từ trong những căn nhà ấy bốc lên tới lưng chừng rồi tản ra bốn phía, ngoài đường không thấy ai qua lại.

Xe ngựa càng đi càng thấy gập ghềnh, bốn bề càng thấy vắng vẻ, mãi tới một chỗ xung quanh toàn những núi cao vòi vọi, không có lối đi.

Diệu Pháp thò đầu vào xe hỏi, "Đây đã hết đường đi rồi, làm thế nào?"

Trên môi Nhâm Vô Tâm mới thoáng nở một nụ cười héo hắt, thủng thỉnh đáp, "Sơn cùng thuỷ tận ngờ không lối, liễu ám hoa minh lại một làng. Ấy chính là cái chỗ thần bí của căn động này là ở hai chữ "không lối" ấy."

Diệu Pháp lúc này mới tươi tỉnh, nghĩ thầm, "Chỗ này quả kín đáo thật. Nhà Nam Cung thế gia cù có tài tiên tri, cũng quyết không thể tìm ra được."

Nghĩ đến đấy tinh thần lại trở nên phấn chấn, bèn nhảy xuống xe dắt ngựa đi lên. Đi ước nửa giờ nữa thì tới trong cùng hang núi. Vô Tâm chợt mở cửa xe, thò đầu ra nói, "Đỗ lại!"

Diệu Pháp quát to một tiếng, rồi ghìm ngựa lại. Vô Tâm đưa mắt nhìn khắp xung quanh một lượt, rồi thốt nhiên ngửa cổ lên trời, hú một tiếng thật dài.

Tiếng hú cao vút lên tới mây xanh, tiếng thứ nhất vừa dứt, lập tức có những tiếng hồi âm ở các vách núi vọng lại, vang vang tưởng như có hàng trăm ngàn người núp ở sau bốn dãy núi đồng thanh hoạ lại tiếng hú của Vô Tâm.

Bách Duy buột miệng hỏi, "Hồi Thanh Cốc?"

Vô Tâm mỉm cười gật đầu, "Chính là Hồi Thanh Cốc!"

Hồi thanh qua lại mãi không ngừng, ước chừng nguội chén nước trà, đâu đây mới khôi phục được yên tĩnh.

Vô Tâm nhảy lên nóc xe, đặt tay lên miệng gọi to, "Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới..."

Tức thì lại có cả trăm ngàn tiếng từ bốn phương dội lại, "Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới..."

Chờ một lúc lâu, âm thanh mới lắng dịu. Vô Tâm vẫn đứng trên mui xe, lắng tai nghe ngóng.

Lúc này tiếng vang đã dứt hẳn, nhưng bốn phía chỉ nghe tiếng gió thổi rì rào, tiếng lá bay xào xạc, ngoài ra không còn nghe thấy gì khác nữa.

Vô Tâm sắc mặt càng lúc càng trở nên trầm trọng, lông mày càng cau díu lại. Chàng sốt ruột, lại bắc loa tay lên miệng gọi lại, "Nghĩa kỳ... phấp phới... Nghĩa kỳ... phấp phới..."

Nhưng âm vang đã dứt, mà bốn bề vẫn yên lặng như tờ, không hề có phản ứng, mồ hôi trên trán Vô Tâm đã bắt đầu đọng lại thành giọt, từ từ chảy xuống gò má.

Bọn Diệu Pháp và Bách Duy đều đoán bốn chữ "Nghĩa kỳ phấp phới" tất là tín hiệu Vô Tâm vẫn dùng để liên lạc với những người trong bí động. Nhưng nếu trong động vẫn bình yên vô sự thì từ nãy đến giờ nghe tiếng Vô Tâm gọi, tất thế nào cũng phải chạy ra chứ?

Cứ xem qua tình hình đó, đủ thấy rằng nơi đây hẳn đã có biến cố gì vừa mới xảy ra.

Mọi người đang hồi hộp ngóng chờ, chợt thấy Vô Tâm nhảy xuống đất, thân hình nhẹ như con én vùn vụt lao về hẻm núi phía tây.

Diệu Pháp kinh sợ kêu lên, "Nhâm tướng công, thong thả chờ chúng tôi với!"

Nói chưa dứt lời, đã cùng Diệu Vũ, Diệu Không băng mình nhảy theo.

Lúc này Vô Tâm đã nhảy lên một tảng quái thạch trên đỉnh núi, mặc cho bọn Diệu Pháp kêu gọi hết hơi, chàng cũng lờ như không nghe tiếng.

Bọn Diệu Pháp đuổi tới chân núi, nhìn lên đỉnh núi đã không thấy Vô Tâm đâu nữa. Diệu Vũ nói, "Ở đấy chắc có bí đạo, chúng ta lên mau!"

Nói dứt lời, cả ba người cùng thoăn thoắt leo lên, thoáng chốc cũng mất hút vào phía sau mỏm núi.

Còn lại một mình Bách Duy bồi hồi bên xe, đưa mắt nhìn quanh bốn phía, rồi lẩm bẩm, "Nếu đây là thôn Tam Tính, thì miếu Thành Hoàng ở đâu?"

* * *

Lúc này bọn Diệu Pháp đã vào tới con đường bí đạo, ngửng mắt trông lên chỉ thấy hai bên vách núi cao sừng sững, bên trên có một kẽ hở đủ trông thấy trời xanh, hình thế thực là hiểm ác.

Ba người nối đuôi nhau rón rén đi lên. Diệu Không quay lại nói với hai người đi sau, "Nhâm tướng..."

Hai tiếng đó vừa thốt ra khỏi miệng, cả ba người bất giác chợt giật mình kinh sợ. Thì ra tiếng nói của Diệu Không tuy nhỏ, nhưng hồi âm lại ầm ầm như sấm dậy, phóng tiếng nói lên cao gấp mười lần.

Diệu Không im bặt không dám nói nữa. Một lúc sau Diệu Vũ mới hạ thật thấp giọng như người nói thầm, "Chỗ này hiểm trở quá, nếu Nam Cung thế gia cho người mai phục trên đỉnh núi kia mà lăn gỗ đá xuống thì chúng ta dù có bản lĩnh tày trời cũng không hòng thoát chết."

Đi được một lát, Diệu Không chợt dừng chân lại hỏi, "Sư huynh có ngửi thấy gì không?"

Diệu Pháp cau mày chum mũi hít một hơi dài, bất giác cũng tái mặt run run nói, "Quái lạ! Hay là Nhâm tướng công làm sao rồi?"

Diệu Vũ lúc này cũng vừa ngửi thấy mùi máu tanh tanh, theo chiều gió thoang thoảng đưa lại.

Ba người đưa mắt nhìn nhau, rồi chẳng nói chẳng rằng, cùng cắm đầu chạy miết. Chạy được một quãng, Diệu Không đã trông thấy bóng Nhâm Vô Tâm đứng sừng sững phía trước mặt, không động không cựa, tuy trông bộ dạng như người mất hồn, nhưng không hề bị thương, lúc ấy mới thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.

Mãi lúc tới gần mới nhận ra trước mặt Vô Tâm có đến hơn mười cái xác nằm chồng chất lên nhau, máu me đầm đìa, cực kỳ thê thảm.

Bọn Diệu Pháp trông thấy đống tử thi, bất giác đều rùng mình kinh sợ, hai mắt hoa lên, mặt mày xây xẩm, chỉ chực buồn nôn.

Ba người vội quay mặt đi, cố trấn tĩnh tinh thần, rồi vừa đằng hắng, vừa bước lại phía Vô Tâm.

Vô Tâm ngẩng đầu nhìn ba người bằng một cặp mắt ngơ ngác mất hồn, tựa hồ như không nhận ra là ai. Diệu Pháp sợ hãi, rụt rè gọi, "Nhâm tướng công... Nhâm tướng công..."

Nhâm Vô Tâm trên môi chợt thoáng hiện nụ cười, hỏi, "Các vị cũng tới đấy à? Tốt."

Rồi lại ngây mặt ra nhìn đống tử thi.

Diệu Pháp nhìn theo hướng mắt chàng, thì ra chàng đang đăm đăm nhìn vào một chiếc hộp bằng gỗ tử đàn, để trên đống hài cốt.

Chiếc hộp đặt chính giữa đống xác chết, rõ ràng là cố ý để cho Nhâm Vô Tâm xem, mà Vô Tâm thì cứ đứng ngây ra nhìn, không dám mở.

Diệu Vũ xé mảnh vạt áo buộc vào bàn tay, định cầm chiếc hộp lên xem, không ngờ vừa đưa tay ra, đã bị Vô Tâm kéo lại. Diệu Vũ cười gượng nói, "Đằng nào ta cũng phải mở ra xem bên trong đựng cái gì, sao tướng công lại giữ lại?"

Vô Tâm cười một cách buồn bã, "Tôi cũng có tay, hà tất phải phiền đạo huynh?"

Diệu Vũ không dám nói gì nữa, chỉ lẳng lặng lui ra. Diệu Pháp liền cầm mảnh vạt áo ở tay Diệu Vũ đưa cho Vô Tâm. Vô Tâm cầm lấy buộc vào bàn tay mình.

Hồi thứ năm mươi

Mạo nguy hiểm tra xét mật kiện

Nhâm Vô Tâm cúi xuống cầm chiếc hộp gỗ đàn lên, ngần ngừ một lúc, rồi từ từ mở ra.

Diệu Pháp, Diệu Không, Diệu Vũ đều nín thở, hồi hộp, sáu luồng nhỡn tuyến đều đổ dồn vào chiếc hộp, chỉ sợ bên trong là ám khí, hoặc thuốc độc gì chăng?

Không ngờ khi nắp hộp mở ra, chỉ thấy bên trong vẻn vẹn có một cuốn sách nhỏ, bằng giấy xuyến chỉ màu vàng.

Dưới ánh sáng lờ mờ, thấy trên bìa sách có một dòng chữ đề rằng, "Nam Cung thế gia nhiếp tâm mê hồn thuật chi bí." Bên cạnh mười một chữ đó, còn có một hàng chữ nhỏ, viết rằng, "Hà sóc Thốn Tâm Tẩu đem bảy đệ tử 'Thốn tâm môn' cùng bọn Chu Khả Pháp, Lâm Chính, Ngộ Mộng Tử gồm mười một đồng đạo khổ công nghiên cứu suốt năm, may có sở đắc, kính xin chép lại đây."

Bọn Diệu Pháp tuy không mấy khi ra chỗ giang hồ, nhưng cũng biết Hà sóc Thốn Tâm Tẩu là một ông già đã chín mươi bảy tuổi. Bắt đầu từ năm mười bảy tuổi, ông ta tiếp chưởng môn hộ "Thốn tâm môn" đến nay, chỉ chuyên tâm nhất chí nghiên cứu bí quyết "Nhiếp Tâm Thuật", ngày đêm không nghỉ. Bí quyết cương thi quyền của "Ngôn gia môn" đất Thần Châu cũng bị ông ta phá được.

Diệu Pháp đọc xong dòng chữ nhỏ, liền sẽ hỏi, "Đệ tử nghe người ta nói là Thốn Tâm Tẩu và bảy đệ tử trước đây hai năm, thốt nhiên mất tích có lẽ là họ được tướng công đón về đây chăng?"

Vô Tâm gật đầu, sắc mặt đầy vẻ đau khổ. Bọn Diệu Pháp đăm đăm nhìn đống tử thi, run run hỏi, "Vậy thì đây là... đây là..."

Vô Tâm thủng thỉnh đáp, "Đây chính là thi hài Thốn Tâm Tẩu và bảy môn hạ ông ta."

Ba người nghe xong, bất giác cùng cảm thấy lạnh toát cả người, không sao ngăn nổi hai hàng nước mắt. Vô Tâm thò mấy ngón tay run run vào hộp, định nhấc cuốn sách ra. Diệu Vũ vội kêu, "Nhâm tướng công, đừng... không được..."

Vô Tâm dừng tay, ngoảnh lại nhìn, ra ý hỏi. Diệu Vũ nói, "Cuốn sách này đã khám phá ra những sự bí mật của Nam Cung thế gia, thì sao họ không huỷ ngay đi, mà lại để cho ta tìm thấy? Có phải rõ ràng là vô lý không? Mà trên đời đại phàm những sự vô lý, bên trong tất phải có âm mưu..."

Diệu Pháp gật đầu nói tiếp, "Tam đệ nói rất phải. Cuốn sách này chính là cái mồi để nhử người ta. Nhâm tướng công cũng nên cẩn thận."

Vô Tâm cười một cách đau khổ, "Tại hạ không phải là không biết thế, nhưng mắt đã được trông thấy cái chìa khoá mở chiếc cửa bí mật mà bao nhiêu năm nay, không một giờ khắc nào không lao tâm khổ trí tìm tòi, suy xét, có lẽ nào lại bỏ qua không cầm?"

Diệu Vũ nói, "Theo ý đệ tử thì cuốn sách này chỉ có cái bìa là thật, tướng công hà tất phải xem."

Vô Tâm nói, "Ngộ lỡ bên trong toàn là bí quyết thật, mà ta bỏ qua không xem, có phải là ôm hận nghìn đời không?"

Diệu Vũ cười nói, "Vậy thì lại càng khó lắm, trừ phi người trong Nam Cung thế gia đều hoá điên cả thì không kể."

Vô Tâm nói, "Biết đâu trong Nam Cung thế gia có người chợt thấy lương tâm phát hiện, không nỡ để công đạo võ lâm do thế mà chìm đắm, nên mới lấy trộm bí cấp để giữa chỗ mà hắn biết chắc chắn bọn ta sẽ đi qua?"

Diệu Vũ sửng sốt, lẩm bẩm nói một mình, "Mong rằng như thế."

Vô Tâm lại tiếp, "Lại nữa, biết đâu không có một bực võ lâm dị nhân nào vì muốn ngầm giúp mình, mới đánh cắp cuốn sách này ở trong Nam Cung thế gia, đem bỏ ra đây, cho ta trông thấy?"

Ba người nghe chàng nói cũng có vẻ hợp lý, bèn đưa mắt nhìn nhau. Diệu Pháp gật đầu nói, "Cũng có thể."

Vô Tâm bèn không do dự gì nữa, lập tức cầm cuốn sách và mở ra, bọn Diệu Pháp cũng xúm lại xem.

Lúc ấy chính là lúc mà Bách Duy đứng ngoài sơn cốc đứng bồn chồn nóng nảy như con kiến bò trên miệng chén nước nóng.

Thốt nhiên hắn ngửi thấy một mùi gì khen khét như mùi lửa cháy theo chiều gió đưa lại, rõ ràng là có ai đốt cái gì ở đâu đây. Bách Duy giật mình vội quay đầu nhìn về phía có mùi đó, chỉ thấy từ trong núi đá có một luồng khói bốc lên, không đoán cũng biết trong núi tất có đường vào.

Bách Duy lập tức cài chặt cửa xe lại, rồi tung mình chạy về phía đó.

Ngọn núi này hình thể rất cheo leo hiểm trở, Bách Duy khinh công cũng khá cao, nên chỉ vài lần nhô lên hụp xuống thì đã xông tới đầu ngọn khói.

Luồng khói tuy đặc nhưng Bách Duy nhờ có nội công thâm hậu, nên mục lực vẫn tinh tường, còn trông rõ chỗ luồng khói bốc lên là sau một khóm mây, dây mây quấn chằng chịt, nếu không có đám khói đặc thì không ai có thể trông thấy bên trong còn có một khe núi.

Bách Duy dồn chân lực vào tay trái, rồi vơ lấy nắm dây mây leo sang. Vạch bụi mây ra đã thấy một khe núi vừa đủ để một người chui lọt.

Càng vào trong, khói lại càng dày đặc, làm cho Bách Duy không sao mở mắt ra được, đành cứ bước lần đi, tay vịn vào vách đá.

Đi khoảng chừng nguội hai chén nước trà, chỉ thấy vách đá càng đi lên càng nóng, dần dần không thể vịn tay được nữa. Bách Duy biết rằng đây đã gần đến chỗ đám cháy.

Hắn đang lo lắng không biết nên vịn vào đâu mà ra khỏi khe núi, thốt nhiên thấy hơi thở đã dễ dàng, thì ra luồng khói lúc này đã loãng, đám cháy có lẽ đã tắt, nhưng hơi nóng vẫn còn lưu trên vách đá!

Lại quá một lúc nữa, Bách Duy mới từ từ mở được mắt ra, nhưng trong khe núi không có ánh mặt trời, bóng sáng cực kỳ ảm đạm, không sao nhìn ra xa được.

Bách Duy rảo bước tiến lên, chợt thấy một luồng ánh sáng từ trong đám khói chiếu thẳng vào mắt, thì ra đã tới cửa hang.

Hắn lao mình nhảy vụt ra ngoài, đảo mắt nhìn quanh, chỉ thấy địa thế nơi mình đứng rất cao, bốn mặt đều có ngọn núi bao bọc, mà đám cháy vừa rồi là một căn nhà gỗ.

Lúc này ngọn lửa tuy đã tắt, nhưng trong những cây cột gỗ vẫn còn những tia lửa bắn ra lách tách. Bách Duy cúi đầu nhìn xuống phía dưới, mới biết đó chính là một xóm nhỏ.

Trong xóm chỉ rải rác mấy căn nhà, nhưng cách kiến trúc rất tinh nhã, tường gạch cột đỏ, dựng tản mác khắp bốn phía, chính giữa xóm có một dòng nước từ rặng trúc ngoằn ngoèo bò vào, không biết chảy tới tận đâu.

Trước cửa mỗi nhà đều có một chiếc cầu nhỏ, lan can sơn đen, sàn cầu sơn xanh, nổi bật giữa đám lá cây xanh biếc. Thật là một nơi phong cảnh hữu tình.

Bách Duy đứng ngắm một lúc, bất giác than thầm, "Nơi đây rõ ràng là Đào Nguyên thế ngoại, cách tuyệt trần hoàn. Chắc là chỗ ở của vị cao nhân nào ngày trước. Không hiểu tại sao Vô Tâm lại chọn làm nơi bí mật để tụ tập anh tài?"

Lúc này trong xóm đều yên lặng như tờ, cả bọn Nhâm Vô Tâm cũng không thấy bóng dáng. Bách Duy đắc ý nghĩ thầm, "Có lẽ chính Nhâm Vô Tâm cũng không ngờ xóm này lại còn một con đường bí mật đi thông sang nữa."

Chợt hắn lại nhận ra một con đường nhỏ, quanh co lượn tới chỗ nhà cháy. Hắn chột dạ nghĩ bụng, "Hay căn nhà cháy kia là miếu Thành Hoàng cũng nên?" Nghĩ tới đấy, hắn vội rảo bước đi vào đám lửa tàn, mặc cho khói lửa vẫn còn xông lên một mùi khét lẹt.

Hắn trông thấy kèo cột trong nhà đã cháy đen thui, nhưng trong gian chính vẫn còn ngôi tượng bằng đất sét, tuy những nét son tô điểm bên ngoài đã bị lửa đốt đen sì, nhưng còn nhận rõ đai cân tề chỉnh, chính là pho tượng Thành Hoàng. Bách Duy giậm chân kêu, "Khổ quá!"

Miếu Thành Hoàng đã cháy, thì tờ mật lệnh của Nam Cung thế gia còn tìm sao được nữa? Không biết trong tờ mật lệnh có lệnh mật gì? Có liên can gì đến mình không?

Hắn băn khoăn một lát, rồi lại chợt hốt hoảng nghĩ thầm, "Ngôi miếu này nhất định bị người nhà Nam Cung thế gia đốt. Nhưng sao họ đã để mật lệnh ở đây mà lại còn đốt đi? Hay là... hay là họ đã biết được người được phái tới đây lấy mật lệnh bị ta giết chết rồi chăng?"

Hắn nghĩ tới đấy, mồ hôi lại toát ra như tắm, chân tay run lẩy bẩy, cơ hồ đứng không vững.

Hắn run sợ một lúc, lại cố định thần kiểm điểm lại mọi việc mình làm, thấy rằng không còn chỗ nào sơ hở, có thể lộ tẩy được. Thế thì vì cớ gì mật lệnh bị huỷ?

Hắn suy đi nghĩ lại mãi vẫn không sao tìm được giải đáp, đành đứng lên tìm một chỗ kín đáo nấp, chờ bọn Nhâm Vô Tâm xuất hiện.

* * *

Đây nói về Nhâm Vô Tâm, sau khi đắn đo một lúc, mới quả quyết mở cuốn sách giấy vàng ra xem.

Sáu luồng nhỡn tuyến của ba anh em Diệu Pháp cũng đều chiếu thẳng vào những dòng chữ ngay ngắn mềm mại trên trang sách nhỏ, quả nhiên đều nói về bí thuật nhiếp tâm. Chỉ đáng tiếc một điều là câu nào quan trọng cũng đều bị máu bôi bẩn cả.

Trên mỗi trang giấy ít nhất cũng có tới mười mấy chỗ bị bôi bẩn, trông giống như cái bộ mặt cười một cách đanh ác của Nam Cung phu nhân.

Nhâm Vô Tâm uất ức, ném cuốn sách xuống đất, nghiến răng nói, "Mấy năm tâm huyết, phút chốc thành không. Từ nay trở đi chắc không còn hy vọng khám phá ra những sự bí ẩn của Nam Cung thế gia nữa!"

Bọn Diệu Pháp trong bụng cũng đau đớn bàng hoàng, nhưng vì thấy Vô Tâm buồn quá, nên phải cố nén. Diệu Vũ gượng cười nói, "Trên đời đã có người tìm được sự bí mật trong thuật "Nhiếp Tâm" của Nam Cung thế gia, thì tất cũng có người thứ hai tìm được. Tướng công đừng vội nản!"

Vô Tâm ngửa mặt lên trời, thở dài, "Ai là người thứ hai? Và hiện giờ người ấy ở đâu?"

Diệu Pháp vội nói lảng, "Thôi, đứng đây mãi cũng vô ích. Ta thử vào trong này xem có thấy gì lạ không?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu, rồi vượt qua đám tử thi đi lên. Bọn Diệu Pháp cũng vội chạy theo.

Đi một quãng nữa, hai bên vách núi đã mở rộng dần, rồi tới một con đường ngoằn ngoèo ăn thông xuống chân núi.

Dưới chân núi toàn những rào tre nhà lá, dòng nước quanh co, trông rõ ra cảnh tượng thái bình yên ổn, không ai dám ngờ nơi đây vừa xảy ra một cuộc chém giết kinh hồn, máu tuôn thành vũng.

Diệu Pháp thở dài nói, "Tôi vẫn tưởng đến đây đã là sơn cùng thuỷ tận, không ngờ lại còn một nơi tiên cảnh Đào nguyên thế này! Không hiểu trước kia Nhâm tướng công làm thế nào mà tìm được?"

Vô Tâm nói, "Thôn Tam Tính nguyên là đất tránh loạn của ba họ Tần, Bạch, Điền. Trưởng bối của ba họ nhà ấy ngày xưa cũng đều là danh nhân trong võ lâm, đến lúc về già mới khám phá thế tình về đây sửa sang mảnh đất này làm nơi cư ngụ. Sau ba vị chết đi, con cháu họ đang thời trai tráng không cam tịch mịch, nên chỉ ba năm sau đều bỏ đi hết, chỉ còn để một người lão bộc ở lại trông coi. Giòng dõi ba họ đó sau này có kẻ bị quân thù giết, có kẻ quên cả dĩ vãng, chỉ còn một vị công tử tên gọi Tần Vũ, hãy còn lưu lạc trong giang hồ."

Chàng ngừng một lát rồi lại nói, "Tần Vũ hồi nhỏ bị cha quản thúc rất nghiêm. Nên khi lạc bước hồng trần, thấy cảnh thế giới phồn hoa, không khỏi mê hồn choáng mắt. Tuy đã tự kiềm chế, mà rút cuộc vẫn xa ngã và vòng tửu sắc, đến nỗi nghèo xác nghèo xơ, một lỗ cắm dùi không có."

Diệu Pháp than rằng, "Nhưng hạng thiếu niên như thế trên đời này thiếu gì?"

Lúc này ba người đã xuống tới chân núi, Vô Tâm tiếp tục kể, "Sau hồi hắn bèn nghĩ cách đem bán khu đất này đi. Các vị thử nghĩ một nơi tuyệt cốc thế này, chỉ trừ bọn mấy ông già chán đời, còn ai hoá dại tìm vào đây mà ở? Huống hồ đất đã không có văn tự, chứng khoán, mua bán toàn nói miệng không, vả ai là người chịu tin một kẻ ăn mày lại có cái sản nghiệp lớn đến thế này? Nên mặc dù hắn muốn nói khôn nói khéo thế nào cũng không ai chịu bỏ tiền ra mua."

Diệu Vũ hỏi, "Thế chắc tướng công mua, phải không?"

Vô Tâm gật đầu. Diệu Vũ lại cau mày nói, "Đệ tử liều lĩnh dám đánh bạo hỏi tướng công một câu."

Vô Tâm nói, "Đạo huynh cứ hỏi."

Diệu Vũ nói, "Đất này dùng làm nơi ẩn dật cho các vị cao nhân thì thật là kín đáo hợp cảnh, nhưng nếu dùng làm một căn cứ bí mật để chống đối với nhà Nam Cung thế gia, đệ tử e rằng chưa đủ."

Vô Tâm thoáng hiện một nụ cười buồn bã nói, "Tại hạ mua xong, liền dùng danh nghĩa một vị thượng nhân đất này, kiếm lấy ba nhà nghèo, cũng là họ Điền, họ Tần, và họ Bạch. Bọn họ nghèo quá, không còn cách gì sinh sống nữa, tại hạ mới mua cho họ đủ các thứ dụng cụ làm ăn, và lương thực để họ ở đây lại bắt họ đào một cái hầm bí mật ở bên dưới những căn nhà kia."

Diệu Vũ cười nói, "Tướng công lo liệu thật chu đáo, không ai ngờ bên trong tuyệt cốc lại còn có bí huyệt, và càng không ngờ là tướng công lại dùng ba nhà thường dân làm bức bình phong che chở."

Vô Tâm nói, "Ba nhà ấy toàn là những người thật thà có thể tin được. Không biết bây giờ họ ra sao? Ôi!"

Nét mặt chàng chợt lộ vẻ đau đớn, thở dài, "Hồi mới tới đây, họ sống cũng vất vả lắm. Nhưng hồi này đã ung dung rồi. Tại hạ rất ăn năn vì đã lôi cuốn họ vào những chuyện cừu thù chém giết trong võ lâm. Phen này nếu họ bị chết bởi độc thủ của Nam Cung thế gia thì thật là tại hạ đã hại họ!"

Trong khi nói, bốn người đã đi tới dãy nhà bên trong hàng tre trúc, bốn bề vẫn im lìm, không hề nghe có tiếng động. Diệu Vũ vội đổi sang chuyện khác, nói nhỏ, "Đệ tử và tướng công vào trước, xem động tĩnh như thế nào đã."

Bách Duy nấp trong đám gạch ngói cháy, chờ một lúc quả thấy bọn Vô Tâm đi đến. Hắn ngần ngừ không biết có nên ra mặt, hay nên lẻn về xe. Giữa lúc ấy hắn chợt trông thấy trong đống ngói có một vật gì hơi óng ánh vàng.

Bách Duy vội cúi xuống, lom khom bò gần lại, lấy một đoạn gỗ cháy dở, khều ra xem, thì ra là một cái lư hương bằng đồng, miệng lư úp chụp xuống đất, thân lư tuy đã bị lửa hun đen sì, nhưng vì chất đồng tốt, nên không những không bị chảy ra, mà còn một vài chỗ sắc đồng chưa biến nên bị ánh mặt trời chiếu vào, còn trông thấy óng ánh.

Bách Duy chợt lại động lòng, bèn cầm que củi bới hết tro ra, rồi sờ tay vào xem, thấy chiếc lư tuy vẫn còn hơi nóng, nhưng không đến nỗi bỏng tay. Hắn cầm tay lư nhấc lên, tàn hương bay tản ra bốn phía, trong lòng lư quả nhiên có một cái ống bằng đồng.

Loại ống đồng này hắn đã được trông thấy nhiều lần, nên không cần đoán cũng biết ngay là vật của Nam Cung thế gia thường dùng để bí mật liên lạc với các thuộc hạ.

Bách Duy vừa sợ vừa mừng, trống ngực đập thình thịch. Hắn phải ngồi yên một lúc cho định thần, rồi mới từ từ mở nắp ống ra, quả nhiên trong ống có một mảnh giấy, vẫn là loại giấy dùng để truyền mật lệnh mọi ngày.

Hắn hồi hộp mở giấy ra đọc, trong giấy đại ý nói rằng, "Bọn Nhâm Vô Tâm chắc lúc này đã tới, hoặc sắp tới, phải cẩn thận kẻo lộ tung tích, và cần chú ý theo dõi hành động của từng người trong bọn, nhất là Bách Duy..."

Bách Duy tái mặt, cười nhạt một tiếng, rồi lại tiếp tục đọc, "Ba sư đệ của Bách Duy có đi theo bọn đó không? Hình trạng "Huyền Chân" có gì khác không? Đó là hai điểm cần phải chú ý đặc biệt. Khi xong việc nhớ viết ngay báo cáo cho vào chiếc ống đồng này, đặt trả về chỗ cũ. Nhớ lấy!"

Từ đây trở xuống đều viết bằng bút son, có lẽ là cốt để người đọc đặc biệt chú ý, "... Đêm rằm tháng này, đi lên phía trước khoảng chừng trăm dặm, có một cái quán gọi là Quán Truyền Thanh. Sang canh ba, ngươi đến dưới gốc hoè ngoài cửa quán sẽ có một người mặc áo xanh quần đỏ cầm đèn lồng vuông, đi qua đi lại ba lượt, chờ khi nào hắn đi thẳng ngươi sẽ đi theo, nhưng không nên hỏi han gì cả.

Đi chừng một hai dặm (không nhất định). Bao giờ thấy gã cầm đèn đốt đèn đi, thì tức là đã tới địa điểm đích xác. Ngươi phải lập tức hạ thủ giết ngay tên ấy đi, không được chần chừ."

Đọc đến đây, Bách Duy chợt cảm thấy lạnh toát xương sống, trán râm rấp mồ hôi, lão cố nén xúc động, hồi hộp đọc tiếp, "Xong rồi ngươi dẫm lên đống tàn tro, sẽ đọc mấy câu này, "Người đời khó tìm thuốc bất tử, Thần tiên trong Cốc có phúc lịnh." Đọc đi dọc lại tới lần thứ bảy, trong bóng tối sẽ có người lên tiếng hỏi ngươi là ai, ngươi nhớ trả lời "Người bất tử". Người ấy sẽ chỉ bảo cho ngươi các việc cơ mật. Có chỗ nào không hiểu, ngươi phải hỏi lại cho kỹ, rồi ghi tất cả vào một mảnh giấy, không được bỏ sót một chữ, và cần nhất là không được tò mò rình xem mặt người ấy...

Sau đó chờ tới canh năm, sẽ có người mặc áo xanh quần đỏ từ phía đông đi lại, tay xách chiếc lồng chim, trong lồng có một con bồ câu. Ngươi hãy giết ngay người ấy đi, rồi đem mảnh giấy ghi lời người bí mật buộc vào chân chim, thả cho nó bay đi. Việc này rất quan trọng, không nên coi thường. Đây là lệnh!"

Bách Duy đọc một hơi hết tờ mật lệnh, mới ngửa cổ lên trời thở ra một hơi dài. Trong bụng bồi hồi, ngổn ngang trăm mối.

Điều làm cho hắn thắc mắc nhất là tại sao chiếc lư hương lại nằm úp chụp dưới đất? Trong khi miếu bị thất hoả, bàn thờ khám thờ đều cháy thành than, chiếc lư đồng tại sao không bị chảy ra mà lại chỉ bị xém đen một vài chỗ? Xem thế đủ hiểu là trước khi miếu thất hoả, chiếc lư đã bị lật xuống đất rồi, lửa chỉ cháy ở trên cao, nên lư vẫn còn nguyên vẹn.

Nhưng có lý gì trước khi đốt miếu, thủ phạm lại còn cẩn thận đặt chiếc lư xuống đất rồi mới phóng hoả? Vậy thì ai để chiếc lư xuống đấy?

Việc này chỉ có thể suy luận được rằng, trước khi thất hoả, trong miếu tất đã xảy ra một cuộc ẩu đả dữ dội, bàn thờ khám thờ, đều bị đạp đổ nên chiếc lư mới bị lật úp xuống đất.

Cách suy luận như vậy, nghe chừng có vẻ hợp lý, nhưng trước khi miếu cháy, ai đã đánh nhau ở đây?

Hắn nghĩ mãi vẫn không sao tìm ra manh mối, lại cầm que củi bới đi bới lại trong đám gạch ngói vụn. Hắn lật từng viên gạch bới từng đống tro, không một chỗ nào bỏ sót.

Tới khi hắn nhấc cây xà ngang lớn cháy đen ở góc miếu lên, rồi bới đống ngói vụn bên dưới ra, bất giác giật mình. Thì ra hắn đã trông thấy một cái tử thi bị cháy xém, mình mẩy đen thui nằm vùi ở dưới đống ngói.

Tử thi đã bị cháy hết quần áo, mặt mũi không còn rõ hình thù, nhưng cứ trông cách hắn nằm ngay ngắn, chân tay duỗi thẳng, cũng đủ hiểu là hắn bị chết trước khi miếu thất hoả. Bách Duy lại cúi xuống tìm quanh quẩn một hồi, tình cờ bới ngay được một chiếc thẻ đồng, nằm lẫn trong đám tro tàn.

Chiếc thẻ tuy đã dúm dó không còn nguyên hình, nhưng còn có thể nhận ra là vật của "Ba mươi sáu Địa sát" môn hạ của Nam Cung thế gia. Thì ra gã này là một nhân vật trong bọn Địa Sát, nhưng sao gã lại bị giết? Và ai đã giết gã?

Hắn ngồi thừ ra suy nghĩ lại đem chắp nối những mẩu chuyện xảy ra mấy hôm gần đây, rồi luận rằng, "Rất có thể Nam Cung thế gia chưa biết người được phái đến đây lấy mật lệnh đã bị giết, nhưng vì cớ cẩn thận, nên lại phái thêm tên này tới đây để giám sát. Còn người giết tên giám sát này chắc chỉ là ông già cụt tay."

Vì theo hắn chỉ có ông già cụt tay mới có bản lĩnh hạ nổi tên Địa sát của Nam Cung thế gia rồi lại bỏ đi một cách bí mật như vậy. Cho tới giờ phút này hắn vẫn yên trí ông già cụt tay là người bảo hộ bí mật của Nhâm Vô Tâm.

Trận đấu diễn ra tất phải mười phần kịch liệt, nên bát hương bàn thờ mới đổ lỏng chỏng như vậy.

Người cụt tay đã biết căn miếu đó là chỗ lui tới hoạt động của bọn môn hạ Nam Cung thế gia, lại cũng nhân muốn thiêu huỷ thi thể gã kia bèn phóng hỏa đốt miếu cho tuyệt tích.

Hắn càng nghĩ càng thấy lập luận của mình là vững chắc, và tính mệnh của hắn cũng nhờ thế mà được an toàn, nếu hắn đến sớm một chút, mà gặp tên Địa sát của nhà Nam Cung thế gia thì giờ này chắc chắn đã đầu lìa khỏi xác.

Nghĩ đến đấy hắn lại rùng mình hú vía, càng đáng mừng hơn nữa là tình cờ hắn lại biết được bao nhiêu chuyện bí mật trong tờ mật lệnh, mà không còn phải lo lộ chuyện.

Bọn Vô Tâm, Diệu Pháp đã vào tới xóm, thấy nhà cửa đều còn nguyên vẹn, đồ đạc bàn ghế nhà nào cũng vẫn tề chỉnh, ngay ngắn không một dấu vết gì tỏ ra là có sự xáo trộn di chuyển.

Chỉ lạ một điều là bốn bề đều yên lặng như tờ không có một tiếng gà kêu chó cắn, không khí chết chóc khủng bố như đang bao trùm khắp cả mọi nơi.

Bọn Vô Tâm lần lượt đi vào từng nhà, có nhà vừa bưng mâm cơm lên mà chưa kịp so đũa, có nhà trên bàn còn để manh giấy nghiên mực hình như chủ nhân đang viết dở câu đối, lại có nhà còn bày bàn cờ đánh dở, cuộc cờ đã gần tàn, đang thành cái thế dùng pháo đánh xe. Rõ ràng là cuộc biến cố xảy ra bất thình lình, làm cho mọi người trở tay không kịp.

Lúc này cơm canh đã nguội, bút mực đã khô, bàn cờ cũng đã bị phủ bằng một lớp bụi mỏng, mà người ăn cơm, đánh cờ, viết câu đối không biết đã đi đâu?

Vô Tâm đứng sững như pho tượng gỗ, đôi mắt còn long lanh ngấn lệ, bọn Diệu Pháp cũng lặng lẽ cúi đầu.

Một lúc lâu Vô Tâm mới thở dài, uể oải bước vào lớp sân trong, bọn Diệu Vũ cũng đi theo.

Địa thế trong sân tuy nhỏ, nhưng đình đài lầu các cũng có quy mô. Vô Tâm bước thẳng tới phía bờ ao, nước ao xanh biếc mà trong leo lẻo. Chàng cau mày cúi xuống cầm tảng đá nhỏ bên phải bờ ao, lật đi lật lại, tức thì nước ao từ từ chảy ra ngoài.

Diệu Vũ kinh sợ kêu lên, "À, ra động bí mật lại ở dưới ao à? Nếu vậy thì kín đáo thật! Đệ tử thật không sao ngờ tới!"

Vô Tâm cười buồn bã, "Thế mà nhà Nam Cung thế gia lại biết mới thần tình chứ?"

Lúc này nước ao đã cạn hết, Vô Tâm cúi xuống thò tay vào lòng ao nhấc tảng đá vuông lên, tức thì bên trong lộ ra một con đường bí mật.

Đường đi vừa tối vừa lạnh, ẩm thấp vô cùng. Diệu Vũ nói, "Nếu Nam Cung thế gia đặt mai phục ở đây thì sao?"

Vô Tâm cười gượng nói, "Nếu họ định giết tôi thì chắc họ không phải đợi tới bây giờ."

Diệu Vũ ngạc nhiên, quay lại nhìn hai vị sư huynh, thì cũng vừa hay gặp hai người đang đưa mắt nhìn mình. Ba người hình như cùng chung một ý nghĩ, "Câu ấy cũng có lý, nếu Nam Cung thế gia muốn giết Nhâm tướng công thì thiếu gì dịp, hà tất phải đợi tới hôm nay. Nhưng thế là vì cớ gì?"

Trong lòng họ đều nảy ra một mối nghi ngờ, nhưng không dám nghĩ xa hơn nữa, mà cũng không dám nói ra. Sau khoảnh khắc nhìn nhau, rồi lại cùng cúi gầm đầu xuống.

Lúc này Vô Tâm đã đi vào địa đạo, ba người đều lần lượt nhảy theo.

Bên trong quả nhiên không có mai phục, mà cũng không thấy động tĩnh. Đi được một quãng, đã trông thấy ánh đèn le lói đưa ra.

Thì ra trong địa thất có rất nhiều những ngọn đèn đồng gắn trên vách đá, lúc này dầu chưa cạn hết, nhưng ánh sáng cũng rất yếu.

Dưới ánh sáng lờ mờ, đã trông rõ bàn ghế đồ đạc trần thiết trong nhà vẫn đều y nguyên bất động. Không thấy thi hài, mà cũng không thấy vết máu. Nhưng trên bức tường trước mặt lại có một hàng chữ lớn viết bằng máu tươi, "Nhâm Vô Tâm, ngươi còn mặt nào đối với ai nữa!"

Nét chữ đã nguệch ngoạc, nhất là mấy chữ cuối cùng lại càng ngoằn ngoèo khó đọc, đủ hiểu là nét chữ của người sắp chết. Tuy chỉ có vài chữ sơ sài, mà trong đó bao hàm bao nhiêu niềm oán độc đau khổ.

Vô Tâm đứng trước mấy chữ đó, thân thể cứng đờ như pho tượng gỗ. Nước mắt chàng đầm đìa hai bên gò má, tưởng như trên đời không còn hoạ sĩ nào có thể miêu tả được hết những nỗi thống khổ của chàng lúc bấy giờ.

Bọn Diệu Pháp thấy trạng thái của chàng, trong bụng cũng bồi hồi thương cảm, tia lửa nghi ngờ vừa nhen nhúm lên đã tắt ngấm.

Ba người đứng lặng hồi lâu, Diệu Pháp chợt đằng hắng một tiếng, sẽ nói, "Lẽ ra người ấy phải hiểu rằng việc này không phải lỗi của Nhâm tướng công, sao lại đi viết những dòng chữ ấy làm gì cho thêm tội!"

Vô Tâm nghẹn ngào nói, "Điều ấy cũng không nên trách hắn. Nếu tôi là hắn, tôi cũng viết thế."

Diệu Vũ chợt cau mày hỏi, "Việc này có thực Nhâm tướng công không đáng trách không?"

Từ hồi quen biết đến giờ, bất cứ ngôn ngữ hoặc cử chỉ Diệu Vũ đối với Vô Tâm lúc nào cũng tỏ ra hết sức cung kính, lễ phép. Nay thốt nhiên nói mấy câu vừa rồi, rõ ra giọng căn vặn nghi ngờ, nhưng Vô Tâm hình như không để ý, chỉ thủng thỉnh đáp, "Chuyện bí động trước bị tai nạn, tuy ra ngoài ý liệu của mọi người, nhưng nghĩ cho cùng thì còn có thể giải thích được."

Diệu Vũ hỏi, "Giải thích thế nào?"

Vô Tâm thở dài nói, "Vì những phần tử trong bí huyệt, có kẻ tốt người xấu, không đều. Trong đó còn có tụi tiểu nhân, lúc đầu tuy vui lòng quy thuận, nhưng sau thấy bên ta yếu thế, lại sinh dị tâm,được điều ấy khó lòng tránh khỏi. Còn ở đây chỉ toàn là những bực cao sĩ có khí tiết thanh cao, quyết không khi nào lại thay lòng đổi dạ, đầu hàng Nam Cung thế gia. Và căn động bí mật này làm ở dưới đáy nước, dẫu có người biến tâm cũng khó lòng che được mắt người ngoài mà ngầm thông tin tức cho Nam Cung thế gia được. Điều ấy thật là khó hiểu!"

Diệu Vũ nhấn mạnh, "Phải, thật là khó hiểu!"

Giọng nói mỗi lúc một thêm gay gắt. Vô Tâm vẫn không để ý, chỉ lẩm bẩm, "Sự việc như thế, nên người ta ngờ tôi cũng không có gì đáng trách. Ôi! Ngay đến chúng ta còn không thể đoán ra là vì cớ gì Nam Cung thế gia lại biết những việc trong căn động bí mật này, huống hồ các vị bằng hữu quanh năm ở dưới đáy hồ làm sao có thể tưởng tượng nổi việc bí mật vì đâu tiết lộ ra ngoài? Vì người biết chỗ bí mật này chỉ có một mình tôi!"

Diệu Vũ sắc mặt càng trầm trọng, dằn mạnh từng tiếng, "Thật chỉ có một mình tướng công biết thôi à?"

Vô Tâm thở dài, "Trừ tại hạ và những người ở trong bí huyệt này."

Diệu Vũ ánh mắt long lanh nói, "Những người ở trong mấy ngôi nhà tranh trên kia, tất nhiên cũng phải biết nơi đây có bí huyệt, biết đâu họ không tiết lộ ra ngoài?"

Vô Tâm cười gượng, "Ba nhà ấy, già trẻ lớn bé bất quá cũng chỉ có bảy người, mà bảy người ấy có ba điều có thể làm chứng là không đời nào họ đi theo Nam Cung thế gia!"

Diệu Vũ đăm đăm nhìn chàng ra ý hỏi. Vô Tâm lại tiếp, "Trước khi vào cốc, họ đã bị Nam Cung thế gia tàn hại đủ điều, vậy nên họ thù oán Nam Cung thế gia cũng không kém gì chúng ta. Và bảy người tính nết đều hiền lành thật thà, không bao giờ hỏi đến những việc võ lâm, mà cũng không biết võ nghệ. Họ không biết ta là phe chống đối với nhà Nam Cung thế gia, vậy nên dù họ có muốn báo cáo, họ cũng chẳng biết báo cáo thế nào1"

Diệu Vũ lại hỏi, "Còn lý do thứ ba?"

Vô Tâm lẳng lặng giây lâu rồi lại tiếp, "Trước khi vào cốc, bọn họ đều đã biến thành kẻ tàn tật, hàng ngày đi lại còn khó khăn thay, huống hồ còn làm thế nào mà bò ra khỏi cốc được?"

Diệu Vũ rùng mình, cúi gầm đầu xuống, sắc mặt lộ vẻ đau đớn ngượng ngùng. Vì hắn rất hối hận là hắn đã có bắt buộc Vô Tâm phải nói ra một việc mà có lẽ chàng đã chôn xuống tận đáy lòng, không muốn nghĩ tới, mà lại càng không muốn nói ra.

Nhân đó, hắn đem ba điểm do Vô Tâm tường thuật liên tiếp trước sau mà tìm thấy một điểm bí mật.

Vô Tâm ngẩng lên, đăm đăm nhìn hắn, hỏi, "Ngươi đã hiểu chưa?"

Diệu Vũ cúi đầu đáp, "Tôi hiểu rồi!"

Vô Tâm mắt vẫn không dời mặt hắn, hỏi, "Như thế có phải bảy người ấy tuyệt không ai có khả năng báo cáo việc bí mật phải không?"

Diệu Vũ đáp, "Phải!"

Diệu Pháp, Diệu Không đưa mắt nhìn nhau, chẳng hiểu hai người nói với nhau mấy câu ấy là có ngụ ý gì.

Nhưng sau khi nghĩ ngợi một lúc, họ chợt hiểu ra, tự nghĩ, "Nghe giọng lưỡi Nhâm Vô Tâm có lẽ hắn sai người mạo xưng Nam Cung thế gia, tàn hại bọn ba nhà kia, trước khi họ vào cốc, để cho bọn kia thù hận Nam Cung thế gia vĩnh viễn không bao giờ quên được chăng?"

Họ thật không ngờ một người trung hậu thành thật như Nhâm Vô Tâm, mà lại có thể có những thủ đoạn tàn khốc vô tình như thế được?

Nhưng suy đi nghĩ lại, họ lại thấy rằng từ xưa đến nay, những người muốn lập đại công đại nghiệp, nếu muốn đạt mục đích, nhiều khi bất đắc dĩ phải dùng tới những thủ đoạn tàn nhẫn, không thể tránh được. Vả lại Vô Tâm tuy làm cho bọn dân nghèo kia trở nên tàn tật, nhưng chàng đã phải đền bù bằng cách đảm bảo cho họ một cuộc đời no ấm yên vui, như vậy tưởng cũng đủ chuộc được một phần tội lội.

Diệu Vũ trầm ngâm một lát, rồi lại hỏi, "Tướng công có chắc những sự bí mật ở đây trừ tướng công và mấy người trong này ra, thì không còn ai biết nữa chăng?"

Nhâm Vô Tâm do dự một lát, rồi ngập ngừng nói, "Trong Tử Cốc còn có hai người nữa, biết rõ việc này."

Diệu Vũ vội hỏi, "Hai người ấy là ai?"

Vô Tâm lạnh lùng đáp, "Đó là hai vị ân sư của tại hạ."

Diệu Vũ ngẩn người, chưa kịp nói, Vô Tâm lại tiếp, "Người bắt tại hạ phải quyết tâm tranh đấu với Nam Cung thế gia đến kỳ cùng, chính là hai vị lão nhân gia đó, giúp tại hạ tiền bạc, chiêu tập trợ thủ, khiến tại hạ có đủ lực lượng tranh đấu với Nam Cung thế gia cũng là hai vị lão nhân đó. Vậy thì không khi nào hai vị đó lại giúp Nam Cung thế gia chống lại chúng ta."

Chàng thở dài một tiếng rồi lại tiếp, "Tôi nghĩ nát óc, cũng không sao biết được ai là người đã đem việc bí mật ở đây tiết lộ ra ngoài? Bây giờ thực quả tôi cũng không tin được tôi thì làm sao còn dám trách người khác không tin mình nữa?"

Mấy câu sau cùng, chàng nói bằng một giọng cực kỳ đau đớn, thật là anh hùng mạt lộ, ngày hết đường cùng dẫu có tài năng cũng đành thúc thủ.

Đây nói về Bách Duy giấu tờ mật lệnh vào áo xong xuôi, lại xé một mảnh áo lót mình, lấy cái que cháy dở, viết lên mảnh áo mấy dòng như sau, "... Nhâm Vô Tâm đã vào Hồi Thanh Cốc, đi theo có bốn đệ tử phái Vũ Đương, Huyền Chân, Bách Duy, ngoài ra lại còn có hai người mặc áo vải thường, hình như đều đã bị thương, trông xa giống như Bách Hộ, Bách Vệ trong La Hán Đường chùa Thiếu Lâm, nhưng không dám chắc lắm..."

Viết đến đấy, hắn rung đùi mỉm cười, cắn bút nghĩ ngợi một lúc, rồi lại viết tiếp, "... Bách Duy vết thương hình như nặng lắm, không những cánh tay đã thành tàn tật, đi đứng cực kỳ vất vả, người ấy dẫu có ý muốn phản ta, cũng không đáng ngại."

"Huyền Chân thì hình như đã bị Vô Tâm điểm huyệt, nhưng lại hình như cố làm ra thế, lúc nào cũng thấy hắn nằm bẹp ở trong xe không thò mặt ra ngoài, còn Vô Tâm lúc thì tỏ ra phấn khởi, lúc lại tỏ ra ủ rũ, chẳng ai hiểu hắn thực tình hay giả cách, duy có mấy vị đạo nhân trẻ thì người nào cũng hoạt bát lanh lẹ, sức lực dồi dào, trông có vẻ toàn là những tay lợi hại cả."

Hắn viết xong lại đọc đi đọc lại mấy lượt xem còn sơ sót điều gì chăng? Rồi mới lấy chiếc bài đồng ra bôi than lên rồi đặt vào góc mảnh áo, ráng sức ấn thật mạnh, làm thành cái dấu, rồi cuộn tròn nhét vào ống đồng, nhồi trả vào lư hương để nguyên như cũ.

Khi hắn quay ra thì thấy bọn Vô Tâm đã ra khỏi hàng rào tre, hắn hốt hoảng vội bò rạp xuống lẻn thật nhanh về xe, hơi thở hồng hộc.

Một lúc lâu hắn vừa định thần thì bọn Vô Tâm cũng vừa ra tới. Mọi người lại lên xe đi. Bách Duy thấy sắc mặt Vô Tâm và bọn Diệu Pháp đều tỏ vẻ trầm trọng ưu tư, nên cũng không dám hỏi.

Đi được một quãng, Diệu Không đang đánh xe ngựa chợt quay lại hỏi, "Tướng công định đi đâu bây giờ?"

Vô Tâm mỉm cười buồn bã, "Ở đây chỉ có một con đường, chúng ta đã không thể lùi lại phía sau, thì tất chỉ còn cách tiến lên phía trước, đằng nào cũng không thể lựa chọn được nữa, hà tất phải hỏi."

Diệu Không đưa mắt cho Diệu Vũ, Diệu Pháp lắc đầu thở dài, rồi ra roi cho ngựa chạy thẳng.

Đi mãi tới lúc trời tối, mọi người liền tìm vào quán trọ nghỉ ngơi. Vô Tâm thốt nhiên cười nói, "Các vị làm gì mà mặt người nào cũng như đi đưa đám cả thế này?"

Diệu Pháp cũng gượng cười nói, "Có sao đâu! Đi cả ngày bôn ba nhọc mệt, nên không ai muốn nói chuyện đó thôi!"

Vô Tâm lắc đầu, "Theo ý tôi quyết không phải là vì cớ ấy."

Diệu Pháp cúi đầu nói, "Việc đã thế này, đệ tử cũng không dám dối mình dối người. Thực ra đệ tử chỉ nghĩ rằng, "Hiện thời chúng ta đã hết chỗ nương thân, và cũng không ai chịu giúp chúng ta nữa, chi bằng ta liều mạng xấn vào Nam Cung thế gia quyết chiến một trận, dù có chết, cũng được lưu danh thiên cổ. Và cái chết của chúng ta biết đâu lại không lôi cuốn được hùng tâm của các bạn giang hồ đồng đạo?"

Nói tới đấy, lại thở dài một tiếng, cúi đầu không nói tiếp nữa. Diệu Không, Diệu Vũ tuy không nói ra, nhưng xem thái độ thì hình như cũng tán thành ý kiến của Diệu Pháp.

Vô Tâm lẳng lặng giây lâu rồi thủng thỉnh nói, "Đạo huynh nói dẫu phải, nhưng ta đã nằm gai nếm mật cho tới bây giờ, sao bỗng dưng lại nhắm mắt làm liều, để mất bao nhiêu công lao khó nhọc từ trước?"

Diệu Pháp nói, "Nhưng..."

Vô Tâm tinh thần chợt trở nên phấn chấn, ngắt lời nói, "Vả Nam Cung thế gia dù có phá huỷ hai sào huyệt bí mật của ta, nhưng vẫn còn một chỗ, họ không thể nào phá hết."

Bọn Diệu Pháp cùng buột miệng hỏi lên một lúc, "Ở đâu cơ?"

Vô Tâm mỉm cười đáp, "Ở trong khu vực tỉnh Hà Nam."

Diệu Vũ trầm ngâm một lúc rồi nói, "Khu vực Hà Nam là căn bản sở tại của Nam Cung thế gia. Lũ môn hạ tay sai của họ rải rác khắp nơi, chúng ta đến đó, có khác gì chui đầu vào hang hổ? Hai nơi kia hắn còn phá được, huống hồ là một nơi ở ngay sát vách họ, họ sợ gì mà không dám phá?"

Vô Tâm lại mỉm cười nói, "Địa phương này không những ở địa hạt Hà Nam, mà còn ở ngay bên cạnh Nam Dương là khu vực của Nam Cung thế gia nữa kia."

Thấy mọi người đều ngơ ngác tỏ vẻ không hiểu, Vô Tâm lại nói, "Các người có biết trong võ lâm có hai vị thần y, một là Cù Thức Biểu và một là Thi Thuý Phong không?"

Diệu Pháp cau mày nói, "Bọn đệ tử cũng có nghe tiếng đã lâu, nhưng võ công của hai vị ấy làm sao đương nổi Nam Cung thế gia?"

Vô Tâm cười nói, "Các đạo huynh hà tất phải lo, tôi đã nói hai vị tiền bối ấy tuy ở trong hang hổ, mà thế còn vững hơn núi Thái Sơn."

Nói xong chàng liền đem câu chuyện bọn Cù Thức Biểu luyện thuốc trong bí động, bị nhà Nam Cung thế gia phái người đến phá, rồi mình phải dàn nghi trận để đánh lừa bọn đó ra sao. Sau hết chàng còn đem cả chuyện Điền Tú Linh cải trang theo mình lên Tử Cốc thuật lại từ đầu chí cuối cho mọi người nghe.

Mấy người nghe xong đều tỏ vẻ kính phục. Diệu Pháp nói, "Điền cô nương thật là bực nữ trung nhân kiệt, tiếc rằng bọn đệ tử không được gặp mặt."

Nhắc đến Tú Linh, Vô Tâm lại cảm thấy một mối bâng khuâng buồn bã, bất giác chàng cúi mặt, lẳng lặng ngồi yên.

Diệu Vũ nói, "Không biết Điền cô nương hiện nay ở đâu? Nếu tìm thấy nàng, ta lại được thêm một tay giúp việc đắc lực."

Vô Tâm cười một cách buồn bã, "Tôi cũng không rõ, chỉ cầu trời cho nàng được khoẻ mạnh bình yên, nếu không thì tôi cũng không tránh được sự trách phạt của lương tâm."

Bọn Diệu Pháp đưa mắt nhìn nhau, họ cùng đoán ngầm là giữa Vô Tâm với Tú Linh tất đã có một đoạn lịch sử chua cay, nhưng không ai dám hỏi.

Trong bọn chỉ có Bách Duy là hiểu rõ hiện nay Điền Tú Linh ở đâu, nhưng hắn không nói. Vả trong bụng hắn lại càng băn khoăn ngờ vực, không hiểu tại sao Vô Tâm đối với Tú Linh như vậy, mà nàng lại tỏ ra thù oán chàng đến thâm nhập cốt tuỷ, là vì cớ gì?

Lúc này mọi người đều mải theo đuổi một ý nghĩ riêng, nên không ai buồn nói chuyện. Một lúc lâu, Diệu Pháp chợt lên tiếng, "Không ngờ Thi lão tiền bối lại có thuật dịch dung tài tình như vậy? Trong giang hồ hiện thời không thiếu gì người biết dịch dung, nhưng chắc không ai bằng ông ta?"

Vô Tâm nói, "Nghe đồn trong nhà Nam Cung thế gia cũng có mấy tay chuyên môn dịch dung tài lắm..."

Vừa nói tới đấy, chàng chợt giật mình tái mặt, hình như vừa nghĩ tới một chuyện gì ghê gớm. Diệu Vũ vội hỏi, "Tướng công nghĩ gì thế?"

Vô Tâm đưa mắt nhìn "Huyền Chân", cau mày đáp, "Huyền Chân đạo trưởng đã dịch dung thành một văn sĩ, mặt mũi xanh bủng như người ốm, tại sao bây giờ lại ăn mặc thế kia? Hay là... hay là..."

Diệu Vũ cũng chột dạ, vội hỏi, "Hay là vị "Huyền Chân đạo trưởng" này chính là người của Nam Cung thế gia dịch dung, cho đi theo mình làm gian tế chăng?"

Diệu Pháp, Diệu Không đều giật mình kinh sợ. Diệu Vũ lại nói, "Hèn nào mà hắn giả vờ điên cuồng, cốt làm cho không ai dám đến gần, thì ra hắn sợ người ta nghe giọng nói mà biết là hắn giả mạo chăng?"

Vô Tâm ngửa mặt lên trời cười một cách đau khổ nói, "Chết cười ơi là chết cười! Một việc dễ hiểu đến thế mà mãi bây giờ mình mới biết..."

Chàng đứng phắt dậy, bước rảo tới bên giường "Huyền Chân". Bách Duy lúc này đã sợ đến cực điểm, vội quay mặt đi, không dám nhìn nữa.

Nhâm Vô Tâm đã từng dịch dung, nên đã hơi biết cách phá. Lúc này chàng đã tụ chân lực vào lòng bàn tay, khiến cho bàn tay nóng như hòn than rồi áp vào má "Huyền Chân". Làm như vậy nếu mặt người gắn bằng sáp, thì sẽ bị chảy ra ngay lập tức.

Nhưng bàn tay chàng đã xoa đi xoa lại trên mặt "Huyền Chân" mấy lần, mà trông làn da của hắn vẫn không có gì đổi khác.

Bách Duy không sao dằn nổi tò mò, cũng liếc mắt trông trộm, thấy tình hình như vậy, không khỏi sửng sốt bàng hoàng. Diệu Pháp vội hỏi, "Tướng công, sao lại thế? Hay chính là "Huyền Chân" đạo trưởng thật?"

Vô Tâm cũng ngẩn người ra, rụt tay lại thủng thỉnh nói, "Đúng rồi, không phải Huyền Chân giả!"

Bách Duy vừa sợ vừa mừng, xúc động quá đến nỗi ngã ngồi xuống ghế. Hắn tuy mừng thoát nạn, nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì sự tình biến đổi quá đột ngột. Hắn tự nhủ, "Đúng rồi! Huyền Chân này là Huyền Chân thật... nhưng sao lại thực? Rõ ràng hắn đã giả điên, rõ ràng hắn là gian tế của Nam Cung thế gia, nhưng sao bây giờ hắn lại là Huyền Chân thực? Thế là cái gì?"

Bọn Vô Tâm thì chỉ cho là mình đoán lầm, nên cũng không lấy gì làm ngạc nhiên lắm. Phút chốc phòng trọ lại yên lặng như tờ, không một ai lên tiếng. Một lát chợt nghe tiếng Diệu Pháp nói, "Tướng công có thể giải huyệt đạo cho chưởng môn đệ tử một lát được không?"

Bách Duy nghe tới đấy, chợt lại giật bắn người như bị sét đánh, vội lắng tai nghe. Chỉ thấy Vô Tâm đáp, "Huyền Chân đạo trưởng thần trí đang bị hôn mê, giải huyệt lúc này chỉ e sinh biến."

Diệu Pháp nói, "Tướng công đừng ngại, chưởng môn đệ tử tỉnh dậy, nếu có điều gì đệ tử xin chịu trách nhiệm. Bọn đệ tử thực không nỡ trông thấy người cứ suốt ngày nằm trên giường, sống chẳng ra sống, chết chẳng ra chết, nói không được, cựa không xong thế kia!"

Vô Tâm thở dài nói, "Thủ pháp điểm huyệt của tại hạ tuyệt không hại gì cho người bị điểm, nhưng đạo huynh đã nói thế, tại hạ cũng xin chiều lòng."

Diệu Pháp cả mừng nói, "Đa tạ tướng công!"

Bách Duy sợ quá run bắn người lên đến nỗi chén nước trà cầm ở trên tay rơi xuống đất vỡ tan ra mà cũng không biết.

Vô Tâm cau mày hỏi, "Đại sư làm sao thế?"

Bách Duy ấp úng, "Không... không sao cả."

Vô Tâm đã nâng Huyền Chân dậy, từ từ giơ tay lên. Bách Duy vội tiến lên một bước, chỉ đợi Vô Tâm hạ tay xuống là hắn sẽ dốc toàn lực đánh một chưởng giết chết Huyền Chân để diệt khẩu.

Vì hắn nghĩ nếu để Huyền Chân tỉnh dậy nói rõ gian mưu của hắn ra thì hắn cũng chết, thà rằng trừ ngay đi, hoạ chăng còn có hy vọng thoát được, cũng chưa biết chừng.

Không ngờ giữa lúc ấy, Vô Tâm chợt quay lại nói, "Phiền đại sư trông hộ ngoài cửa một chút, vì lỡ Huyền Chân đạo trưởng tỉnh dậy, nổi cơn điên chạy ra cửa làm phiền người khác, thì đã có đại sư ngăn hộ."

Bách Duy ngần ngừ một lát, lại chợt nghĩ, "Ta định giết Huyền Chân chưa chắc đã giết được, chi bằng nhân dịp canh cửa, chờ Huyền Chân tỉnh dậy rồi sẽ chuồn đi, chừng ấy Vô Tâm dẫu có muốn đuổi theo cũng khó!" Nghĩ vậy liền vội đáp, "Được. Được để tôi ra!"

Ra tới cửa, hắn chỉ đứng chân trong chân ngoài, thỉnh thoảng lại ngó lại, chờ xem động tĩnh.

Vô Tâm lập tức giơ tay đập thật nhanh vào mấy huyệt "Trung cực đại huyệt" bên dưới đan điền, "Thiên tăng đại huyệt" bên dưới yết hầu, và "Thiên tĩnh đại huyệt" ở hai bên đầu vai.

Vừa giải huyệt xong, Huyền Chân lập tức vươn vai, thở ra một hơi dài, nhưng cặp mắt vẫn ngây ngô như người mất hồn.

Vô Tâm và bọn Diệu Pháp cùng xúm lại bên giường, đề phòng Huyền Chân nổi cơn điên bất thình lình, thì sẽ kịp thời đối phó.

Huyền Chân ngơ ngác một hồi, rồi thốt nhiên cất tiếng cười sằng sặc.

Ông ta cười mãi, cười mãi, cười đến chảy cả nước mắt nước mũi, cười đến ôm bụng lăn lộn ra giường, hình như có chuyện gì tức cười quá đáng, không sao chịu nổi. Bọn Vô Tâm đều đã đoán trước nên không ai lấy làm lạ, chỉ có Bách Duy là kinh hoảng hết sức, vì hắn đã biết rõ Huyền Chân không điên, vậy thì tại sao hắn lại có cái trạng thái kỳ lạ như vậy? Hay là hắn giả vờ? Mà giả vờ như thế để làm gì? Vô Tâm nắm lấy cổ tay Huyền Chân bắt mạch, chợt cau mày lẩm bẩm, "Ơ hay! Sao lại lạ thế này?"

Bách Duy buột miệng hỏi, "Lạ gì? Cái gì mà lạ?"

Vô Tâm quay lại nói, "Đại sư lại đây mà xem."

Bách Duy do dự một lát, rồi cũng thủng thỉnh bước tới bên giường.Vô Tâm nói, "Đại sư thử coi xem Huyền Chân đạo trưởng bây giờ với Huyền Chân hôm nọ có chỗ nào khác nhau không?"

Bách Duy chột dạ, cúi xuống làm bộ xem xét một lúc, rồi gượng cười nói, "Bần tăng không thấy gì khác cả."

Vô Tâm nói, "Trông bề ngoài thì không có gì khác thật, chẳng trách đại sư không nhận ra cũng phải. Có điều là bệnh điên cũng giảm đi chút ít."

Bách Duy không hiểu Vô Tâm nói thế là có ý gì, chỉ đành gật đầu đáp cho xuôi, "Có thể!"

Diệu Vũ chợt hỏi, "Tướng công nhận thấy khác nhau ở chỗ nào?"

Vô Tâm do dự một lúc rồi nói, "Hồi đó tôi coi bệnh Huyền Chân đạo trưởng, thấy bát mạch rối loạn, mạch tượng rất kỳ dị, bình sinh chưa thấy mạch ai lạ thế bao giờ. Tôi tuy đã kiệt tâm tận lực, mà rút cuộc cũng đành chịu, không tìm ra căn bệnh. Nhưng hôm nay mạch của đạo trưởng tự nhiên lại trở nên đình trệ không thông, y như người có điều gì uất ức lâu ngày tích lại thành điên, so với mạch tháng trước, tuyệt không giống nhau tí nào, không hiểu tại sao lại biến đổi nhanh đến thế?"

Bách Duy nghe nói trong bụng mừng thầm, vội nói, "Thế thì càng hay chớ sao? Huyền Chân đạo huynh mạch lý đã điều hoà, chỉ cần tĩnh dưỡng ít lâu, sức khoẻ và tinh thần sẽ dần dần khôi phục, thiết tưởng cũng là một điều đáng mừng."

Vô Tâm lắc đầu nói, "Mạch lý tuy đều, nhưng trong bụng tích uất đến nỗi hoá điên, thì căn bệnh cũng khó chữa lắm. Chỉ trừ mấy vị thần y trong bí động vẫn còn được an toàn, cùng gia công cứu chữa thì hoạ may."

Nghe giọng nói của chàng, đủ hiểu là chàng đối với sự an nguy của bọn danh y Cù Thức Biểu cũng không dám tin tưởng cho lắm. Bọn Diệu Vũ đều cúi đầu im lặng, thậm chí có người còn đưa tay áo lên gạt nước mắt.

Riêng có Bách Duy trong bụng lại khấp khởi mừng thầm. Hắn biết chỗ ở của bọn Cù Thức Biểu đã do Nhâm Vô Tâm và Điền Tú Linh thiết kế bảo toàn. Nay Tú Linh đã ra mặt chống đối với Vô Tâm, thì chỗ bí mật ấy còn che mắt nàng sao nổi?

Mà bọn Cù Thức Biểu đã bị hại, thì Huyền Chân đạo trưởng sẽ bị điên rồ vĩnh viễn, những sự bí mật của hắn từ nay cũng không còn lo bị ai phát giác ra nữa, há chẳng phải là một điều đáng mừng hay sao?

Bách Duy tuy đắc ý, nhưng ngoài mặt vẫn cố làm bộ thở ngắn than dài, ra điều đau khổ.

Sáng hôm sau, Bách Duy ngủ dậy, chợt cảm thấy tinh thần phấn chấn, bèn thừa lúc mọi người đang bận rộng thu xếp hành lý, lão thủng thỉnh bước ra sân chơi.

Thốt nhiên hắn trông thấy ba gã đại hán mặc võ phục đen, lưng đeo trường kiếm, hấp tấp từ trong mái tây đi ra, dáng điệu cực kỳ nhanh nhẹn. Bách Duy không thích giáp mặt các nhân vật võ lâm bèn nấp vào sau một cây cột lớn.

Trong bọn có một gã da hơi vàng, lông mày dài gần tới tóc mai, đôi mắt sáng quắc, chân chưa bước xuống thềm miệng đã bô bô, "Chủ quán đâu? Sắp ngựa cho ta, mau lên!"

Một tên tửu bảo vội vàng chạy ra, khom lưng hỏi, "Ba vị đại gia đi ngay bây giờ à?"

Gã đại hán quắc mắt quát to, "Ta bảo ngươi sắp ngựa từ bao giờ, sao bây giờ còn phải hỏi?"

Tửu bảo luôn miệng "dạ dạ", vừa toan quay đi, gã kia chợt gọi giật lại, "Lại đây!"

Tửu bảo run sợ quay lại hỏi, "Đại... đại gia truyền gì ạ?"

Gã mặt vàng hạ giọng hỏi, "Ngươi có biết Truyền Thanh Quán ở đâu không?"

Tửu bảo vội cười nịnh đáp, "Cứ theo đường cái lớn đi thẳng, tức là Trạm Truyền Thanh. Từ đây tới đấy còn phải đi mất khoảng chừng nửa ngày đường nữa."

Gã mặt vàng lại vẫy tay nói, "Thôi đi mau lên!"

Tửu bảo vội vã quay đi. Bách Duy nghe ba chữ "Trạm Truyền Thanh" chợt động lòng nghĩ thầm, "Trạm Truyền Thanh" nào? Hay là địa điểm nhà Nam Cung thế gia phái người tiếp mật lệnh tới đó? Nhưng các nhân vật võ lâm kép nhau tới Trạm làm gì?"

Ba gã đại hán xách hành lý bước xống sân, một gã mày rậm mắt tròn vừa đi vừa cười nói, "Đại kha bữa nay coi có vẻ nóng ruột dữ. Có lẽ muốn lấy người con gái ấy làm vợ thật chăng?"

Gã đại hán mặt vàng thản nhiên đáp, "Cố nhiên!"

Một người vừa cao vừa gầy lắc đầu nói, "Có bé họ Liên dù đẹp như tiên, cũng chẳng qua chỉ là một con nha hoàn của nhà Nam Cung thế gia, địa vị xứng với đại kha sao được?"

Bách Duy đã quay về phòng, nghe thấy câu ấy lại vội đứng lại, lắng tai nghe. Lại thấy gã áo vàng cười nhạt nói, "Có phải ta thấy con bé ấy đẹp mà muốn lấy làm vợ đâu?"

Gã mắt tròn cười nói, "Đại kha còn có dụng ý gì nữa, sao không nói toạc ngay ra cho anh em cùng nghe, việc gì phải úp mở?"

Gã mặt vàng đưa mắt nhìn quanh, không thấy ai, liền sẽ nói, "Ta chỉ định tìm lối tiến thân, kết mối thân tình với nhà Nam Cung thế gia mà thôi, còn chuyện vợ con không quan hệ."

Gã cao gầy cau mày nói, "Ba anh em mình đang ở ngoài vòng cương toả, tự do tự tại bao nhiêu. Sao bỗng dưng đại kha lại muốn kết thân với nhà Nam Cung thế gia, để mua lấy sự phiền não?"

Gã mặt vàng nói, "Nhị đệ nghĩ thế là lầm, nhà Nam Cung thế gia ngày nay danh tiếng hiển hách, có kém gì một vị đế vương trong võ lâm. Anh em mình muốn làm nên nghiệp lớn, mà không đầu thân vào nhà Nam Cung thế gia thì còn đầu vào đâu? Vả Nam Cung thế gia bề ngoài tuy nói là kén rể cho cô ả họ Liên, bên trong biết đâu không nhân cơ hội mà chiêu mộ anh hùng thiên hạ, kén một nhân vật xuất sắc để cùng họ sát cánh tranh bá đồ vương!"

Nói tới đó, ba người đã ra tới cửa ngoài. Bách Duy kinh ngạc nghĩ thầm, "Thế là nghĩa gì? Nhà Nam Cung thế gia lại sắp giở trò gì đây?" Hắn nảy tính tò mò muốn theo ra cửa xem nhưng đã nghe tiếng chân ngựa lộp cộp đi xa rồi.

Bách Duy vừa toan quay về phòng, đã thấy tửu bảo bước tới bên, cười hỏi, "Đại gia cũng sắp đi bây giờ sao?"

Lúc này Bách Duy đã cải trang làm người thường, nên tên tửu bảo không biết là sư. Bách Duy gật đầu nói, "Chúng ta cũng đi bây giờ, nhưng không vội lắm. Ta muốn hỏi thăm ngươi một việc."

Tửu bảo nói, "Lão gia cứ hỏi."

Bách Duy nói, "Những vị giang hồ hảo hán vừa rồi đi đâu mà có vẻ hấp tấp thế?"

Tửu bảo cười nói, "Lão gia chắc hẳn đã biết trong võ lâm có một nhà danh giá vào bực nhất, gọi là Nam Cung thế gia chứ?"

Bách Duy gật đầu, "Có, ta có biết! Thế sao cơ?"

Tửu bảo gãi tai nói, "Nhà Nam Cung thế gia tuy năm đời đều là quả phụ, nhưng người nào cũng rất giỏi võ nghệ. Nghe đâu vị lão thái thái nhà ấy chính là một nhân vật thần tiên, có thể giơ tay tung ra một đạo kiếm quang, lấy đầu người như bỡn."

Bách Duy ngẫm nghĩ cười thầm, nói, "Ừ, ta cũng nghe người ta đồn như vậy."

Tửu bảo nói, "Có đúng thế không? Người ta còn nói không những mấy vị quả phụ võ nghệ cao cường, đến bọn nha hoàn cũng đều đẹp như Hằng Nga tiên tử, tài mạo song toàn cả."

Bách Duy sốt ruột hỏi gắt, "Ta hỏi ngươi cần gì sao ngươi không trả lời, mà cứ nói dài dòng mãi?"

Tửu bảo nhăn nhở cười, "Chuyện gì cũng phải có đầu có đuôi mới được chứ? Số là..."

Gã ho "họ...oc... họ... ọc" rồi tiếp, "Mấy bữa nay Thái phu nhân nhà Nam Cung thế gia tự nhiên lại động lòng từ bi, muốn kén chồng cho mấy chị nha hoàn..."

Bách Duy cau mày hỏi, "Kén chồng cho nha hoàn, thì việc gì mà kinh động đến cả các vị hảo hán giang hồ như vậy."

Tửu bảo cười hì hì, "Nguyên do thế này. Thái phu nhân cho người truyền tin đi các nơi là bất cứ quan, quân, dân đẳng ai cũng có thể ứng tuyển được hết. Người nào tốt số được ả nha đầu của bà ta vừa mắt, thì không những đã được vợ đẹp, lại còn được một số hồi môn kếch xù nữa. Lão gia thử tưởng tượng một món bở như vậy, ai mà không ham?"

Bách Duy gật gù, "À, ra vì thế mà bọn hảo hán giang hồ mới tấp nập đổ xô cả về Trạm Truyền Thanh để ứng tuyển phải không?"

Tửu bảo lắc đầu, "Nào phải chỉ có một Trạm Truyền Thanh? Số nha đầu của Nam Cung thế gia gả chồng lần này có tới gần mười cô nên họ chia ra làm mười địa điểm kén rể. Nhưng nghe đâu có nha hoàn họ Liên ở Trạm Truyền Thanh này, võ công đã cao, người cũng tuyệt đẹp, nhất là đôi con mắt to, mỗi khi cô ta liếc thì "Ôi chao chao... núi cũng phải đổ, thành cũng phải nghiêng". Vì thế mà hai hôm này các bằng hữu võ lâm kéo về Trạm Truyền Thanh còn đông hơn nước chảy!"

Bách Duy trầm ngâm một lát rồi nói, "Từ đây tới Trạm Truyền Thanh phải đi lối nào?"

Tửu bảo nói, "Cứ thẳng đường cái mà đi, sẽ tới trạm, trước cửa trạm có cây hoè vừa to vừa cao, dễ nhận lắm!"

Bách Duy lại chợt nhớ tới lời dặn trong tờ mật lệnh, bèn gật đầu lẩm bẩm, "Đúng rồi, chính là cây hoè ấy!"

Tửu bảo đưa mắt nhìn Bách Duy một lượt, rồi cười nói, "Có lẽ lão gia cũng cao hứng muốn thử thời vận chăng? Kể thì cũng hay! Nhưng nghe đâu điều kiện kén rể của họ cũng hắc búa lắm thì phải, tuy họ không hạn chết tuổi tác, giàu nghèo, nhưng lại cần người văn võ kiêm toàn, và ít nhất cũng có đôi chút tiếng tăm trong giang hồ mới hợp cách!"

Bách Duy cười nói, "Ta ngần này tuổi đầu rồi, còn mơ tưởng gì những chuyện ấy? Ta muốn đến Trạm Truyền Thanh chẳng qua cũng chỉ cốt xem cho biết, ngoài ra chẳng có ý gì cả."

Thốt nhiên nghe phía sau có một giọng lạnh lùng cất lên, "Cuộc vui ấy thiết tưởng chúng ta không nên xem thì hơn!"

Bách Duy giật mình quay lại, thì ra Vô Tâm đã đứng phía sau mình từ lúc nào.

Tửu bảo thấy vẻ mặt và giọng nói của Vô Tâm, biết chàng có ý khó chịu, bèn vội len lén chuồn thẳng.

Bách Duy cười ngượng nghịu, "Tướng công đã nghe rõ chuyện rồi chứ? Không biết Nam Cung thế gia định giở cái trò "thi võ kén rể" này, là có dụng ý gì vậy?"

Vô Tâm cau mày đáp, "Việc này tuy chỉ là việc tầm thường, nhưng đã do nhà Nam Cung thế gia nêu lên, thì tất phải có thêm ý."

Bách Duy nói, "Vì thế bần tăng mới muốn tới Trạm Truyền Thanh để xem xét xem sao."

Vô Tâm lắc đầu một cách quả quyết, "Không, chúng ta tuyệt đối không nên đến đó!"

Bách Duy ngạc nhiên hỏi, "Tại sao?"

Vô Tâm nói, "Bỗng dưng họ bày ra câu chuyện kén chồng cho tỳ nữ, làm náo động giang hồ, ý nghĩa tất nhiên không phải chỉ giản dị có thế? Trong khi ta chưa khám phá ra được âm mưu của chúng ở chỗ nào, tuyệt đối không nên mạo hiểm. Vả lại chúng ta có đến xem, chẳng qua cũng chỉ trông thấy những gì họ trưng bày bề ngoài chớ làm sao có thể dò xét được những cái ẩn bí bên trong của họ?"

Bách Duy muốn đến Trạm Truyền Thanh mục đích cốt làm theo lời dặn trong tờ mật lệnh, tìm hiểu những chuyện bí mật của Nam Cung thế gia, chớ hắn có thiết gì xem thí võ. Nay thấy Vô Tâm cứ nhất quyết gạt đi, hắn lấy làm bực mình lắm, nhưng vẫn cố nài, "Trạm Truyền Thanh mấy hôm nay hào kiệt bốn phương tụ họp đông như kiến cỏ, mình đi lẩn vào đám đó, làm sao họ biết được? Vả lại dù chưa dò được những bí ẩn bên trong, thì ít nhất cũng được xem những cái phô bày bên ngoài, may ra có thể nhận đó mà xét đoán được thâm ý của họ."

Vô Tâm lắc đầu nói, "Không được! Người thi rất đông, nhưng chẳng ai qua mắt được bọn Nam Cung thế gia. Không những vậy họ còn ghi tên tuổi từng người vào danh sách của họ. Mình muốn dò xét, đâu phải chuyện dễ!"

Bách Duy ấp úng hỏi, "Nhưng nếu... nếu tướng công với bần đạo không... không..."

Nhâm Vô Tâm nghiêm trọng nét mặt mà rằng, "Ý tại hạ đã quyết! Sau khi nghĩ kỹ, chắc đại sư cũng cho lời ta nói là phải..."

Dứt lời chàng quay mình đi luôn. Ngó theo bóng chàng đi vào trong cửa rồi, Bách Duy vừa tức vừa sốt ruột. Việc bí mật thông tin tức với người của Nam Cung thế gia ở Trạm Truyền Thanh rất là hệ trọng. Nếu như đêm tối mai tức là kỳ trăng tròn mà không tới kịp Trạm Truyền Thanh thì cơ hội tốt qua mất, không đời nào lại có được nữa. Bách Duy đứng ngây người ra nghĩ ngợi một hồi lâu. Chợt phía trước mặt, một cánh cửa sổ hé mở, Diệu Pháp thò đầu ra. Đôi mắt hắn ngầu đỏ nhìn thấy Bách Duy, hắn cười gượng mà rằng, "Đại sư đã dậy! Khoẻ mạnh chứ!"

Bách Duy cười, hất cằm chào lại, "Khoẻ mạnh!"

Chợt nhớ ra một việc, một lão loáng lên, vội bước lại phía cửa sổ. Diệu Pháp thấy bộ dạng lão hơi khác, buột miệng hỏi, "Đại sư có việc gì chỉ giáo chăng?"

Bách Duy trầm giọng nói, "Có! Đạo huynh có thể mở cửa để bần tăng qua nói chuyện không?"

Vừa dứt câu thì cánh cửa mở rộng ra. Diệu Không đã đứng giữa cửa, mỉm cười nói, "Xin mời đại sư qua đây."

Bách Duy đưa mắt nhìn, thấy trong phòng chỉ có Diệu Pháp và Diệu Không, còn Diệu Vũ không có đấy. Lão yên dạ, nghĩ thầm, "Diệu Vũ vắng mặt thì ta càng dễ thi hành kế hoạch."

Nghĩ tới đây, lão đưa tay đóng ập cánh cửa lớn và nói, "Còn cửa sổ nữa. Yêu cầu đạo huynh gài lại cho."

Thấy vẻ mặt lão thần bí, với cử chỉ như vậy, sư phụ còn đương e dè thì Bách Duy đã bước tới tự động đóng gài cửa sổ lại. Diệu Không cau mày chưa kịp hỏi thì Bách Duy đã nói, "Câu chuyện hết sức can hệ, bí mật, hãy nghe bần tăng lần lượt trình bày."

Ba người cùng ngồi xuống. Bách Duy luôn luôn đưa mắt nhìn hai người rồi mới đem câu chuyện vừa rồi ra thuật lại.

Diệu Pháp, Diệu Không đều biến nét mặt. Một lúc sau Diệu Pháp nói, "Nam Cung thế gia thay đổi phương châm. Bên trong hẳn có mưu kế gì thần kỳ... thực khó đoán ra được."

Nói tới đây, Diệu Pháp vùng đứng lên, đi đi lại lại trong phòng mấy lượt, đột nhiên dừng lại, ngửa mặt lên trời thở dài mà rằng, "Theo đệ tử nghĩ thì đại sư cùng đệ tử nên tới Trạm Truyền Thanh bí mật dò xét, hoặc giả có thể tìm ra được điều gì chăng?"

Bách Duy mừng thầm, nhưng còn vờ hỏi Diệu Không, "Chẳng hay đạo huynh nghĩ sao?"

Diệu Không trầm ngâm một phút rồi nói, "Tuy rằng nguy hiểm, nhưng cũng không còn cách nào khác hơn. Huống chi lúc này anh hùng các nơi đều tụ tập cả ở Trạm Truyền Thanh. Chúng ta lẫn lộn vào số đông chắc không bị lộ tẩy."

Bách Duy đã đánh trúng tâm lý và lòng nhiệt huyết thanh niên. Quả nhiên Diệu Không đã nghĩ ngợi như thế và đồng ý ngay. Đột nhiên Bách Duy "a" lên một tiếng, thở dài mà rằng, "Đáng tiếc! Chỉ đáng tiếc..."

Cố nhiên là Diệu Pháp cùng Diệu Không cùng ngạc nhiên hỏi tại sao? Bách Duy lại thở dài, cúi đầu như nói một mình, "Đáng tiếc! Nhâm tướng công quyết là không đồng ý..."

Diệu Pháp, Diệu Không cùng yên lặng. Một lúc sau, Diệu Không cười gượng mà rằng, "Nhâm tướng công cẩn thận, tinh tế. Quyết không để chúng ta làm liều lĩnh như thế. Chúng ta kể ra cũng khá nông nổi."

Bách Duy cười nhạt nói, "Cẩn thận, tinh tế cái gì. Tình thế như vầy mà còn cứ cẩn thận. Nam Cung thế gia định ra tay thì bọn ta hết đường sống!"

Thấy hai người ngó nhau, lặng ngắt, Bách Duy ghé gần lại, gằn từng tiếng nói, "Cuộc chiến tranh chưa từng có trong làng võ lâm ngày nay, ngày từ lúc đầu đã phân ra mạnh với yếu tố rõ rệt. "Trung Nguyên Tứ Quân Tử" với "Đường môn thế gia trong đất Thục" đều là những tay danh vọng, vậy mà đã bị hại trước tiên. Kế đó Nhâm tướng công, tuy là bậc kỳ tài, cố vãn hồi sự suy sụp, nhưng sức cũng không chống lại lâu hơn được nữa. Biết sao bây giờ? Chúng ta tận lực tham gia vào nhưng đôi bên lực lượng đã quá chênh lệch, lại thêm hai lần thảm hại ở Âm sơn và Hồi Thanh Cốc, thực đã kiệt lực không ngóc đầu lền được nữa."

Ngừng một giây phút, lão gay gắt giọng nói tiếp, "Theo ta xét, bất luận là thế nào, nếu cứ giữ nguyên tình trạng này thì chỉ có mà chết mòn đi hết. Duy chỉ còn một lối chơi một đòn bất ngờ là có thể cứu nguy và hy vọng thắng là khác. Nếu cứ cẩn thận quá, bỏ lỡ cơ hội là hết đời!"

Bị lão khích động và thúc đẩy mạnh, Diệu Pháp, Diệu Không tuy vẫn ngồi yên không nói, nhưng vẻ mặt ra ý tán đồng.

Một hồi sau, Diệu Pháp sẽ thở dài nói bâng quơ, "Không định kế hoạch sẵn thì..."

Bách Duy mắm môi nói, "Kế hoạch à! Thiên biến vạn hoá, hãy biết rằng tới Trạm Truyền Thanh đã. Tuỳ việc xảy ra mà đối phó. Ngồi nhà hoạch định, đoán phỏng chỉ là lối hủ nho, hỏng việc! Phải thế không?"

Thấy hai người ấp úng vâng dạ, Bách Duy bèn mạnh dạn nói với giọng cương nghị hơn, "Hai vị đã nhận rằng bần tăng nói là phải, như vậy tức là nhận rằng Nhâm tướng công đã lầm lẫn. Rút lại là không thể theo mệnh lệnh của Nhâm tướng công, là người thần trí đã hôn mê, hơi sức đã kiệt rồi. Ôi! Đáng thương thay! Nhưng tình thế bắt buộc phải quyền biến, miễn là có lợi cho vận mệnh toàn thể võ lâm!"

Diệu Pháp bóp chặt hai tay vào nhau, trịnh trọng nói, "Việc này quan trọng quá lớn. Xin cho đệ tử chúng tôi nghĩ kỹ đã."

Một lúc sau Diệu Không ngập ngừng nói, "Đại sư muốn rằng chúng tôi... đối với Nhâm tướng công! Chao ôi! Chúng tôi thực không nỡ!"

Bách Duy quát lên, "Không nỡ... ư? Để mặc cho võ lâm đồng đạo muôn kiếp không khôi phục được nữa sao? Đằng nào khinh, trọng?"

Diệu Pháp, Diệu Không cùng hỏi, "Theo ý đại sư nên như thế nào?"

Bách Duy nhấn mạnh, "Từ nay chúng ta hành động đều tự ý tác chủ. Quyết không chịu để Nhâm tướng công ra lệnh sai khiến. Đó là bất đắc dĩ. Hai vị nghĩ sao?"

Diệu Pháp thở dài, buồn rầu nói, "Đại cuộc đã hỏng. Cân nhắc nặng nhẹ thì cũng chỉ còn có cách ấy!"

Quay lại hỏi Diệu Không, "Sư đệ nghĩ thế nào?"

Diệu Không nói, "Đại kha đã quyết. Tiểu đệ đành cũng xin theo."

Bách Duy mừng thầm. Chợt Diệu Pháp nghiêm giọng nói, "Nhưng còn... Tam sư đệ... Có đồng ý chăng?"

Bách Duy cau mặt lo ngại. Diệu Không gật đầu, thong thả nói, "Đệ tử có thể thuyết phục hắn! Đại sư cứ yên tâm!"

Ngừng một chút, như nhớ ra một điều, bèn cất giọng nghiêm trọng hỏi, "Việc đã đành phải như thế, nhưng còn đối với Nhâm tướng công... Đại sư đối đãi ra sao?"

Bách Duy thấy vẻ mặt hai người ngưng đọng, bèn đằng hắng nói, "Nhâm tướng công vốn là tay hiệp cốt, nhân tâm. Nay dù đã biến ra đến thế nào, chúng ta cũng phải cư xử ăn nói cho lễ độ!"

Thấy vẻ mặt hai người hoà hoãn, Bách Duy mới yên dạ, bèn nói, "Giờ chúng ta lấy lời lẽ ôn tồn nói với Nhâm tướng công, yêu cầu tướng công nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Mọi việc xin uỷ cho người khác tạm thời điều khiển. Chớ làm cho tướng công quá xúc động!"

Quay sang nhìn Diệu Pháp rồi nói tiếp, "Xin uỷ cho Diệu Pháp đạo huynh dùng lời uyển chuyển nói với tướng công!"

Thấy Diệu Pháp lắc đầu, xua tay, Bách Duy bèn nói với Diệu Không, "Vậy thì Diệu Không đạo huynh đảm nhận việc này."

Diệu Không giãy nãy lên, không nhận và còn nói, "Giết chết ngay đệ tử cũng không dám. Vả chăng ý kiến này chính do đại sư nêu lên, thiết tưởng..."

Bỗng cánh cửa bị đẩy toang ra, Bách Duy giật bắn người lên. Một người vừa bước vào, chưa qua khuôn cửa đã lớn tiếng mà rằng, "Việc ấy khó gì mà không dám nói. Nếu ai cũng ngại nói thì đệ tử xin đảm nhận."

Mọi người nhìn ra là Diệu Vũ. Bách Duy tái mặt đi, vội hỏi, "Đạo huynh đã lén nghe hết câu chuyện chúng ta bàn rồi ư?"

Thấy Diệu Vũ "dạ" gật đầu, Bách Duy càng đổ quạu, "Tại sao không vào đây cùng bàn bạc mà lại nấp ở ngoài nghe lén?"

Diệu Vũ thản nhiên nói, "Đệ tử tới đã lâu. Nghe biết bên trong đương bàn bạc việc bí mật mà không có ai canh gác bên ngoài, quả thực là quá coi thường. Nếu như ai, hoặc lại chính Nhâm tướng công chợt tới thì sao?"

Bách Duy định quở hắn, không ngờ bị hắn phê bình trách lại đến cứng họng ra. Một vài giây sau, lão cười gượng mà rằng, "Bần tăng quả thật sơ ý! Xin thành thật cảm tạ đạo huynh!"

Diệu Vũ cười nói, "Không dám!"

Chép miệng thở dài, "Tình thế đến như vậy không còn cách gì hơn. Đệ tử chính sẵn có ý ấy, chưa dám đem bàn đó thôi!"

Bách Duy mừng rờ, vừa nói vừa vỗ tay, "Tuyệt diệu! Bần tăng biết chắc là đạo huynh tán thành mà!"

Diệu Vũ nói, "Không nên chậm trễ! Đệ tử xin nói ngay với Nhâm tướng công! Nhưng đại sư và sư huynh cũng phải giải thích thêm vào!"

Thế là Diệu Vũ dẫn đầu, Bách Duy, Diệu Pháp, Diệu Không theo sau, tới chỗ Nhâm Vô Tâm ở. Thấy chàng ngồi bên giường Huyền Chân, đương thừ mặt ra.

Diệu Pháp chép miệng, hỏi, "Chẳng hay bao giờ tướng công chuẩn bị lên đường?"

Chợt nhớ ra rằng hỏi như vậy thì có khác gì mọi việc vẫn do Nhâm Vô Tâm làm chủ cho lệnh! Như vậy là trái hẳn với mục đích câu chuyện định nói ra lúc nãy. Biết mình lỡ lời, Diệu Pháp hỏi lên mấy tiếng vội lùi lại đứng vào bên góc phòng.

Nhâm Vô Tâm quay lại, đôi mắt lờ đờ mất tinh thần, quét ngang một cái. Thấy chàng tiều tuỵ, bọn Bách Duy có ý hổ thẹn, đều cúi đầu xuống. Chợt nghe chàng thở dài rồi nói, "Lẽ ra khởi hành rồi! Thấy các vị quá mệt mỏi nên chưa dám... đành thư hoãn lại."

Thấy chàng quên mình mà chỉ lo thay cho người, cả bọn cùng cảm thấy lúng túng cứ cúi gầm mặt xuống. Một hồi lâu, Bách Duy sốt ruột quá, bèn dịch gần lại bên Diệu Vũ, sẽ nắm áo giật ra hiệu.

Diệu Vũ sẽ đằng hắng, cười với vẻ ngượng nghịu, rồi cất tiếng, "Bọn đệ tử chúng tôi dù có khó nhọc, xong cũng chỉ chừng nào thôi! Vậy mà bất cứ công việc lớn nhỏ, đều do tướng công phải lo liệu để ý. Ôi chao! Tướng công mới quả thực là vất vả quá sức!"

Nhâm Vô Tâm lẩm nhẩm nói, "Vất vả... quá sức! Thật vậy, quá... mệt... mỏi! Nhưng... nhưng biết sao được. Trừ phi chết thì chịu... Còn sống ngày phút nào thì còn phải..."

Tiếng chàng nhỏ dần và thở gấp.

Diệu Vũ thở dài nói, "Vì làng võ lâm mà hy sinh, cúc cung tận tuỵ xưa nay chưa từng có ai được như tướng công. Nhưng chẳng hay cứ tận tuỵ tranh đấu đến... bao giờ? Bao giờ kết liễu."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, "Năm mười tháng hay vài chục năm xá kể chi! Còn tranh đấu được ngày nào thì cứ tranh đấu!"

Diệu Vũ nói, "Nhưng cuộc tranh đấu chưa kết thúc mà tướng công đã quỵ xuống thì sao? Cứ tình trạng sức khoẻ của tướng công hiện thời, có thể bất cứ lúc nào cũng quỵ xuống được. Xin tướng công nghĩ kỹ điểm ấy. Hậu quả sẽ ra sao?"

Chàng buồn thảm trả lời, ngẩng đầu nhìn Diệu Vũ, một lúc sau lại nhìn Diệu Pháp, bỗng trầm giọng cất tiếng hỏi, "Có thể như thế lắm. A! Các vị có câu chuyện gì muốn nói chăng?"

Diệu Vũ "dạ". Hắn ấp úng một chút, đánh bạo thưa, "Đệ tử cùng Bách Duy đại sư, sau khi bàn bạc kỹ rồi, đều thấy rằng tướng công... cần phải tĩnh dưỡng một thời gian. Trong thời gian tĩnh dưỡng đó, tướng công chỉ nên..."

Nhâm Vô Tâm hơi run người lên, vội giơ tay lắc, cắt đứt lời Diệu Vũ đi, "A! Các người muốn rằng vô luận là việc gì, ta cũng không ngó ngàng tới sao?"

Diệu Vũ cúi gầm mặt xuống nói, "Dạ! Đó là đệ tử thành thực lo thay cho sức khoẻ của tướng công. Vì đã tới lúc cực kỳ quan hệ..."

Nhâm Vô Tâm vụt cái đứng dậy, da mặt đương xanh nhợt bỗng ửng hồng lên, nhìn mọi người một lúc rồi chậm rãi nói từng tiếng, "Các người muốn nói gì? Ta đã hiểu cả rồi. Khỏi phải nói nữa! Các người cho rằng ta không đủ tài sức chỉ huy mọi việc, vì gần đây ta luôn luôn bị thất bại! A! Điều đó không thể trách các người được."

Chàng hổn hển thở gấp, nghiến răng nói tiếp, "Ta đã hủy hoại cả cơ nghiệp do ta gây dựng lên. Ta tự nhận không còn đủ uy tín lãnh đạo các vị nữa. Từ nay về sau, bất luận việc gì, ta sẽ không định đoạt.Quyền chỉ huy sẽ ở trong tay các người!"

Dứt lời, chàng ngồi phệt xuống, hai tay ôm đầu, mặt cúi gầm! Bách Duy không ngờ rằng câu chuyện kết thúc thuận tiện một cách lẹ làng như thế. Tuy có chút thương xót thay cho chàng, một thiếu niên anh hùng bị nước đường cùng, đành thúc thủ, nhưng lại mừng thầm mưu mẹo của mình đã đạt. Bọn Diệu Pháp cũng bùi ngùi rơi lệ. Diệu Pháp lẩm bẩm nói, "Về tình trạng sức khoẻ, tướng công phải lui bước, dưỡng sức. Nhưng bất quá chỉ là tạm thời thôi!"

Diệu Không, Diệu Vũ cùng nói, "Thực vậy! Một khi sức khoẻ và tinh thần tướng công khôi phục rồi thì xin tướng công lại đảm đương mọi việc như cũ! Trừ tướng công ra, không ai đảm nhận nổi gánh nặng này..."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười. Lòng chàng chua xót, vụt cái đứng lên giơ tay đẩy cánh cửa sổ ngó ra. Bên ngoài mưa phùn phơi phới như tơ bay, càng khiến kẻ có tâm sự não ruột buồn hơn.

"Ôi! Mưa gió tơi bời! Không một tiếng gà gáy, chó cắn! Giang hồ mưa gió, biết bao giờ... tạnh!"

Nhâm Vô Tâm lầm nhầm than thở, lòng rạo rực lên, mắt loang loáng, đột nhiên đôi hàng lệ nhỏ xuống. Chàng không quay đầu lại cho nên bọn Diệu Pháp không biết chàng đương khóc.

Bách Duy sốt ruột, đằng hắng một cái, cất tiếng hỏi, "Chẳng hay tướng công... rồi sẽ rút lui về đâu?"

Diệu Pháp bỗng biến sắc mặt, nói chặn đi, "Rút lui về đâu? Sao đại sư lại hỏi thế? Lẽ nào chúng ta để tướng công một mình thui thủi ra đi!"

Diệu Không lớn tiếng nói, "Trong khi dưỡng sức, dù là tướng công không nên bận tâm lo nghĩ hỏi han mọi việc, nhưng cũng cần phải luôn luôn ở gần chúng ta để chúng ta tiện coi sóc."

Bách Duy cười gượng, "Xin chớ hiểu lầm ý bần tăng! Chính là sợ tướng công bỏ đi, không ai trông nom săn sóc... đó thôi!"

Nhâm Vô Tâm đưa tay gạt thầm nước mắt, quay lại nói, "Tại hạ mong được ở gần bên các vị! Nhưng... nhưng các vị thì luôn luôn bôn ba... hoạt động! Dù tại hạ chẳng còn là chủ động, song le vẫn không tránh được lo lắng. Như vậy sao gọi là tĩnh dưỡng... Vậy nên..."

Nói tới đây sẽ đưa mắt thấy mọi người thất sắc, chàng từ từ nói tiếp, "Nếu các vị thật tâm muốn tại hạ được nghỉ ngơi, thì tại hạ phải tự ý rời xa các vị."

Diệu Pháp kinh hãi hỏi, "Tướng công... quyết định xa chúng tôi?"

Vô Tâm thở dài, "Tại hạ đã nói rằng sự việc bất đắc dĩ phải như thế..."

Quay lại nhìn Huyền Chân, thở dài nói tiếp, "Các vị lăn mình vào trong cuộc thảm chiến, không còn hơi sức đâu săn sóc kẻ khác. Vậy nên tại hạ sẽ đem Huyền Chân đạo trưởng đi theo. Vì lẽ đạo trưởng là do tại hạ mời, vô luận là thế nào, phải do tại hạ đem ông ta đến chỗ có danh y săn sóc. Sau đó... nếu đạo trưởng sớm lành mạnh, tại hạ sẽ cùng đạo trưởng trở lại đây... chờ đợi các vị. Trái lại... nếu bệnh tình không giảm thì tại hạ sẽ đem đạo trưởng đi khắp chân trời góc bể, kiếm cho kỳ được danh y mới thôi!"

Bách Duy bỗng gay gắt giọng mà rằng, "Tướng công nghĩ lầm rồi! Nếu như bệnh tình đạo trưởng không giảm thì tướng công sẽ không bao giờ trở lại đây sao? Bần tăng tuy chẳng phải là đệ tử đường nhưng thấy Huyền Chân đạo trưởng như vậy, cũng phải đau lòng."

Tới đây lão đưa mắt cho bọn Diệu Pháp, rồi nói tiếp, "Tuy nhiên cân nhắc nặng nhẹ, lợi hại, thì vô luận là bệnh tình đạo trưởng ra sao, nội trong một tháng cũng phải trở về đây đã. Bất quá chỉ trong vòng một tháng là đại cuộc biến đổi. Lúc đó chúng tôi cần có tướng công chủ trì mọi việc. Còn bệnh tình đạo trưởng sẽ lo sau!"

Kể ra Bách Duy bàn như vậy là chánh đáng quang minh. Kỳ thực thì lão không muốn Huyền Chân khôi phục thần trí, vì sợ âm mưu của lão bị bại lộ. Lão tin chắc một trăm phần trăm là các danh y trong bọn Địch đại hiệp đều bị Nam Cung thế gia giết sạch cả rồi! Nếu như chàng đem Huyền Chân đi khắp đó đây, lỡ ra gặp tay thánh y chữa được cho Huyền Chân tỉnh táo trở lại, sẽ nói hết bí mật của lão ra thì nguy.

Bọn Diệu Pháp có hiểu đâu thâm mưu của Bách Duy. Thấy lão khẩn khoản như vậy lại cho là phải, bèn đồng thanh nói, "Đại sư nói phải lắm! Phải coi việc công là hệ trọng. Xin tướng công chấp thuận!"

Nhâm Vô Tâm nghĩ ngợi một lúc rồi nói, "Cũng đành phải như thế vậy! Nhưng xin Bách Duy đại sư chấp thuận cho một điều này."

Thấy Bách Duy hơi giật mình nhưng trấn tĩnh ngay lại, chàng nói tiếp, "Tại hạ dời khỏi đây rồi, xin đại sư thay thế tại hạ, đảm nhiệm chủ trương mọi việc."

Bách Duy mừng rơn lên, nhưng làm ra bộ rụt rè, nói, "Chết nỗi! Tài sức bần tăng gánh vác sao nổi trọng trách!"

Nhâm Vô Tâm ôn tồn nói, "Lâm nguy không loạn! Tuỳ cơ ứng biến! Phi đại sư không ai đương nổi!"

Thấy Bách Duy còn ra vẻ khiêm tốn, Diệu Pháp lớn tiếng nói, "Nếu được đại sư chỉ huy, anh em tôi xin nhất nhất tuân lệnh!"

Vừa nói vừa cầm chén trà lên, bóp một cái vỡ vụn ra mà rằng, "Ai trái lệnh sẽ như chiếc chén này..."

Nhâm Vô Tâm gật đầu khen phải. Bách Duy thở dài nói, "Các vị cả quyết như vậy! Bần tăng còn dám nói gì nữa!"

Nhâm Vô Tâm liếc mắt một cái, nghiêm giọng mà rằng, "Vậy ngay từ phút này, để tránh cho khỏi bị ảnh hưởng vì sự có mặt của tại hạ, xin mời bốn vị qua nhà bên bàn việc!"

Bách Duy nghĩ ra điều gì, vừa toan nói, thì bọn Diệu Pháp đã quay mình đi ra. Còn Nhâm Vô Tâm thì ngồi xuống, ngẩn mặt ra nhìn Huyền Chân đạo trưởng. Bách Duy đành lặng lẽ theo bọn kia đi ra.

Về tới nhà bên, Bách Duy còn vờ vẫn thở ngắn than dài. Một hồi lâu, mới trở lại điểm chính, trầm giọng mà rằng, "Bần tăng tuy được các vị đồng thanh đề cử. Nhưng bất cứ việc gì phải có họp bàn với nhau, thảo luận, quyết định đã. Ý kiến một người thì có hạn. Góp lại mới tránh khỏi thiếu sót."

Ngưng một lúc, Bách Duy nêu câu hỏi đầu tiên, "Bữa nay, sau khi lìa khỏi đây, chúng ta đi về đâu?"

Diệu Vũ hăng hái nói, "Phong Vân Tế Hội nơi Trạm Truyền Thanh! Tới đó chứ còn đâu nữa."

Thấy ba người kia cùng tỏ ý tán thành, Bách Duy cả mừng. Không còn nghi ngờ gì nữa, mưu kế của mình quyết phải thành công!

Hồi thứ năm mươi mốt

Học nghề trộm cướp, lẻn vào hang hùm

Bách Duy cùng bọn Diệu Pháp bàn định xong rồi, trở lại chỗ Nhâm Vô Tâm ở, chỉ thấy gian nhà trống, Nhâm Vô Tâm cùng Huyền Chân đạo trưởng đều biến mất, trên bàn để lại mảnh giấy với hàng chữ, "Tháng sau vào tuần trăng tròn, sẽ đợi ở đây."

Tuy chỉ có mười chữ vắn tắt, bọn anh em Diệu Pháp coi thấy cũng phải bùi ngùi nhỏ nước mắt. Bách Duy dù lòng dạ thâm độc, cũng cảm thấy bâng khuâng. Diệu Không thở dài, nói, "Nhâm tướng công sao mà đi... vội vã thế! Không đợi..."

Bách Duy thấy anh em Diệu Pháp ngậm ngùi thương cảm, đứng ngây cả ra đó, vội lên tiếng nhắc, "Nhâm tướng công đi rồi, nhưng một tháng sau ta lại hội ngộ. Ba vị chớ quá bi thương. Phải hăng hái hoạt động và nhất là không để phí thời giờ. Chúng ta tức khắc lên đường tới Trạm Truyền Thanh, chớ lỡ cơ hội."

Diệu Vũ hô to lên, "Sửa soạn... Đi liền!"

Mọi người lập tức sửa soạn hành trang, trả tiền phòng, hỏi thăm đường lối rồi vội vã ra đi.

Dọc đường, Diệu Pháp với Diệu Không đều uất ức không vui. Thấy vậy, Bách Duy cũng phải làm ra bộ trầm lặng buồn ngán. Duy có Diệu Vũ thì trái lại, có vẻ hào hứng hăng hái.

Trên đường tới Trạm Truyền Thanh bữa nay, tuy có xe ngựa qua lại, nhưng nhận ra thì những tay võ lâm hào kiệt chỉ có loáng thoáng thôi, chớ không đông đúc như mọi người tưởng tượng. Bách Duy ngạc nhiên hỏi, "Đêm nay có phải là mười lăm, trăng tròn không?"

Diệu Vũ trả lời, "Trăng tuy tròn, nhưng mới là bữa mười bốn."

Bách Duy thắc mắc hỏi lại, "Có đúng là mười bốn chăng?"

Diệu Vũ nói, "Đệ tử nhớ đúng lắm!"

Một phút sau bỗng hỏi lại, "Đại sư thắc mắc như thế, hẳn là có hẹn gặp gỡ ai bữa rằm chăng?"

Bách Duy giật mình gượng cười, "Bần tăng chỉ vì lo nghĩ, quên cả ngày tháng nên hỏi đó thôi!"

Chợt nhận ra nơi đây là một thôn trấn đông đúc bên một dòng khe nước trong vắt có một trang viện rộng lớn, có nhà ngói, cửa sơn mới, rõ ra vẻ một nhà giàu có lớn. Để ý nhận kỹ trang viện đó rồi, Bách Duy chợt ra lệnh dừng xe lại mà rằng, "Đêm nay chúng ta nghỉ lại đây. Mai khởi hành sớm thì buổi trưa có thể có mặt ở Trạm Truyền Thanh rồi!"

Lão chỉ cần tới Trạm Truyền Thanh đúng bữa mười lăm dể dò xét cho ra điều bí mật, ngoài ra chẳng cần chi hết. Diệu Pháp không hiểu ý định ấy, nên hỏi, "Đại sư có ý muốn biết nơi Trạm Truyền Thanh động tĩnh ra sao, thì đêm nay tới thẳng đó, chớ nán lại ở đây làm gì?"

Bách Duy nói, "Ở lại đây nghỉ ngơi thì trưa mai tới đó mới có sức để hoạt động. Huống chi ở đây đêm nay cũng có việc. Khuya tối sẽ bàn."

Đêm hôm ấy ở nơi điếm trọ, Bách Duy khêu đèn rất nhỏ, ra ngoài ngó coi thấy bốn bề lặng lẽ, bèn trở vào đóng kín các cửa lại đoạn sẽ nói với mọi người, "Chúng ta phải ăn vận theo lối các tay hào kiệt võ lâm thì mới lộn sòng vào Trạm Truyền Thanh được. Nhưng hiện giờ còn bao nhiêu tiền?"

Vừa nói vừa đưa mắt hỏi Diệu Không là người giữ tiền.

Diệu Không vừa cười vừa nhăn nhó, "Còn đủ mười lạng, chưa đủ để sắm đồ mặc cho một người thôi. Đừng nói là sắm sửa cho cả bốn người. Nếu không sắm đồ mặc thì số tiền còn đây, hoặc giả đủ ăn trong vài ba ngày."

Bách Duy nói, "Ta có cách! Ban chiều khi tới xóm này ta để ý tới một trang viện tường gạch, mái ngói, rõ ra vẻ nhà giàu có. Vậy thì còn lo gì..."

Diệu Pháp giật mình hỏi, "Ủa! Ý đại sư muốn rằng chúng ta biến thành anh chàng Thời Thiên trong Thuỷ Hử, hay là... bôi nhọ mặt đi, vào ăn cướp. Chúng tôi dù sao cũng là đệ tử Vũ Đương..."

Bách Duy cất giọng lạnh lùng, "Nếu sợ như vậy thì chúng ta cứ việc ăn vận thế này mà vào Trạm Truyền Thanh. Để cho bọn Nam Cung thế gia tóm cổ cả lũ, giết đi là hết sự nghiệp."

Thấy mọi người lắc đầu, thở dài, lão cười gằn nói tiếp, "Cổ nhân nói, muốn làm nên việc lớn thì chẳng quản các tai tiếng nhỏ. Câu nói thực chí lý. Vả do kinh nghiệm từ ngàn xưa, các đế vương, các danh tướng, thử hỏi trước khi thành sự nghiệp, mấy ai không từng là thằng ăn cắp, là trộm, giặc..."

Bị lão thuyết cho một hồi, chứng cớ xác thực có trong sử sách, Diệu Pháp cứng họng ra không nói được gì.

Một lúc sau, Diệu Không thở dài mà rằng, "Đại sư nói đúng..."

Bách Duy khoa tay, cắt ngang lời, "Huống chi bọn hương thân, phần nhiều là cường hào, là ác bá. Lấy của chúng thì có hại gì đến đạo đức..."

"Chát" một tiếng, chén ly nhảy lên. Diệu Vũ đột nhiên vỗ mạnh xuống bàn mà rằng, "Đúng rồi! Chúng ta lấy của bất nghĩa ấy làm cho cái công việc cứu vãn hội kiếp võ lâm này, chính là anh hùng thủ đoạn, hào kiệt sự nghiệp. Nếu hai sư huynh cứ do dự chẳng hoá ra bình sinh chỉ học cái bã giả của cổ nhân thôi ư?"

Thấy Diệu Pháp, Diệu Không đều hoà dịu mặt lại chớ không có vẻ gân guốc lên như trước nữa, Diệu Vũ lại tiếp luôn, "Hai sư huynh lặng yên như vậy, hẳn cũng đã thấy lời Đại sư bàn là phải. Vậy đêm nay nên thế nào? Xin Đại sư ra lệnh."

Bách Duy đưa mắt nhìn ba người rồi cất tiếng, "Vừa rồi bần tăng nhận xét địa thế và tình hình nơi trang viện. Tuy phía xa xung quanh bao bọc không kín đáo nhưng đại khái toà nhà chính quay mặt về phía nam, cổng lớn hướng về nam, hai bên đông và tây đều có cổng nhỏ. Thông thường thì từ hai cổng nhỏ nầy, một ngả thông với vườn hoa, một ngả thông xuống nhà bếp."

Diệu Pháp nói, "Đệ tử nhận ra rằng cánh cửa bên đông, nước sơn đen bóng, còn cánh cửa bên tây hơi có ám khói. Vậy chắc là cửa bên đông đi vào hoa viên, còn cửa kia là lối xuống bếp."

Bách Duy mỉm cười gật đầu, "Đạo huynh nhãn lực hơn người, và tinh tế hết sức. Chúng ta chia ra hai người lẻn vào trong, hai người gác ngoài tiếp ứng."

Diệu Vũ góp ý, "Chúng ta đứng gác ở ngoài cửa phía đông, nơi đây có nhiều cây, lại có giả sơn dễ ẩn hình."

"Sao bằng nấp ở gần nhà bếp, nơi chứa củi. Không nên vớ vẩn ở hoa viên, vì đó là nơi bọn người nhà, đầy tớ trai gái họ thường hay lén lút, vụng trộm." Ngừng một chút Bách Duy bỗng hỏi, "Nhưng còn... nơi phòng ngủ của trang chủ ở đâu, anh em có ai biết không? Nơi để tiền của, họ hay để ở bên chỗ nằm..."

Diệu Pháp nói, "Đệ tử biết sao được phòng ngủ của họ ở đâu?"

Bách Duy cười, nói, "Không khó gì. Bần tăng đã có vài chục năm kinh nghiệm về nghề cường đạo, nên có thể... Các vị cứ theo cách thế này mà làm..." Lão ghé vào tận tai mỗi người, lão thì thầm dặn dò.

Bốn người đi tới trang trại vào khoảng gần cuối canh hai. Trời tối như mực, có hai ba ngọn đèn gió le lói soi những bóng cây rậm rì. Hai người đi về phía đông, hai người đi về phía tây, loáng cái đã vượt cổng vào trong...

Nửa giờ sau bên trái nhà bếp đột nhiên bốc khói rồi lửa sáng rực. Tiếp theo là tiếng người kêu gọi nhau, "Cháy, cháy lớn!"

Trang trại náo động cả lên, kẻ chạy đi, người chạy tới, tán loạn kinh hoàng. Một người lớn tuổi, có vẻ là quản gia la to lên, "Các người mau tới cứu hoả! Ta đi kiếm viên ngoại!"

Nói rồi vội vã chạy về phía sau viện. Giữa lúc đó có hai cái bóng người nấp trên nóc nhà nhảy xuống, theo sau lão quản gia.

Ngay lúc đó, từ một gian nhà phía sau có người đẩy cửa thò đầu ra, cất tiếng hỏi, "Trương Nghi đó ư? Có việc gì thế?"

Quản gia Trương Nghi vừa la vừa run, "Cháy... Cháy to!"

Hai tiếng "cháy to" vừa thoát ra khỏi miệng quản gia thì từ trong khuôn cửa, một mụ đứng tuổi, béo lùn, tay ôm một đứa con nhỏ, đã chạy xộc ra ngoài, la thất thanh, "Cháy! Ối làng nước ơi, cháy. Mau cứu... cứu hỏa... cứu..."

Mụ la đến đứt cả hơi, người run lên cầm cập. Theo chân mụ là một người đàn ông bụng phệ miệng tuy nói cứng, "Việc gì phải kêu khóc! Bình tĩnh... bình tĩnh!"

Kỳ thực thì nước mắt lão đã chạy quanh và sợ run lên. Hai người dắt nhau theo quản gia chạy về phía nhà bếp!

Hai bóng người từ trong tối lập tức vọt ra nhào vô trong phòng. Trong phòng vang lên mấy tiếng ầm ầm như phá phách rồi có tiếng như lục soát tìm kiếm.

Phía ngoài mọi người đổ xô cả xuống bếp để cứu hoả. Một lát sau, hai bóng người từ trong phòng bước ra, trên lưng đều đeo một bọc lớn, khá nặng. Họ ngang nhiên vừa đi vừa nói chuyện.

Tiếng Diệu Không nói, "Kể ra chúng ta vơ vét... khá nhiều quá!"

Diệu Vũ cười nói, "Phì! Đại sư sẽ chê trách chúng ta là còn non tay cho mà coi! Nếu là đại sư thân hành vào đây thì phải biết!"

Diệu Không nói, "Nếu là Nhâm tướng công thì quyết không bao giờ có cái thủ đoạn "gà gáy, chó trộm" như thế này."

Diệu Vũ nói, "Đúng thế! Tướng công là bậc chính nhân quân tử mà! Có điều lạ rằng Bách Duy đại sư nếu quả là bậc cao tăng từ nhỏ đã vào chùa Thiếu Lâm tu hành thì sao lại có lối hành động với những kinh nghiệm trộm cướp tài tình như bữa nay! Nếu không phải chân tu đạo hạnh thì sao làm được đến chức Đường chủ La Hán Đường!"

Diệu Không chép miệng nói, "A! Nghĩ kỹ ra thì lạ thật! Phải chăng trước khi vào Thiếu Lâm, đại sư vốn là tay cường đạo?"

Diệu Vũ giơ tay che miệng, "Suỵt! Chớ có hỏi han hoặc nhắc đến việc ấy trước mặt đại sư. Nghe không? Giờ chúng ta thoát lên nóc nhà rồi ra phía trước!"

Hai người nhảy vọt lên nóc gian nhà chính, xuống sân phía trước, thoắt cái đã ra khỏi trang viện. Lập tức, một hiệu còi dài nổi lên, hai hiệu còi ngắn đáp lại. Bốn cái bóng người tìm đến với nhau, hợp thành một bọn kéo về nhà trọ.

Sáng hôm sau, bọn Bách Duy lên đường sớm đi về phía Trạm Truyền Thanh. Ra khỏi nhà trọ chừng hai mươi dặm, họ cho xe vào tuốt một khu rừng rậm, sửa soạn trang hoàng lại chiếc xe, trông cực kỳ hoa lệ. Bốn người thay đổi y phục, kẻ áo bào, người áo chẽn, toàn là gấm, vóc thượng hạng. Diệu Vũ đóng vai kẻ giong xe, nhưng cũng ăn vận bảnh bao, lót tay bằng một vuông lụa tía, cầm chiếc roi ngựa khoa tít lên, cho xe ra khỏi rừng theo đường lớn tấn phát như bay.

Chỉ một giờ sau đã thấp thoáng thấy bóng mấy gốc hoè nơi Trạm Truyền Thanh, lớn tới mấy người ôm, cao như cột cờ, cành lá xoè ra như chiếc tán vĩ đại.

Còn cách ngoài trăm trượng, Bách Duy sốt ruột, từ trong xe thò đầu ra ngó nhìn mấy gốc hoè, thở phào một cái như trút bớt gánh nặng trên vai đi. Đêm nay, ở dưới mấy gốc cây hoè kia, lão cần dò xét cho ra một sự kiện đại bí mật.

Lúc này còn là buổi sáng. Vậy mà trong Trạm Tuyền Thanh cũng đã ầm ĩ tiếng người. Trên con đường nhỏ lát bằng đá xanh hai bên la liệt các hàng quán bày các món ăn uống. Mỗi bàn ăn, mỗi gian quán đều có năm, ba người, hình dáng to lớn hung hãn, ăn uống chuyện trò. Họ không cần phải trả tiền ăn, vì họ đều là người của Nam Cung thế gia, được phái tới để đón tiếp bốn phương hào kiệt, mà các quán ăn đều do Nam Cung thế gia đài thọ.

Dưới gốc hoè, bốn năm mụ đàn bà áo xanh, tóc điểm hoa râm, ăn vận mộc mạc, nhưng mắt sáng như sao, vẫn có vẻ uy nghi tôn quý. Trước mặt họ là một chiếc bàn dài, bày bút, mực, giấy. Người ít tuổi nhất cầm bút thoăn thoắt viết, còn bốn mụ kia thì ngồi yên, không động cựa, cũng chẳng ngước mắt lên nhìn ngó chung quanh.

Còn cách hơn mười trượng tới dãy quán ăn, bọn Bách Duy đã đánh hơi thấy mùi rượu thịt. Nhận kỹ ra thì các gian quán tuy sơ sài, xong các món ăn đều tươm tất vào hạng trân hào mỹ vị cả. Từ trong cửa xe ngó ra, Bách Duy cau mày, nói, "Trạm Truyền thanh, ai ngờ lúc này lại giống như một đại tửu quán. Bực thật."

Sở dĩ lão bực mình vì nghĩ rằng dưới gốc hoè đấy, đêm nay có việc bí mật. Vậy mà Nam Cung thế gia lại bày quán rượu chè huyên náo ngay tại đây thì còn gì là bí mật nữa. Diệu Pháp không hiểu ý lão, bèn hỏi, "So sánh võ nghệ, kén rể, tất nhiên phải náo nhiệt. Nhưng không hiểu vì lẽ gì chúng ta cũng có thể tới chứng kiến được."

Diệu Không nói, "Nam Cung thế gia bày trò chiêu rể, chỉ có hại không có lợi. Huyên náo lắm càng may cho chúng ta, có gì mà Đại sư phải bực tức."

Không thể nói tâm sự thực ra được, Bách Duy cười gượng mà rằng, "Bần tăng quen sống yên tĩnh. Tới chỗ quá huyên náo thì cảm thấy khó chịu đó thôi. A, quên!"

Ngừng một giây, lão mỉm cười và tiếp, "Từ nay chúng ta phải gọi nhau bằng anh em. Quen miệng cứ tự xưng là bần tăng không được."

Xe đã từ từ chạy chậm lại. Bỗng có tiếng người to lớn, vận áo đen từ bên đường nhảy ra ngăn giữ lại. Diệu Vũ giả vờ nổi giận, giơ roi quát, "Buông ra! Định làm gì vậy?"

Một người đầu bịt khăn đen, có thêu chỉ vàng, trầm giọng nói, "Chúng tôi là môn hạ của Nam Cung thế gia. Nếu các vị là khách qua đường, thì xin đi vòng qua lối khác."

Mặt vác lên, có vẻ như đầy tớ nhà quan cậy thần cậy thế, Diệu Vũ nói, "Các chú không có mắt sao. Trông người với xe cộ thế này mà bảo là khách qua đường sao...?"

Đại hán kia quắc mắt lên, lớn tiếng, "Các bạn tới phó hội ư? Vậy càng phải xuống xe tại đây, đi bộ vào trong phủ chúng tôi ghi trên trước đã."

Anh em Diệu Vũ đều giật mình, nghĩ thầm, "Hú vía! Đúng như đại sư tiên liệu. Nơi đây kiểm soát kỹ thiệt."

Bụng nghĩ vậy, Diệu Vũ vờ hỏi, "Ghi tên ư? Ghi tên làm cái gì?"

Chợt có tiếng khẽ quát "Xa phu im đi!" Bách Duy ở trong xe nhảy ra, bộ dạng uy nghiêm rõ ra phết một tay giang hồ hào kiệt. Diệu Pháp, Diệu Không theo sau, tuy bề ngoài cố giữ bộ điệu, dáng vẻ là những tay tên tuổi trong làng võ, kỳ thực thì trong bụng lo nơm nớp chỉ lo bị lộ tẩy. Còn Diệu Vũ thì "dạ dạ" cúi đầu, làm bộ rụt rè, đứng né ra một bên.

Bách Duy tiến lên, ôm tay quyền vẻ mặt trang nghiêm, nở một nụ cười mà rằng, "Người giong xe của ta không hiểu quy cũ. Ông bạn xin bỏ qua cho."

Đại hán vội thi lễ, nói, "Trang chủ quá khách khí. Tôi đâu dám."

Thấy đại hán kêu Bách Duy là "Trang chủ", Diệu Vũ tức cười, xong lại nghĩ mà phục thầm, "Một thầy chùa mà đóng giống hệt vẻ một trang chủ. Khà! Khà!"

Nghĩ vậy, Diệu Vũ càng thêm ngờ vực về lai lịch của lão.

Chỉ thấy Bách Duy cười ha hả mà rằng, "Phải lắm! Được lắm! Chúng ta có thể tới kia ghi tên chăng?"

Đại hán nói, "Xin mời trang chủ! Đó là quy cũ của Thái Phu Nhân chúng tôi đặt ra, để phòng ngừa những kẻ lăng nhăng hỗn tạp vào. Tiểu nhân chỉ là vâng mệnh thi hành thôi."

Phía đằng kia, mụ đàn bà áo xanh vẫn như tuồng chẳng lưu ý đến mọi việc xảy ra. Kỳ thực thì mắt mụ như điện, khẽ chớp chớp là mọi sự tình đều lọt vào tầm mắt của mụ.

Chẳng đợi bọn Bách Duy tiến đến tận nơi, người đàn bà đứng tuổi từ nãy vẫn hý hoáy viết, vội đặt bút đứng dậy cười mà rằng, "Các vị từ xa tới. Mà luật lệ ở đây làm phiền các vị. Tiện thiếp không được an tâm. Xong việc, chủ nhân tôi sẽ xin tạ lỗi."

Thấy người đàn bà nầy bất quá chỉ là hạng vú em, hoặc quản gia thôi, vậy mà nói năng đường hoàng. Ngay đến hạng chủ nhân các nhà khác, ăn nói cũng lịch sử đến thế thôi. Diệu Vũ có ý phục thầm Nam Cung thế gia là có khuôn phép.

Bách Duy ôm tay quyền nói mấy lời khiêm tốn. Các mụ áo xanh khác nhìn lão, mỉm cười. Mụ lớn tuổi nhất nói, "Các vị đều là những bậc có danh vọng lớn trên giang hồ. Tiện thiếp trộm phép xin các vị cho biết đại danh để lưu vào sổ vàng danh dự."

Bách Duy mỉm cười thi lễ, "Tại hạ tên Phùng Duy. Còn đây là Phùng Pháp, Phùng Không đều là cháu tại hạ. Bất quá chúng tôi chỉ là hạng vô danh trên làng võ lâm. Các đại nương quá khen ngợi."

Mụ đàn bà ngồi bên gật đầu, mở lẹ một cuốn sổ dày ra, nhìn vào mà rằng, "Phùng lão anh hùng! Từ trước chưa dự hàng lục lâm."

Ngưng một giây, thấy Phùng Duy "dạ" một tiếng, mụ nói tiếp, "Phùng lão anh hùng từ trước chưa làm nghề bảo tiêu, cũng không hề mở trường thâu đồ đệ."

Bách Duy nói, "Dạ... dạ... Nhà không giàu có nhưng nhờ trời con cháu được no ấm, nên chưa hề làm nghề minh phiêu hay ám phiêu. Nhất là võ nghệ chỉ biết có vài ba miếng nên càng không dám nhận thu đồ đệ."

Mụ kia lại hỏi, "Phùng lão đại hiệp! Phải chăng ngươi từ Lương Châu tới?"

Bách Duy chắp tay nói, "Chúng tôi không phải người Lương Châu! Và cũng không hề tới vùng đó bao giờ."

Mụ gấp cuốn sổ lại, ngẩng đầu nhìn Bách Duy rồi nói, "Phùng lão anh hùng không phải là hào kiệt trong hàng Hắc đạo, cũng không ở trong hàng Bạch đạo. Và cũng không có họ hàng thân thích trong hàng Phùng Khang thế gia, lại chưa từng có hành động gì tai tiếng..."

"Dạ! Tại hạ chỉ là hạng vô danh trong làng võ."

Mụ đàn bà nhiều tuổi nhất hỏi, "Ngô Tứ Nương ạ! Phùng lão anh hùng với khí phái võ công như kia mà lại không có tên tuổi trên giang hồ sao? Ngô Tứ Nương à! Đó là một sự lạ."

Chợt thấy Ngô Tứ Nương nở một nụ cười, thong dong nói, "Lâu lắm không gặp mặt. Ba vị có lẽ quên không nhận ra tiện thiếp rồi."

Bách Duy giật mình, hỏi, "A! Té ra Đại nương nhận biết tại hạ. Xin tha lỗi. Chẳng hay đã hân hạnh được gặp Đại nương tại đâu...?"

Ngô Tứ Nương cười khanh khách mà rằng, "Đạo trưởng là bậc quý nhân, lắm việc nên hay quên. Năm xưa, trên Võ Đương Sơn, tiện thiếp từng được gặp vài lần. Nay cho dù đạo trưởng ăn vận theo tục gia, cũng vẫn nhận ra được."

Thấy mụ gọi Bách Duy là đạo trưởng, Diệu Pháp và Diệu Không đều kinh ngạc, phục mụ là nhãn lực hơn người. Sau thấy mụ nói rằng đã gặp ở Võ Đương, hai người mới được yên lòng vì Bách Duy không phải là đệ tử Võ Đương. Nhưng tại sao mụ cũng nhận ra Bách Duy là kẻ tu hành cải trang.

Bách Duy cười, chắp tay nói, "Đại nương nhớ lâu... thật. Nhưng còn sư cô, chẳng rõ hoàn tục từ hồi nào. Thực là đáng mừng."

Ngô Tứ Nương ngạc nhiên một chút, cười và hỏi, "Đạo trưởng nói vậy, có lẽ nghĩ rằng tiện thiếp từng làm..."

Bách Duy nói luôn, "Từng làm ni cô! Nếu tại hạ từng làm Đạo sĩ thì Đại nương phải là ni cô."

Hai người cười ầm lên. Chỉ khổ cho Diệu Pháp, Diệu Không đều ngẩn ra vì không hiểu đó là sự thực, hoặc đó là sự ăn miếng trả miếng, bịa chuyện nói nhau chơi.

Ngô Tứ Nương phì cười mà rằng, "Nói thực ra, hoặc giả tiện thiếp có nhận lầm chăng? Nhưng cứ khi phải như Phùng lão anh hùng mà nói rằng chẳng hề có hoạt động, lưu dấu vết gì trên giang hồ, thực khó tin được."

Bách Duy nói, "Chẳng giấu gì đại nương, tại hạ vốn là dân đi hái Nhân sâm trên núi Trường Bạch, quanh năm sống chung với rắn độc, thú dữ, cho nên cũng phải có đôi ngón võ nghệ phòng thân. Duy chỉ có hai đứa cháu đây..." giơ tay giới thiệu Diệu Pháp, Diệu Không, "... chưa từng có hoạt động giang hồ. Chuyến này nếu không nhân cơ hội ngàn năm có một tại quý phủ, thì chúng tôi cũng không tới đây làm gì."

Nguyên bọn kiếm Nhân sâm trên núi Trường Bạch, trong bọn mười người thì có chín người là tay võ nghệ cao cường. Nhân Sâm lại là của quý, bán được nhiều tiền, cho nên họ đều là tay giàu có. Bọn Bách Duy đều ăn vận hoa lệ, xe cộ sang trọng như vậy, mà nhận là dân kiếm Nhân Sâm ở Trường Bạch thì không còn ai ngờ vực gì nữa.

Ngô Tứ Nương liếc mắt một cái, gật đầu, "Có thế chứ! Nhưng... nếu bảo rằng chưa từng hành tẩu giang hồ vậy sao..."

Mụ vừa cười vừa chỉ vào cánh tay cụt của Bách Duy, "Sao lại có thương tích như kia..."

Bách Duy thở dài, đỏ mặt nói, "Ấy... chính vì tranh cướp nhau một củ lão Nhân Sâm mà đến thế. Tại hạ tuy chiếm được củ Nhân Sâm quý giá vô ngần nhưng ác hại bị cụt một bên tay."

Mụ đàn bà hình dung gầy gò, ngồi bên Tứ Nương, mặt mày nhăn nhó, bỗng đằng hắng lên một tiếng rồi hỏi, "Các vị quanh năm ở Trường Bạch Sơn không đi đến đâu? Tại sao lại biết Nam Cung thế gia có mở hội?"

"Hái sâm thì ở trong núi... Nhưng chẳng lẽ hái để mà ăn. Tất nhiên là phải đi tìm người, trao cho họ đem bán ở các thị trấn lớn. Nhưng đặc biệt lần này, tại hạ xuống núi, đi xa vì hai lẽ. Một là tìm kiếm kẻ đã hạ thủ chặt cánh tay nầy của tại hạ. Hai là củ "Nhân Sâm ngàn năm" quý giá vô cùng không thể trao cho lái buôn được, tất phải đích thân đi bán. Nhân chuyến đi xa, mà được tin nơi đây có mở hội. Ngoài ra cũng vì tại hạ ở núi lâu năm, cảm thấy cô lậu, nhân dịp đem hai đứa cháu đi theo cho nó có dịp biết nơi thành thị.

Bách Duy chống chế, che đậy rất khéo. Diệu Pháp, Diệu Không, tuy ăn vận hoa lệ, nhưng vẫn có vẻ rụt rè, ngờ nghệch. Bộ dạng rõ ra kẻ chưa từng ra khỏi núi, chưa giao thiệp giang hồ bao giờ. Thành thử mấy mụ áo xanh kia đã có ý tin lời Bách Duy nói là thật."

Thấy họ có vẻ tin rồi, Bách Duy bèn nói tiếp, "Phàm việc gì, đều có nhân nguyên cả. Lần này cho các cháu đi theo, ý muốn kiếm cho mỗi đứa một con vợ. May thay được tin Nam Cung thế gia mở hội chiêu thân kén rể, cho nên chẳng quản xa xôi, ngàn dặm tìm đến đây..."

Mụ già tới đây mới nở một nụ cười, xin lỗi, "Chúng tôi tra hỏi kỹ lưỡng quá. Xin quý vị miễn trách cứ."

Thấy Bách Duy nói, "Không dám," mụ giơ tay vẫy một cái gọi người nhà, "Bay đâu! Bưng rượu tới."

Lập tức bốn đại hán áo đen khệ nệ khiêng một thôi la liệt các món ăn lại. Ngô Tứ Nương thân rót rượu mời.

Bách Duy tuy có tu hành vài chục năm, nhưng gần đây đã có vài lần phá giới, uống rượu ăn mặn rồi thì không nói làm gì. Chỉ khổ cho Diệu Pháp, Diệu Không, ăn chay từ nhỏ, nay trước một thồi rượu thịt đưa hơi lên nồng nàn, cơ hồ muốn phát lợm nôn được. Thành thử cứ lúng túng e sợ. Ngô Tứ Nương lại khéo mời, "Nghe nói đàn ông ở Bạch Trường Sơn đều là tay tinh tráng, tửu lượng kinh nhân. Nay các vị không uống rượu. A! Phải rồi... có lẽ các vị quen dùng thứ rượu ngâm Nhân Sâm kia. Ở đây, tuy không sẵn Nhân Sâm, nhưng... rượu này đều là thứ kén tận Thiệu Hưng để dành từ lâu năm rồi."

Sợ mình bị lộ tẩy là nhà chùa chính cống, mọi người đều phải làm ra bộ thành thạo, nâng ly lên mời, ngửa cổ nhắm mắt uống ực xuống. Kỳ thực thì cả ba cũng cảm thấy rượu qua họng như đốt cháy ruột gan lên được. Trong khi Ngô Tứ Nương thì cứ luôn tay rót mời rượu và còn ỡm ờ nói rằng, "Các vị trừ phi là nhà chùa chính tông thì mới cữ rượu... ha ha... Ngay trong các môn phái, ngoại trừ Thiếu Lâm với Võ Đương ra, chưa từng nghe nói có môn phái nào lại cấm đệ tử uống rượu."

Câu nói tuy là bỡn cợt mà bên trong như có ý bảo cho ba người biết rằng nếu các người không biết uống rượu thì chín phần mười các người là đệ tử Thiếu Lâm hoặc Võ Đương rồi.

Bách Duy vội chống chế, "Hà hà...! Tiên tổ chúng tôi từng có biên vào gia phả, nghiêm cấm con cháu không được uống rượu nếu chưa có vợ. Không hiểu tại sao lai nghiêm cấm như vậy... Hà hà!"

Vừa nói vừa quay lại nhìn Diệu Pháp, Diệu Không rồi tiếp, "Nhưng bữa nay vì do việc hôn nhân, thì cũng nên phá lệ, uống chơi vài chén. Chứ có quá câu chấp vào gia pháp, nếu muốn thành công... sau nầy trong họ nếu có ai trách, thì ta xin nhận... hết lỗi."

Nghe nói rằng "Nếu muốn thành công thì chớ quá câu chấp..." Diệu Không hiểu ý, vội cười mà rằng, "Tiểu điệt... xin tuân lệnh."

Vừa nói vừa ngửa cổ nốc thẳng một hơi. Ngô Tứ Nương gật đầu mỉm cười nhìn Diệu Pháp, "Vị tiểu anh hùng kia đã uống rồi. Còn vị này... đợi gì không uống."

Vừa nói vừa cầm ly rượu đầy đặt vào tay Diệu Pháp.

Diệu Pháp nghiến răng khó chịu, nhưng vẻ mặt vẫn phải giữ ôn hoà, đón lấy ly rượu. Tay hắn run lên lật bật, lúc đó tưởng chừng ly rượu nặng đến ngàn cân, hoặc trong rượu chỉ là thuốc độc. Tay run lập lập, vừa đặt lên môi thì "phì' một cái, hắn bị sặc, ly rượu thoát khỏi tay, "choang" một tiếng rớt xuống đất, vỡ vụn ra.

Bách Duy, Diệu Không giật nẩy mình, Diệu Pháp tái xanh mặt đi. Ngô Tứ Nương biến sắc, cười nhạt mà rằng, "Thế là nghĩa lý gì? Tiểu anh hùng chẳng những coi thường chúng tôi, và cũng coi Nam Cung thế gia chẳng vào đâu cả."

Bốn tên đại hán áo đen, nổi giận, tay quyền nắm chặt nghiến răng trợn mặt, như bộ định nhào tới hành hung.

Diệu Pháp vừa thẹn vừa hãi, se sẽ ấp úng, "Tại hạ chẳng phải là cố ý!"

Ngô Tứ Nương cay cú gằn giọng, "Hừm! Không cố ý! Kỳ thực là..."

Mụ đàn bà nhiều tuổi nhất, nét mặt cau có, cất giọng mỉa mai, "Không cố ý! Phải rồi! Kỳ thực là có nhiều kẻ từ nhỏ đi tu, quen ăn chay. Ngửi thấy đồ sào nấu rượu thịt là buồn nôn..."

Bách Duy cười hềnh hệch, hỏi, "Đại nương nói cho vui! Ai là kẻ đi tu chứ?"

Mụ trả lời gọn lỏn như đập vào mặt Bách Duy, "Ngươi!"

Tiếng "ngươi" vừa thoát ra khỏi môi mụ nọ, thì một chuỗi cười ròn rã nổi lên từ phía sau gốc hoè. Bốn đại hán ăn vận đồ gấm thêu, theo với tiếng cười, chạy lại, cúi mình thi lễ mà rằng, "Phùng đại hiệp. Lâu lắm chưa có dịp thăm sức mạnh của đại thúc."

Bách Duy cười gượng, ậm à thi lễ. Kỳ thực lão chưa nhận ra bốn đại hạn này là ai. Chưa kịp hỏi han, thì bốn đại hán đã quay cả lại hướng vào Diệu Pháp. Người lông mày rậm, mắt tròn xoe, râu ria xồm xoàm giơ tay vỗ vai Diệu Pháp cười vang mà rằng, "Từ độ chia tay ở Trường Bạch Sơn, thấm thoát nửa năm rồi. Không ngờ lại gặp nhau ở đây..."

Thấy bọn Bách Duy ngạc nhiên, đờ mặt ra nhìn, họ vội nháy mắt ra hiệu ngầm và không rõ vô tình hay hữu ý, họ đứng chắn ngang, hình như để che khuất mắt mấy mụ đàn bà kia khỏi ngó thấy bộ mặt ngạc nhiên của bọn Bách Duy,

Đại hán râu xồm ngoảnh lại nhìn mụ áo xanh, rồi cười mà rằng, "Phùng lão đệ của ta đây, vốn tính sợ rượu. Năm xưa, tại Trường Bạch Sơn bị người ta ép rượu, đến nỗi xảy ra biết bao chuyện rắc rối, tức cười... Không ngờ... ngoài ngàn dặm xa xôi, bữa nay tới đây cũng nhân câu chuyện uống rượu mà sinh chuyện..."

Một đại hán khác cất tiếng oang oang lên nói, "Ấy chính vì không uống rượu mà có người đã gán cái tên đẹp đẽ là "Dê rừng già" Hà... hà hà! Vì duy chỉ có "dê rừng" mới không biết uống rượu mà thôi..."

Mọi người cười ầm cả lên. Bọn Bách Duy cũng ôm bụng cười. Diệu Pháp trong lòng nghi hoặc, ngẩn mặt ra nghĩ thầm, "Họ giở trò gì? Họ nhận lầm chăng? Họ có ý che đậy cho bọn mình chăng? Nhưng mình có quen họ bao giờ."

Bách Duy thì phá lên cười và nháy mắt ra hiệu Diệu Không. Hiểu ý Diệu Không cũng lăn ra cười.

Mấy mụ đàn bà khẽ đưa mắt cho nhau, vẻ mặt trở nên hoà hoãn, vui vẻ ngay. Ngô Tứ Nương cười nói, "Té ra "Tứ hổ" ở Trường Bạch có quen biết với ba vị đây?"

Đại hán râu xồm hếch lông mày, so vai lên, nói, "Chẳng những quen biết mà còn thân nhau như anh em ruột."

Một đại hán nói, "Phùng gia hái sâm ở Trường Bạch Sơn vài chục năm nay. Ai mà chẳng được uống rượu sâm, với món lạp xường trứ danh của họ Phùng."

Một đại hán, mặt rỗ như tổ ong bầu, lại thêm mấy vết sẹo ở trán, nói góp, "Họ Phùng chẳng những là bạn thân mà còn là ân nhân của ta."

Chỉ tay vào vết sẹo ở trán, "Vết sẹo này nhớ mãi. Nếu không được họ Phùng kịp thời cứu cho... thì ôi thôi, hết sống..."

Bọn Tứ Hổ ở Trường Bạch Sơn đã chứng thực sự việc ra như vậy thì mấy mụ đàn bà áo xanh kia còn gì mà chẳng tin là thật.

Đại hán mặt đầy sẹo còn nói thêm, "Ở vùng Giang Nam, hoặc giả năm chữ "Họ Phùng Trường Bạch Sơn" không có tiếng tăm gì, nhưng ở khoảng Bạch Sơn và Hắc Thuỷ thì năm chữ ấy ai mà không biết."

Đại hán râu xồm tiếp thêm, "Phùng lão đệ cùng các cháu mà sợ rượu như thế, nếu không phải là chỗ bạn bè, thì người lạ có lẽ tưởng lầm các người là hoà thượng hoặc đạo sĩ mất."

Ngô Tứ Nương cười, nói, "Chúng tôi cũng ngờ như thế. Trong việc kén rể, không thể kén hoà thượng hoặc đạo sĩ được. Cho nên..."

"Toạ Sơn Hổ' Ngô Đức cười hềnh hệch, nói, "Vô luận là ai, chúng tôi đều có thể giao du bảo lãnh. Duy chỉ có bọn hoà thượng và đạo sĩ là thì chịu thôi."

Ngô Tứ Nương cười khanh khách nói, "Chỉ sợ chính các nhà tu hành, họ cũng chẳng muốn ngao du với các người..."

Bỗng có tiếng ồn ảo huyên náo từ phía đường lớn đưa tới. Mọi người ngó ra, thấy hơn mười nhà sư khoác áo cà sa màu vàng, nước da vàng ệch đương đứng xếp hàng ở nơi đầu đường. Bảy tám đại hán áo đen chặn giữ họ lại vì họ định xông vào nơi nhà Trạm Truyền Thanh.

Hai bên lời qua tiếng lại, tình hình gay go, cơ hồ sắp giở võ lực. Các tay võ lâm hào sĩ, nhiều người đã ném đũa chạy xô cả lại. Toạ Sơn Hổ cười toáng lên, nói, "Lý thú... Lý thú thực. Vừa nói đến hoà thượng thì có hoà thượng tới ngay..."

Đại hán mặt rỗ nói, "Coi bọn họ có vẻ là cũng Lạt Ma trong phái Hoàng gia Tây Tạng. Nhưng họ tới đây làm gì? Phá giới, lấy vợ chăng? Hà... hà..."

Một vị Lạt Ma áo vàng, cất giọng trọ trẹ, lớn tiếng nói, "Bọn tôi từ phía tây tới. Dù là Hoàng Cung, Đại nội cũng từng đi qua. Trạm Truyền Thanh là thế nào mà ngăn cấm chúng tôi qua lại?"

Nghe giọng lưỡi ấy, rõ ràng họ là những tay từng lăn lộn giang hồ, duy có âm điệu trọ trẹ là chưa biến đổi được hẳn.

Ngô Tứ Nương hơi cau lông mày, nói, "Bọn người nhà chúng tôi cơ hồ không đối phó nổi với lũ Đại Lạt Ma."

Quay lại nói với bọn Bách Duy, "Xin lỗi các vị. Vừa rồi làm phiền chư vị. Lúc này lại có chút việc phải dàn xếp. Vậy yêu cầu Tứ Hổ Trường Bạch đây thay chúng tôi tiếp đãi chư vị."

Toạ Sơn Hổ Ngô Đức cười vang lên nói, "Xin vâng! Việc tiếp đãi ba vị đây có anh em chúng tôi, còn các đại nương mau lo dàn xếp... Chậm trễ thì họ làm thành lớn chuyện mất."

Mụ đàn bà lớn tuổi nhất sẽ khom mình thi lễ nói rằng, "Vậy chị em tôi xin lỗi."

Dứt lời, mấy mụ áo xanh vội vã quay đi về phia đầu đường.

Bọn Bách Duy thở phào một cái như trút được gánh nặng, và chẳng ai bảo ai, cùng trố mắt ra nhìn bọn Toạ Sơn Hổ, như muốn hỏi, "Bốn vị là ai? Phải chăng biết rõ lai lịch bọn tôi mà có thể che chở cho khỏi bị lộ tẩy? Ai đã uỷ thác các vị giúp đỡ bọn tôi như vậy?"

Bách Duy chưa kịp nói ra thì Toạ Sơn Hổ đã cười và hỏi, "Bốn vị có lẽ định ở lại ở lỳ lại đây để còn xem các trò náo nhiệt sao?"

Bách Duy cười gượng, nói, "Mình vừa thoát khỏi một trận náo nhiệt tơi bời, còn bụng dạ nào mà coi thiên hạ náo nhiệt nữa."

Ngô Đức đưa tay vuốt râu cười ầm lên mà rằng, "Phải rồi! Vậy thế lúc này chưa chuồn đi, còn đợi gì?"

Bách Duy hỏi, "Chạy đi đâu?"

Ngô Đức nói, "Bọn ta đi trước dẫn lối. Nhớ đi theo sát. Chớ lạc nhau!"

Bách Duy chớp chớp mắt, nói, "Phải đó. Từ lúc này, chúng tôi chỉ biết theo bốn vị chỉ dẫn."

Câu nói của Bách Duy hàm hồ có nhiều ý nghĩa. Lão cất tiếng gọi Diệu Vũ mau tiến lại nhập bọn.

Đại hán mặt rỗ quay lại cười nói, "Chúng ta là đồng bọn mà. Các vị chỉ biết rằng tụi tôi dẫn lối, có biết đâu rằng, phía trước lại có người dẫn lối cho tụi tôi."

Bách Duy hơi động lòng chột dạ, nghĩ thầm, "Là đồng bọn...? Phía trước lại còn có người dẫn lối...? Ý phải chăng bốn người này trước kia đều là người của Nhâm Vô Tâm? Họ biết rõ lai lịch của mình nên mới giải thoát mình qua khỏi cơn khốn quẫn, bí tắt, cơ hồ sắp lộ tẩy...?"

Lúc đó bốn bề, tiếng người ồn ào, cãi cọ. Bách Duy tuy ngờ vực muốn hỏi cho rõ hơn cũng không kịp. Nhờ bọn Ngô Đức bốn người đương tiến dẫn lối nên không bị ai ngăn trở gì hết.

Hai bên đường, nhà nào nhà nấy trương đèn kết hoa. Bên thềm mỗi nhà đều có một đại hán áo đen đứng như phỗng. Tiếng gọi là để đón khách khứa, kỳ thực là đứng đó để giám sát mọi người. Lạ một điều là dân lương thiện nơi đây đều kéo nhau đi đâu hết, và trong nhà không có bóng một người đàn bà con gái nào.

Khách khứa qua lại hình như giữ ý. Thường chỉ đưa mắt mỉm cười chào nhau. Cũng có nhiều kẻ gặp nhau, bộ mặt gườm gườm khó chịu, hình như kẻ thù với nhau vậy.

Trong số đông, có lẽ chỉ riêng bọn Diệu Vũ là tới đây với mục đích riêng, vì không cốt ý đua tài để được trúng tuyển làm chú rể.

Thấy bộ dạng hăm hở ghen tị nhau của mọi người, Diệu Vũ không khỏi tức cười, nghĩ thầm, "Nam Cung thế gia đem mỹ nhân ra làm mồi nhử, không hiểu trông thấy quang cảnh như vậy thì trong lòng họ nghĩ gì?"

Trong khi đó thì Toạ Sơn Hổ đi trước dẫn đường, sau ba lần quanh co chuyển chiết thì tiến thẳng vào một gian nhà chứa toàn gà, vịt. Khắp nơi, gian trên nhà dưới đều là lồng lớn bu nhỏ chồng chất lên nhau, chỉ để chừa ra một lối đi nhỏ. Tiếng gà "quác quác" tiếng vịt "cạc cạc", lại khổ một nỗi là mùi hôi xông lên cơ hồ ngạt thở.

Bách Duy cau mày, hỏi, "Bốn vị huynh đài ở nơi đây ư?"

Ngô Đức vừa đi vừa nói, "Vâng! Chúng tôi ở một vài gian nhỏ tại phía sau. Vì nơi Trạm Truyền Thanh chỉ có hai khách sạn nhỏ đã bị Nam Cung thế gia trưng dụng để tiếp đón hào kiệt bốn phương rồi."

Bách Duy nhăn nhó kêu, "Kể cũng lạ! Tại sao bốn vị lại chọn nơi đây để ở?"

Ngô Đức mỉm cười, nói, "Nơi đây chật hẹp, bẩn thỉu chứ gì? Chính vì thế mà chúng tôi đã chọn nơi đây! Chẳng nói thì các vị cũng hiểu tại sao?"

Bách Duy "à" lên một tiếng, trong bụng nghĩ thầm, "Chắc bọn này tới đây để mưu đồ việc gì. Họ ở chỗ bẩn thỉu như đây, để che mắt thiên hạ, ít ai để ý tới. Vừa rồi, sở dĩ họ giúp mình thoát cuộc tra hỏi quẫn bách là vì họ nhận lầm mình là người phe cánh với họ. Đã vậy, ta cứ hàm hồ theo họ, nhân dịp dò xét xem họ định làm gì...?"

Nghĩ tới đây, chợt ngẩng lên nhìn thấy nét mặt Ngô Đức đẩy vẻ ngờ vực, gờm gờm. Bách Duy vội nói, "Chúng ta cũng nên cẩn thận. Chớ nói năng gì ở đây."

Sắc mặt Ngô Đức lại hoà hoãn, cười mà nói, "Phải lắm! Có chuyên gì, vào hẳn bên trong kia sẽ nói..."

Tám người len lỏi qua hết mấy gian đầy những lồng gà vịt rồi, quả nhiên phía sau là một cái sân nhỏ ẩm thấp. Có lẽ đây là nơi để thả gà vịt. Kế đó là vài gian nhà ngói, cũng cửa đỏ, ngói xanh, coi ra có vẻ sạch sẽ ngăn nắp.

Bọn Ngô Đức đợi mọi người vào hết rồi, liền đóng cửa cài hai lần then, cả cửa sổ phía sau cũng cài chốt cẩn thận.

Thở phào một cái như trút hết nỗi lo ngại, Ngô Đức nói, "Bây giờ muốn bàn chuyên thì bàn, khỏi sợ ai dòm nom."

Nói rồi cả bốn đại hán đều đổ dồn mắt lại nhìn bọn Bách Duy. Chẳng biết vô tình hay hữu ý, bốn người đứng trấn giữ cả lối ra, vào.

Bách Duy biết rằng lúc này lỡ miệng nói ra nửa lời khiến họ ngờ vực thì nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng chẳng lẽ câm miệng không nói sao? Nghĩ vậy, lão mỉm cười, bắt đầu bằng một câu xã giao, vô quan hệ, "Bọn tại hạ may mắn được bốn vị giải thoát khỏi cuộc chất vấn cơ hồ lộ... Tại hạ lấy làm..."

Ngô Đức nói chặn đi ngay, "Xin huynh đài khỏi nhắc đến việc đó nữa. Chúng ta đã là đồng đạo thì..."

Bách Duy đỏ mặt, cười và nói, "Dám hỏi cao tính đại danh của bốn vị, để tiện việc..."

Cả bốn đại hán đột nhiên biến sắc mặt. Đại hán mặt rỗ mắt quắc lên, bộ dạng hung hãn, quát lớn rằng, "A! Té ra, luôn cả bọn ta là ai mà các vị cũng không biết sao?"

Ngươi có sẹo đầy mặt càng hung hăng thét to, "Thế có nghĩa là các bạn chẳng phải là bọn đã ước hẹn bọn ta tới đây."

Bốn đại hán cùng bước lên một bước, lăm con mắt gờm ghè, tám nắm tay cùng nắm chặt, sẵn sàng chơi nhau những đòn chí tử.

Bách Duy dù trấn tĩnh cũng không khỏi lúng túng. Chỉ một lời nói, một cử chỉ hớ hênh là sinh ra hậu quả chẳng lành. Giữa lúc đó Diệu Vũ từ phía sau đột nhiên tiến lên, cất giọng lạnh lùng, hỏi, "Bọn ta cùng các bạn có hẹn nhau tụ họp ở đây hay không? Lẽ nào các bạn lại không biết?"

Thấy bọn kia đưa mắt cho nhau có vẻ như thừa nhận rằng chính họ cũng chẳng hay biết gì cả, Diệu Vũ càng được thể hăng lên, quát to rằng, "Các bạn đã chẳng nhận ra bọn ta, thì bọn ta cũng chẳng nhận ra các bạn. Các bạn đã không tin ở bọn ta thì sao ta có thể tin ở các bạn!"

Bốn người kia đâm ra ngơ ngác, lúng túng. Ngô Đức dịu giọng nói, "Nhưng! Nhưng anh em ta từng ra tay giúp... các bạn."

Diệu Vũ cười, nói tiếp, "Không nhắc tới việc đó còn được. Hà hà... Nhắc tới chuyện đó khiến ta sinh ra ngờ vực...!"

Ngô Đức gắt giọng nói, "Kỳ thực! Thế là thế nào? Chúng ta cứu các bạn khỏi cuộc chất vấn quẫn bách vừa rồi... Sao... sao?"

Diệu Vũ so vai, ung dung nói, "Các bạn đã không nhận ta bọn ta, đã không biết rằng bọn ta có phải là người ước hẹn với các bạn chăng, vậy mà dám ra mặt giúp, che đậy cho bọn ta. Tại sao lại có hành động ấy? Bọn ta buộc lòng phải nghi ngờ là các bạn đã cố ý sắp đặt, bày trò ra thế? Các bạn không giải thích rõ điều ấy ra thì không đời nào bọn ta lại thổ lộ gốc tích, hành tung ra cho các bạn rõ."

Đương ở cái thế bị hỏi vặn cơ hồ lộ tẩy, chỉ ra một cái câu lý sự cứng, Diệu Vũ đã xoay trái hẳn cục diện lại, thành cái thế "phản khách vi chủ" buộc bọn kia phải trả lời minh đã.

Bách Duy phải phục thầm và kính sợ tài biện bác ấy của Diệu Vũ.

Bốn anh em Ngô Đức bị hỏi ngây cả mặt ra. Họ châu đầu lại với nhau, thì thầm bàn bạc, Diệu Vũ quắc mắt lên thúc, "Ủa! Các bạn không giải thích ra được ư? Chớ trách tại hạ phải vô lễ. Giải thích mau..."

Ngô Đức quýnh lên, vội quay lại, nói, "Đó là... là một bậc dị nhân tiền bối trong hàng võ lâm đã sai bọn ta tới đây, và có dặn rằng cứ việc tới đây, tự nhiên sẽ... sẽ có một số tăng lữ bắt liên lạc."

Bách Duy nghĩ thầm rằng bọn bốn người này chẳng qua là đồ lỗ mãng chưa lịch duyệt đời, chưa chi đã phụt hết cả ra... Nghĩ vậy bèn mạnh dạn, hỏi gấp, "Yêu cầu nói rõ hẳn ra. Chớ nói giọng hàm hồ."

Ngô Đức vội giải thích, "Vì rằng vị lão tiền bối ấy hành tung bí mật như ma, tính tình lại cổ quái, chỉ dặn bọn tôi vắn tắt vài lời liền đi thẳng. Bọn tôi không dám hỏi thêm gì cả."

Ngừng một giây, lại nói tiếp, "Ngay như kế hoạch lần này, bọn tôi cũng chỉ biết vâng lệnh tới đây. Đến như các tăng lữ được lệnh tới đây thì tình hình họ thế nào, chúng tôi cũng chẳng rõ."

Nghe nói tới đây, Bách Duy chợt nhớ tới một lão dị nhân, nghĩ thầm rằng, "Phải chăng ông già cụt một tay và cụt một chân ấy đã ra lệnh cho anh em họ Ngô tới đây."

Diệu Vũ lại hỏi, "Vị lão tiền bối ra lệnh cho các bạn liên lạc cùng các tăng lữ, tất nhiên là có cho biết cả ám ngữ dùng làm hiệu riêng với nhau chứ. Các bạn đọc ám ngữ lên."

Câu hỏi ấy, chính là Ngô Đức lăm le định hỏi bọn Bách Duy, không ngờ lại bị Diệu Vũ lẹ miệng hỏi trước. Ngô Đức giật mình, lẩm nhẩm nói, "Có! Có ám ngữ! Nhưng..."

Người mặt rỗ từ nãy vẫn lặng thinh, bỗng lớn tiếng mà rằng, "Hoả Tiễn Truyền Thanh đó là ám ngữ liên lạc của bọn ta."

Diệu Vũ lẹ mắt liếc nhìn bốn đại hán một cái. Nhận ra nét mặt Ngô Đức thoạt tiên có vẻ hơi giật mình, nhưng liền đó lại hơi nhếch mép mỉm cười.

Biết là họ cố ý nói sai đi, Diệu Vũ cười nhạt, nói, "Nếu quả thực các bạn nhớ dùng bốn tiếng như thế, thì chớ trách bọn ta phải... ra tay...!"

Vừa nói vừa đưa mắt cho Bách Duy. Cả hai cùng nắm tay quyền tiến lên một bước. Ngô Đức cuống lên vội phân trần, "Chớ...! Chớ nóng nẩy! Bốn tiếng ấy chính là... là "Truyền Thanh Hoả Tiễn". Người anh em tôi cố ý nói đảo lộn thứ tự thành "Hoả Tiễn Truyền Thanh" là để thử xem các bạn có biết chăng...?"

Diệu Vũ dịu nét mặt lại, nói, "Có thế chứ!"

Diệu Vũ chợt cau mày lại hỏi, "Nhưng còn... việc này nữa cần giải thích rõ. Các bạn không quen biết bọn ta, tại sao vừa rồi lại ra mặt giải nguy cho ta. Bên trong có ẩn ý gì?"

Đại hán mặt rỗ, đằng hắng rồi nói, "Đó là do ý tôi. Bọn tôi tới đây đã hai ngày rồi mà chẳng gặp ai là tăng lữ cả. Chúng tôi sốt ruột. Nhị kha tôi bàn rằng, nếu có tăng lữ tới đây, thì hẳn là họ hoá trang đi, chớ đời nào lại để lộ tung tích. Chúng tôi bèn chia nhau đi dò xét. Quả nhiên tới bữa nay nhận ra bốn vị là tăng nhân... hoá trang."

Bọn Bách Duy thất kinh, vội hỏi, "Bọn tôi ăn vận như thế này... sao có thể nhận ra là tăng lữ?"

Đại hán mặt rỗ phì cười, lắc đầu nói, "Sao lại không nhận ra được! Này nhé, nếu quả là người đi hái sâm ở Trường Bạch Sơn thì hay tay sần sùi những vẩy chai, có đâu nhẵn nhụi như kia."

Vừa nói hắn vừa chỉ vào tay bọn Bách Duy, "Và có một điểm này rất quan hệ. Bọn giang hồ như chúng tôi, khi đứng thì hai bàn chân cách hẳn nhau ra, khi ôm tay quyền thi lễ thì đứng thẳng người như cây cột. Các vị thì hơi khác. Khi đứng thói quen khép kín hai chân, ôm tay quyền thi lễ thì quen cúi đầu khom mình như lễ Phật. Tất cả các cử chỉ ấy tổng hợp lại mà xét, đủ nhận ra các vị là thầy chùa, không hơn không kém."

Bọn Bách Duy xanh mắt lên, đưa mắt cho nhau, thiếu một nước là phục lăn xuống sát đất.

Một phút yên lặng qua rồi, Diệu Vũ mới cười gượng nói, "Không ngờ hoá trang của bọn tại hạ mà cũng bị các bạn nhận ra."

Đại hán mặt rỗ cười ha hả, đắc ý nói, "Mấy con mụ áo xanh của Nam Cung thế gia, tuy có kinh nghiệm phong phú mà cũng chẳng nhận ra được điểm ấy. Huống chi họ còn bị bọn tại hạ xen vô làm lạc hướng, loạn ý nghĩ đi. Tuy nhiên, ta cũng chớ coi thường tụi họ. Họ còn lắm tay mưu kế kinh nhân, không công khai ra mặt. Vừa rồi chỉ là họ sơ suất một chút, hoặc trong một lúc thôi. Biết đâu rồi họ chẳng chợt nghĩ ra. Trừ phi có nhiều sự kiện dồn dập khiến họ quẩn trí."

Ngô Đức trái lại, cười ha ha lên mà rằng, "Họ muốn cơ mưu thế nào, thì họ cũng vẫn chỉ là đàn bà, là thị mẹt. Thị mẹt mà cầm quyền, chủ mưu thì chỉ có mà... hà hà... bất thành, thất bại."

Ngừng một giây, bỗng "A!" lên một tiếng, hắn nói tiếp, "Quên mất! Tụi tôi xin tự giới thiệu. Tại hạ là Ngô Đức, được anh em vùng ngoại cửa quan gán cho cái hiệu là Tọa Sơn Hổ mà thực ra thì... hà... hà tài năng chưa xứng đáng với cái nhãn hiệu ấy."

Lão giơ hai tay chỉ đại hán mặt đầy sẹo, "Còn đây là Nhị đệ của tại hạ, tước hiệu Đao Ba Hổ."

Chỉ đại hán mặt rỗ, "Đây là Tam đệ Ngô Đạo, tước hiệu Kim Tiền Hổ và đây..."

Chỉ người cuối cùng, "Là Tứ đệ Ngô Nghĩa tước hiệu Quyển Mao Hổ."

Bọn Bách Duy đều cúi đầu thi lễ. Ngô Đức lại tiếp, "Hà hà! Tụi tôi đã tự giới thiệu. Vậy xin các vị cũng cho tụi tôi biết cao tính đại danh."

Bách Duy ngần ngừ đưa mắt cho Diệu Vũ. Diệu Vũ đằng hắng rồi hỏi lảng qua việc khác, "Còn vị Lão tiền bối từng ra lệnh cho các bạn. Chẳng hay họ tên là gì?"

Ngô Đức nói, "A! Các vị cẩn thận quá. Tới giờ mà hình như vẫn chưa tin bọn tôi sao? Chỉ đáng bực là vị tiền bối ấy hành vi qua bí mật, không chịu cho tụi tôi biết họ tên."

Bách Duy nói, "Dù chẳng biết họ tên, thì cũng biết diện mạo, xin tả hình dong cho biết. Chả lẽ..."

Bọn Ngô Đức đưa mắt cho nhau. Kim Tiền Hổ Ngô Nhân bật lên nói, "A! Sao mà các vị... Có điều là tụi chúng tôi hoi quý tánh đại danh các vị, các vị không trả lời, lại xoay ra vặn hỏi chúng tôi chuyện khác?"

Đao Ba Hổ Ngô Đạo cũng xen vào, "Chính thế. Vả chăng nếu các vị đã y ước với vị lão tiền bối ấy mà tới đây, thì tự nhiên là phải biết diện mạo vị ấy thế nào? Vậy hãy tả cho tụi tôi coi xem có đúng không?"

Linh trí tự nhiên nảy ra, Bách Duy chơi lối hàm hồi, tay phải ôm lấy cánh tay trái bị cụt, nói một cách mập mờ, "Vị tiền bối ấy à!"

Vừa nói vừa khẽ đưa mắt nhìn, thấy tụi kia ngó vào cánh tay mình, có ý như thừa nhận là đúng, lão bèn nói luôn, "Có phần nào giống như... tại hạ!"

Câu nói mập mờ, nếu vị tiền bối kia là "Độc Tý, Độc Cước" lão nhân thì quả thực có phần nào đúng với Bách Duy một cánh tay bị cụt. Nếu không phải thế, thì câu nói kia có thể hiểu là chỉ về dáng dấp, tuổi tác, cao thấp, nước da mà thôi.

Thấy bọn Ngô Đức chẳng những không cãi lại mà còn ra vẻ đồng tình là khác. Bách Duy nắm chắc 100 phần 100 là đúng, bèn đặt tay lên đùi, nói tiếp, "Nếu như cái này...!"

Ý lão nói nếu như cái đùi này của tại hạ mà cụt nốt thì hai người hoàn toàn tàn tật như nhau.

Quả nhiên bọn Ngô Đức cùng phá lên cười, Ngô Đức vỗ tay nói, "Đúng thế! Đúng rồi. Giờ chúng ta khỏi nghi ngờ nhau nữa."

Trong bọn duy có ba anh em Diệu Pháp cứ ngẩn ra, không hiểu tại sao Bách Duy lại biết hình dáng vị lão tiền bối kia mà nói ra đúng như thế.

Bách Duy nghĩ thầm, "Lão "Độc Tý, Độc Cước" này hẳn là có mưu đồ gì lớn cho nên mời cả đến các tay hảo hán từ ngoài quan ải. Bọn Ngô Đức nói là liên lạc với một sỗ tăng lữ. Phải chăng là với các Lạt ma áo vàng vừa rồi, chớ Thiếu Lâm với Võ Đang lúc nầy thì hầu như hết người, không có lực lượng nữa. Mình chẳng qua mới khám phá ra một bọn Ngô Đức mà lực lượng đã đáng kể. Biết đâu lão Độc Tý chẳng còn bố trí bao nhiêu bọn khác nữa mà mình chưa khám phá ra. A! Lần này hết sức gay go, Nam Cung thế gia dễ gì đối phó kịp."

Nghĩ tới đây, Bách Duy cảm thấy rùng mình. Giữa mấy phe chống đối, quyết hạ nhau, có thể nói rằng Bách Duy là kẻ biết được nhiều bí mật của cả đôi bên, và lão vẫn có chủ trương bất cứ ai thắng hay bại, lão ở giữa thâu lợi. Vì vậy mà bao nhiêu bí mật lão biết, lão không tiết lộ cho Nhâm Vô Tâm và cho Nam Cung thế gia biết rõ. Nếu không thì chỉ nội trong một, hai bữa, Nam Cung thế gia có thể diệt tan chủ lực của Nhâm Vô Tâm, khiến chàng hoàn toàn bị cô lập, tự trói mình mà hàng phục rồi.

Địa vị Bách Duy tới lúc này đã biến thành hết sức trọng yếu và đó là điều mà Nam Cung thế gia lúc đầu cũng chẳng ngờ tới. Luôn cả Bách Duy cũng không ngờ là mình tới được đến thế. Lão ngần ngừ suy luận và tự nhủ thầm rằng, "Nếu ta không khéo lợi dụng tình thế và cơ hội này thì là đứa ngốc. Chẳng những hỏng ăn mà còn mang họa là khác."

Lão định lợi dụng như thế nào. Thực ra lão đã dự tính sẵn rồi. Lập tức lão nghiêm giọng nói, "Hai bên đã thành thực nói chân tướng của mình ra rồi, vậy ta có thể nói rõ kế hoạch của Độc Tý Độc Cước lão tiền bối ra cho các người rõ. Do lệnh của vị lão tiền bối, bần tăng đứng ra làm tay chủ não điều khiển kế hoach của Người. Vậy các vị phải tuyệt đối tin ở điểm ấy thì bần tăng mới bày tỏ công việc ra được."

Anh em Ngô Đức vội chắp tay, cùng thưa, "Bọn chúng tôi hoàn toàn theo Đại Sư phân phó."

Bách Duy chơi đòn tâm lý độc đáo. Nhận rõ rằng bọn Ngô Đức do Độc Tý dị nhân sai tới, chỉ là để bắt liên lạc, còn kế hoạch ra sao họ tuyệt đối không biết. Nay Bách Duy lại biết cả kế hoạch của Độc Tý, thì rõ ràng phải là tay quan hệ thay mặt Độc Tý để điều khiển tụi họ, không còn nghi ngờ gì nữa.

Bách Duy càng nói càng gằn giọng hơn, "Các vị cần chú ý và hiểu rõ một điều này. Bần tăng tuy là kẻ chủ não thay thế Độc Tý tiền bối điều khiển kế hoạch, nhưng vì thân thế đặc biệt, nhiều trường hợp không tiện lộ ra mặt, cho nên mọi hành động đối ngoại, vẫn do các vị phụ trách liên lạc mà bần tăng chỉ ra lệnh cho các vị thôi."

Thấy mọi người "dạ dạ", Bách Duy nói tiếp, "Lúc này đây, sẽ còn người người, nhiều bọn khác, cũng dùng cái khẩu hiệu "Truyền Thanh Hoả Tiễn" làm ám ngữ để liên lạc với các bạn. Lai lịch của họ rất phức tạp. Bần tăng đứng trong bóng tối sẽ ngầm ngầm điều tra xem họ có thật trung thành chăng. Vậy tạm thời các bạn chớ lộ cho ai biết về tung tích của bần tăng. Các bạn sẽ bảo họ mỗi người buộc một dải lụa màu vàng bên cánh tay để dễ nhận nhau."

Bọn Ngô Đức đều cúi đầu vâng lệnh. Bách Duy mỉm cười nói, "Giờ thì các vị phải tản đi các nơi để bắt liên lạc ngay. Hà hà...Nếu cứ ở trong xó chuồng gà này thì ai biết mà tìm kiếm được."

Bọn Ngô Đức đều cười, ôm tay quyền thi lễ. Vừa toan quay trở ra, bỗng Ngô Nhân giơ tay ngăn cả lại, đoạn cất tiếng hỏi, "Mải nói chuyện, quên hẳn một việc, Đại Sư pháp hiệu là gì, xin cho anh em biết để tiện xưng hô."

Bách Duy đưa mắt loáng một cái, trả lời gọn lỏn, "Thiếu Lâm Bách Đại!"

Bọn Ngô Đức cùng giật mình "A!" lên một tiếng, đưa mắt cho nhau rồi cùng khom mình thi lễ. Ngô Đức cung kính thưa, "Anh em tôi, từ nhỏ mới chỉ được nghe đại danh của Đại Sư. Không ngờ bữa nay được gặp... lại được đặt dưới sự điều khiển của Đại Sư, thực là hân hạnh cho chúng tôi..."

"Không dám! Chỉ mong các vị tận lực và tuyệt đối chớ đem tên hiệu bần tăng nói lộ ra."

Anh em Ngô Đức "dạ dạ" rối cả lên, lại thi lễ rồi quay đi.

Đợi họ đi xa rồi, Diệu Vũ mới hỏi, "Coi vẻ bốn anh em họ thực thà, và không phải là kẻ đối địch với ta. Không hiểu sao Đại Sư lại không thành thực với họ?"

Bách Duy cười nói, "Hà hà! Ở tình thế nầy, chúng ta cẩn thận đề phòng một chút thì hơn. Lỡ ra..."

Diệu Pháp lặng thinh, có ý định nói gì lại thôi. Diệu Không ấm ức không nín được, bèn hỏi, "Chúng ta đến đây chỉ là để dò xét động tĩnh thôi. Nếu mà để đối phó với Nam Cung thế gia thì chưa phải lúc, chưa phải chỗ. Không hiểu sao Đại Sư vừa rồi bỗng đổi ý có vẻ như muốn ta tay hành động ngay tức khắc?"

"Ra tay ư? Bọn nào ra tay chớ bọn ta có làm gì." Ngưng một giây lão cười nhạt mà rằng, "Nói đúng ra thì thế này. Nếu quả thực có sự tranh sát giữa họ với bọn Nam Cung thế gia thì bọ ta trước hết hãy lặng yên coi hai bên "long tranh hổ đấu". Đợi khi nào cả hai cùng ốm lử cả ra, hoặc cả bọn chúng tử thương, là chúng ta ở giữa được lợi. Hiểu chưa? Nên biết rằng, vừa rồi chúng ta tuy qua mắt Nam Cung thế gia, nhưng tâm lý họ vẫn còn ngờ vực, ngấm ngầm dò xét ta. Nếu may mà hai bên có cuộc xung đột, rối bời cả lên, thì Nam Cung thế gia không còn sức đâu để ý đến bọn ta. Lúc đó là lúc ta hành động... thuận lợi."

Diệu Pháp có vẻ hậm hực từ nãy, giờ mới bật lên hỏi, "Đã đành vậy... nhưng dù sao thì bọn Ngô Đức cũng là đồng đạo với ta. Lát nữa xảy ra sự gì, họ không đủ sức đối phó tất là đến lưu huyết. Sao Đại Sư không khuyên họ hãy nhẫn nại, bảo toàn lấy thực lực có lợi cho ta để có dịp tốt sẽ ra tay. Lúc này đây họ hành động hy sinh vô ích."

Bách Duy cười nhạt, "Họ chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, giữ họ lại vô ích chẳng bỏ lại tiết lộ bí mật. Thà rằng mặc họ...Dù họ thất bại thì bọn Nam Cung thế gia cũng bị thương tổn. Tóm lại là ta vẫn có lợi."

Diệu Pháp bất phục, vừa định nói nữa, thì Diệu Vũ đã hỏi, "Đại Sư có thực quen biết vị lão tiền bối Độc Tý Độc Cước...?"

Bách Duy cười toáng lên, nói, "Chẳng qua là bắt bóng dè chừng phỏng theo điệu giọng của bọn Ngô Đức rồi tả ra. Đi đâu mà quen biết."

Diệu Vũ hỏi, "Đại Sư bảo họ dùng dải lụa vàng cột ở cánh tay. Thiên hạ sẽ để ý thì sao?"

"Bữa nay ở đây sẽ rối loạn tơi bời, ai mà để ý tới một giải lụa nhỏ ở nơi cổ tay họ. Duy chúng ta biết để ngấm ngấm dễ quan sát xem tui họ có đông không? Và tụi họ là những ai."

Diệu Vũ hình như định hỏi gì nữa, nhưng lại thôi, chỉ khẽ mỉm cười.

Bách Duy nói tiếp, "Chúng ta tới đây để dò xét động tĩnh. Vậy cũng phải ra ngoài coi xem. Có điều ta nhận thấy rằng Diệu Pháp với Diệu Không đạo huynh, hình như có vẻ không tán..."

Diệu Vũ cắt ngang lời đi mà rằng, "Sao bằng cho đệ tử theo Đại Sư ra ngoài trinh sát. Hai sư huynh thì ở lại đây để hoặc như anh em Ngô Đức có trở lại tìm kiếm, thông tin tức gì chăng?"

Mọi người y kế. Bách Duy cùng Diệu Vũ tức khắc đi trở ra.

Trên các đường qua lại, cả ở các quán ăn, người cũng thưa vắng hẳn đi. Bách Duy cau mày nói, "Có biến cố gì xảy ra vậy?"

"Để tiểu nhân tiến lên nghe ngóng xem." Diệu Vũ khẽ nói xong, chạy đi liền.

Hắn đi một lúc, quay trở lại, khẽ lôi Bách Duy tới chỗ kín rồi nói, "Vừa rồi, quả nhiên bọn Lạt Ma sinh chuyện. Họ một mực đòi vào trong xóm. Hai bên cãi cọ, lại không hiểu ngôn ngữ của nhau. Bọn Lạt Ma nổi hung, một tăng nhân đã dùng "Mật Tông Đại Thủ ấn" đạp cho một đại hán chết quay ra không kịp ngáp. Tứ phía quần hùng nhao nhao cả lên, có người muốn vào can thiệp, nhưng... nhưng thực là kỳ lạ. Thấy bọn đàn bà áo xanh... cứ điềm nhiên không giận, không đối phó lại, thành thử quần hùng cũng không can thiệp vào được."

Bách Duy nói, "A! Dưới mắt mọi người mà Nam Cung thế gia chịu nhẫn nhục đến thế ư?"

Diệu Vũ nói tiếp, "Dạ! Cứ như tiểu nhân xét đoán thì một là bọn Lạt Ma mười phần kinh nhân, vả có ý ra oai nên càng hung mãnh. Còn bọn đàn bà áo xanh, tự biết không địch nổi, nên đành chịu."

Bách Duy nói, "Hoặc giả thế chăng. Mật Tông Đại Thủ ẩn cùng với Đại Bát Nhã Kim Cang chưởng của Thiếu Lâm đều là Phục Ma Chưởng Pháp, có thể các núi, đập chết hổ của Thiên Môn. Bọn đàn bà áo xanh há dám chống lại. Nhưng sau rồi ra sao?"

"Bọn Nam Cung thế gia, một mặt sai khiêng người chết đi chôn, một mặt... úi cha! Không thể ngờ được... Họ ân cần mời bọn Lạt Ma vào quán thết trà, bánh. Quần hào xôn xao, người thì cho là chuyện tức cười, kẻ thì cho là thể nào cũng khó yên được, thể nào Nam Cung thế gia chẳng có dự bị đối phó, vì ít ra nơi đây cũng là phần lớn chủ lực của Nam Cung."

Bách Duy nói, "Hẳn là bọn Lạt Ma có mưu toan gì nên mới cố tình bất chấp nguy hiểm, xông vào nơi người ta đương kén rể này."

Diệu Vũ mỉm cười, "Chính thế! Họ thừa biết những mụ áo xanh hẳn là cố ý hoãn binh để kịp thi hành độc kế. Nhưng họ bất chấp, có lẽ là họ nhân mưu kế của Nam Cung, được dịp tiến vào hẳn bên trong đã, để làm việc động trời chăng? Tiểu nhân nghĩ vậy mà thiên hạ quần hùng cũng nghĩ vậy. Vì thế tất cả đều hả hê ăn uống, kéo nhau tới quán tiếp tân để coi. Do thế mà các ngả đường đều vắng hết bóng người."

Bách Duy cười nói, "Đạo huynh điều tra khá thật. Thoáng chốc đã biết rõ các việc."

Diệu Vũ cười tít đi mà rằng, "Chỉ cần nghe thiên hạ thuật sơ lược, rồi mình suy rộng thêm ra, hà hà..."

"Nhưng... quán tiếp tân chính thức họ đặt ở đâu?"

Vừa hỏi tới đây, thì về phía nẻo quặt bên trái vẳng nghe có tiếng ồn ào, lẫn tiếng hò la. Diệu Vũ nói, "Quán tiếp tân hẳn là ở nơi có tiếng ồn ào đó."

Bách Duy vừa đi vừa nói, "Lúc này, thiên hạ quần hùng đương tụ họp ở đây. Bọn Nam Cung hẳn chưa dám giở trò quá độc ác. Nhưng chẳng rõ họ có cách gì để đối phó với bọn Lạt Ma?"

Diệu Vũ nói, "Nếu chỉ dùng võ lực thôi thì lúc này ở Trạm Truyền Thanh, các cao thủ của Nam Cung thế gia chưa đủ chống lại bọn Lạt Ma. Huống chi, dù có nhiều người, lúc này họ cũng chưa dám công nhiên cậy đông mà đàn áp bọn Lạt Ma, vì còn sợ thiên hạ chê cười dị nghị. Nhưng bữa nay rõ ràng là họ bị bọn Lạt Ma chơi cho một đòn rồi. Bọn Lạt Ma có thể tự ý ra vào, không ai cấm nổi. Chẳng rõ Nam Cung thế gia sẽ giở trò gì ra. Trừ phi..."

Hồi thứ năm mươi hai

Mượn đao giết người

Diệu Vũ hình như vừa nghĩ tới một việc gì cực kỳ khủng khiếp, nên nói tới đấy thốt nhiên, rùng mình im bặt. Bách Duy vội hỏi, "Trừ phi làm sao?"

"Trừ phi hiện giờ Lan Cô có mặt ở đây thì không kể."

Bách Duy cũng cảm thấy lạnh toát xương sống, lẩm bẩm, "Nếu Lan Cô ở đây thì Nam Cung thế gia hà tất phải dùng thủ đoạn gì nữa? Vả lại bọn Lạt Ma kia cũng khó lòng sống sót mà ra khỏi nơi đây."

Hai người ra tới đầu phố, đã thấy trước cửa toà lâu đài cũ, người từ bốn phía đổ dồn về đông như nêm cối. Thì ra toà nhà này nguyên trước là nha môn Dịch thừa trong Trạm Truyền Thanh, nên trước cửa có một bãi đất trống rất rộng, hai bên trồng mấy chục gốc ngô đồng, người đi xem lúc này đã ngồi kín bên các cành cây, không còn chỗ nào chen lọt.

Bọn Bách Duy còn đang thu tìm chỗ lách vào, đã nghe tiếng những người đứng phía trong xôn xao bàn tán, phê bình sắc đẹp của Liên cô nương. Diệu Vũ nói, "Nữ chủ nhân đã ra mặt, nhưng có lẽ vì chưa có cao thủ, nên tới bây giờ vẫn chưa có ai thách đấu với bọn Lạt Ma."

Giữa lúc đó chợt nghe trên toà lầu cao, có một giọng nói oang oang như tiếng chuông đồng cất lên, làm cho những tiếng ồn ào thốt nhiên im bặt, mọi người đều chăm chú lắng tai nghe.

"Các vị bằng hữu chú ý! Chú ý!"

Im lặng một lát, tiếng nói lại cất lên, "Xin các vị anh hùng hào kiệt bốn phương nghe đây. Bữa nay bỗng dưng có mấy tên tăng nhân ngoại bang vô cớ đến đây sinh sự, đánh người bị thương, làm như vậy, không những đã khinh thường nhà Nam Cung thế gia tôi, mà ngay cả các vị bằng hữu vũ lâm Trung Nguyên ta, cũng bị họ coi bằng nửa con mắt..."

Mấy câu nói khích của hắn quả nhiên có kiến hiệu, mới nghe tới đó trong đám quần hùng đã lập tức nổi lên những tiếng xôn xao bàn tán, tiếng nói vẫn đều đều tiếp, "Hành động của bọn họ tuy không thể tha thứ được, nhưng nhà Nam Cung thế gia chúng tôi mấy chục năm nay tuyệt đối không muốn nhúng tay vào những chuyện đổ máu, vì thế hôm nay cũng không thể vì việc này mà phá bỏ lệ cũ."

Diệu Vũ cười khẩy một tiếng, chưa kịp nói gì, thì bốn phía nổi lên những tiếng la ó rầm rầm, nhiều người đã nhấp nhổm định xông vào bọn Lạt Ma.

Bọn Hoàng Y Lạt Ma vẫn điềm nhiên như không như không nghe tiếng. Một lát sau tiếng la ó đã lắng dần, giọng nói lại tiếp, "Nhà Nam Cung thế gia chúng tôi xưa nay tuy vẫn không thích nhờ sức người ngoài, nhưng vì đây là một thịnh hội chiêu thân, không thể nào không nhường các vị bằng hữu vũ lâm so tài cao thấp. Vậy nên bọn tăng nhân kia bữa nay tự nhiên dẫn xác tới đây, chính là một dịp rất tốt, để các vị dùng họ làm cái bia sống khảo thí võ công. Vậy xin mời các vị cứ việc nỗ lực thi tài. Duy có một điều tôi xin nói trước là chúng ta đừng nên cậy mạnh hiếp yếu mà mang tiếng cho đạo nghĩa võ lâm Trung Nguyên. Còn ngoài ra hậu quả thế nào, Nam Cung thế gia tôi xin cáng đáng hết."

Tiếng nói vừa dứt, quần hào đã nhao nhao vỗ tay reo hò, "A, hay lắm, hay lắm! Ý kiến hay! Hoan hô! Hoan hô!"

Ngoài này Bách Duy và Diệu Vũ đưa mắt nhìn nhau lắc đầu. Bách Duy nói, "Cái kế mượn dao giết người nguy hiểm thật!"

Tiếng la hét vừa dứt, làn sóng người lại cuồn cuộn kéo vào tiền sảnh, Diệu Vũ và Bách Duy cũng len vào theo.

Vào tới bên trong, mới trông thấy bọn Hoàng Y Lạt Ma đứng xoay lưng vào nhau, thành một vòng tròn. Thái độ đều tỏ ra rất bình tĩnh. Quần hào hình như cũng khiếp đảm vì cái khí thế lẫm nhiên của bọn họ, nên miệng tuy hò hét om sòm, mà rút cục vẫn không ai dám ra tay trước.

Cửa tiền sảnh đã mở rộng, một gã đại hán mặc võ phục đen mặt vàng như nghệ đứng ngoài cùng mấy người đàn bà áo mặc áo xanh đứng giữa, cuối cùng mới tới hơn mười tên trai tráng cũng mặc áo đen, chắp tay đứng xếp thành một hàng dài.

Trên một chiếc ghế bằng gỗ tử đàn phủ gấm đỏ đặt giữa trung ương, có một vị nữ lang tuyệt sắc, tóc cuốn lồng bồng như mây rối, trâm thoa đều nạm ngọc, sáng chói như sao sa.

Diệu Vũ đoán vị nữ lang ấy chắc là Liên cô nương, còn gã đại hán mặt vàng, có lẽ là người có cái giọng nói oang oang lúc nãy. Diệu Vũ chú ý nhìn kỹ mới biết bộ mặt của hắn chỉ là mặt nạ, chế bằng da người rất khéo. Chàng vừa quay lại định nói cho Bách Duy hay. Không ngờ chợt nhận thấy Bách Duy đang đăm đăm nhìn Liên cô nương, sắc mặt tái nhợt, thờ thẫn như mất hồn.

Diệu Vũ vừa toan cất tiếng gọi, chợt nghĩ thế nào lại thôi, nhưng hai con mắt vẫn luôn luôn theo dõi cử chỉ của Bách Duy trong bụng không khỏi băn khoăn ngờ vực.

Bách Duy ngẩn ngơ một lúc, rồi như người đang cơn mơ chợt tỉnh, vội lùi dần về phía sau, nấp vào sau lưng một gã đàn ông cao lớn, hình như sợ ai trông thấy. Diệu Vũ ngạc nhiên nghĩ thầm, "Trông bộ tịch Bách Duy thì hình như hắn với Liên cô nương là người quen cũ, nhưng tại sao hắn phải trốn tránh? Vả Liên cô nương ở trong nhà Nam Cung thế gia từ bé, làm sao mà quen hắn được?"

Chàng tuy nghi ngờ, nhưng ngoài mặt vẫn làm ra vẻ thản nhiên, lách dần về phía Bách Duy, mắt vẫn không dời quan sát từng cử chỉ của hắn.

Diệu Vũ có biết đâu rằng Liên cô nương chính là Liên Nhi, thủ hạ của Ngũ phu nhân, mà trước kia đã có một lần làm cho Bách Duy phải thần hồn điên đảo.

Câu chuyện mê hồn xảy ra bữa đó Bách Duy đã khắc sâu vào tâm khảm, vĩnh viễn không quên. Không dè hôm nay tình cờ lại gặp mặt người xưa, trách gì hắn chẳng phải bàng hoàng sửng sốt. Trong khi đó chợt lại nghe tiếng người đàn ông mặt vàng cười nhạt nói, "Huynh đệ vẫn yên trí rằng trong các vị võ lâm bằng hữu đây tất không thiếu gì cao thủ, nào ngờ... hắc... hắc... Các vị làm cho huynh đệ thất vọng quá chừng... hắc hắc..."

Trong đám quần hào nghe mấy câu mỉa mai đó, nhiều người đã đỏ mặt tía tai, chưa kịp ai lên tiếng, chợt lại nghe Liên Nhi cất tiếng cười khanh khách nói, "Không khéo tôi đành phải lấy mấy ông Hoàng Y Lạt Ma kia mất thôi."

Câu nói vừa dứt, trong đám đông người đã có đến hơn hai mươi đại hán hùng hổ xông lên. Và cũng trong lúc ấy chợt một người trong bọn Lạt Ma quát to, "Thong thả!"

Tiếng quát chẳng khác gì tiếng lệnh vỡ, lại giống như tiếng sói tru, làm cho mấy chục người toan xông lên, lại hoảng hồn dừng cả lại.

Kế đó một vị Lạt Ma rời hàng ngũ bước ra, người này gầy bé loắt choắt, mặt sát tới xương, khi đi thì cái đầu lắc la lắc lư, tưởng như sắp rơi, nhất là tấm áo cà sa vàng khoác trên mình lão, trông càng như không có gì ở bên trong, bị gió bay tung lên, phấp phới như là cờ trước gió.

Vậy mà cái thân hình nhỏ thó ấy, lại có thể quát lên những tiếng lệnh vỡ vừa rồi, thực là một sự tối ư vô lý. Quần hào có lẽ còn kinh ngạc hơn là tức cười, nên đứng trước khung cảnh khôi hài đó, không hề thấy một ai nhếch mép.

Vị Lạt Ma chẳng nói chẳng rằng, thủng thỉnh bước tới bên gốc hoè, rồi dừng lại vén tay áo lên. Mọi người đều chăm chú theo dõi cử chỉ của lão, lúc này mới nhận ra hai cánh tay lão đen sì, khô khẳng như que củi, tưởng chừng chỉ bẻ nhẹ một cái cũng gãy, nhưng hai bàn tay của lão thì lại to một cách kinh khủng, không xứng với thân thể chút nào, nhất là lòng bàn tay đỏ như son tàu, lại càng làm cho mọi người chú ý.

Diệu Vũ nói nhỏ với Bách Duy, "Có lẽ một chưởng đánh chết người vừa rồi là do bàn tay này cũng nên?"

Bách Duy nói, "Công phu Mật Tôn Đại Thủ ấn, ta chỉ nghe nói, chớ chưa trông thấy bao giờ. Trông lòng bàn tay hắn đỏ thế kia, không biết có phải là công lực "Chu Sa Thủ" không?"

Trong khi ấy lão Lạt Ma đã giơ cao bàn tay, quát to một tiếng, nhằm thân cây hoè phóng ra một chưởng.

Mọi người ai cũng yên trí cây hoè bị một chưởng ấy thân cây tất phải gẫy răng rắc, lá cây tất phải rụng lả tả. Mấy người đứng gần cây hoè, bất giác cũng đều tránh giạt ra xa.

Không ngờ một chưởng phóng ra cây hoè vẫn đứng im phăng phắc, không hề rung chuyển tý nào, còn lão Lạt Ma cũng thủng thỉnh quay về chỗ cũ.

Quần chúng đều ngơ ngác, không hiểu như thế là nghĩa lý gì. Im lặng một lúc lâu, thốt nhiên có tiếng cười ha hả. Có người chế diễu, "Ngỡ là công phu ghê gớm thế nào, làm mình suýt chết khiếp. Té ra...hì...hì..."

Người thì kêu, "Công phu đó dù là đứa trẻ lên ba cũng đã được mẹ dạy rồi, hà tất phải đem ra loè người lớn."

Tiếng cười nói nhao nhao như vỡ chợ, thậm chí có người còn tự nhủ, "Nếu biết bản lĩnh của hắn non thế, thì vừa rồi cứ ra tay trừ khủ hắn đi cho xong!"

Lão Lạt Ma gầy vẫn nghiêm trang đứng yên, sắc mặt không tỏ vẻ tức giận, mà cũng không tỏ vẻ thẹn thùng, duy có gã đại hán mặt vàng thì chẳng những không cười, mà gã còn mở to đôi mắt ra ý kinh ngạc vô cùng. Bách Duy thở dài nói, "Không ngờ hào kiệt vũ lâm Trung Hoa càng ngày càng suy tàn đến thế. Tới giờ phút này mà vẫn hoàn toàn có mắt như mù."

Diệu Vũ cũng ngậm ngùi than thở. Lúc này quần hào đã vững tâm, không coi bọn Hoàng Y Lạt Ma vào đâu nữa, tức thì lại xô đẩy nhau tiến lên, ai cũng muốn ra tay trước, kẻo sợ người khác tranh mất công đầu. Gã đại hán thấy tình hình như vậy chỉ bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ, rồi quay mặt đi, không thèm nhìn đến nữa.

Thốt nhiên nghe trong đám đông có tiếng người kêu lên một cách hoảng hốt, "Kia kia, các người trông kìa, cái cây..."

Mọi người giật mình cùng quay lại nhìn, quả thấy cây hoè vừa rồi xanh tốt như thế, mà mới trong khoảnh khắc đã trở nên héo rũ, lá cây trước kia nguyên màu xanh ánh vàng, lúc này hầu hết đều biến thành màu tro xám, đang thi nhau rụng lá trút xuống gốc cây, cành cây thì cứ từ từ ngã xuống, thân cũng đã bắt đầu khô cạn.

Quần hào đều rùng mình kinh hãi, trợn mắt há mồm không nói lên được một tiếng. Diệu Vũ tuy vẫn biết lão Lạt Ma gầy kia tất có một chưởng lực kinh hồn, nhưng thật không ngờ lại ghê gớm đến bực ấy.

Quần hào sợ quá, bỏ chạy tán loạn, bao nhiêu hùng khí vừa rồi đều biến đâu mất hết. Lão Lạt Ma lúc này mới thủng thẳng lên tiếng, "Các vị bằng hữu đừng sợ, bọn bần tăng tới đây chỉ cốt để đối phó với nhà Nam Cung thế gia, các vị với chúng tôi chỉ là bạn, không có thù oán gì nhau, hà tất phải gây chuyện đổ máu. Các vị nên đi về đi là hơn."

Quần hào nghe nói mới hơi yên tâm, tuy không xô nhau chạy nữa, nhưng cũng không dám đến gần, chỉ đứng xa xa mà ngó.

Sau một lat yên lặng, Liên Nhi chợt giơ tay ra hiệu, gã đại hán mặt vàng tức thì bước xuống thềm, đôi mắt gườm gườm nhìn lão Lạt Ma gầy, chân vẫn đều đều bước.

Bọn Hoàng Y Lạt Ma đưa mắt cho nhau, rồi dồn tụ chân khí, chờ sẵn. Nhưng giữa lúc ấy, chợt trong đám đông có tiếng kêu, "Cháy cháy! Bà con ơi! Cháy cháy!"

Mọi người kinh hoàng ngẩng nhìn lên, quả thấy nóc nhà phía đông bốc lên một ngọn lửa đỏ rực, khí thế cực kỳ mãnh liệt. Mấy người trọ trong căn nhà ấy đều sợ hãi cuống cuồng, ba chân bốn cẳng chạy về cứu ngựa và hành lý, không ai còn bụng dạ nào chờ xem cuộc quyết đấu nữa.

Trong khi bọn người trọ ở gian nhà khác đang lấy làm hú vía vì phòng mình không việc gì, thì bất đồ nóc nhà phía tây lại thấy bốc lên một luồng khói đen dầy đặc, rồi kế tiếp đó, gian phía bắc, gian phía nam, đồng thời cũng phát hoả. Lửa cháy ngất trời, khói đen mù mịt, thế là toàn trường náo loạn nhốn nháo như ong vỡ tổ, tiếng la hét xen lẫn tiếng ngựa hý, tiếng gạch ngói nổ lốp bốp, tiếng lửa réo ù ù nghe thực vô cùng khủng khiếp.

Bách Duy và Diệu Vũ bị làn sóng người xô đi dồn lại không biết chạy đi đâu, đành cứ đứng chết trân một chỗ.

Nhìn lên trước cửa nhà dịch quán, đã thấy bọn Liên Nhi và mấy người dũng sĩ áo đen cũng biến đâu mất hút. Diệu Vũ giậm chân phàn nàn, "Vụ hoả hoạn này thật kỳ quá! Đại sư có biết ai gây ra không?"

Bách Duy đáp, "Trừ bốn anh chàng mãn hán ra thì còn ai nữa. Có lẽ họ đã ước hẹn với bọn Lạt Ma từ trước là khi nào thấy có nguy thì phóng hoả để tiếp ứng cũng nên!"

Hắn nói xong lại đưa mắt nhìn quanh, thấy mọi người đều đã chạy hết, liền kéo tay Diệu Vũ nói, "Thôi, chúng ta cũng chạy ngay đi thôi, chậm chân thì e..."

Nói chưa dứt lời, chợt nghe phía sau có tiếng gọi, "Phùng lão anh hùng, đừng đi vội!"

Bách Duy giật mình quay lại, đã thấy Ngô Tứ nương đem theo bốn tên đại hán và gã mặt vàng đang rảo bước đi tới.

Bách Duy cố trấn tĩnh, bước lên đón, cười hỏi, "Đại nương có việc gì dạy bảo?"

Ngô Tứ nương khép tà áo thi lễ, mỉm cười duyên dáng, "Ban nãy vì quá vội vã, nên không được thừa tiếp lão anh hùng. Tiện thiếp rất lấy làm áy náy. Nay may sao đã dẹp yên được những chuyện vô vị, tiện thiếp gọi là có chén rượu nhạt kính thỉnh lão anh hùng và cũng là để tạ tội một thể."

Bách Duy trống ngực đập thình thịch, gượng cười nói, "Nhưng... nhưng lúc này dang phát hoả..."

Ngô Tứ nương vẫn tươi cười nói, "Lửa cháy đã có người cứu, lão anh hùng hà tất phải bận tâm."

Bách Duy muốn từ chối, nhưng không biết nói thế nào đành phải cúi đầu tỏ ý tuân lệnh. Diệu Vũ cười nói, "Lão gia cứ yên tâm đi uống rượu, đê tiểu nhân đi thẳng báo cho hai vị thiếu gia rõ."

Thật ra Diệu Vũ cũng muốn nhân dịp này chạy đi tìm Diệu Pháp và Diệu Không, bàn tính xem nên đối phó với Bách Duy như thế nào. Bất đồ Ngô Tứ nương gạt đi, "Việc thông tri cho hai vị thiếu hiệp đã có đệ tử của tôi đảm nhiệm, quý khách không phải bận tâm. Bọn tiện thiếp đã đặt thêm một tiệc ở nhà ngang, mời quý khách uống một bữa cho thật say."

Diệu Vũ kinh sợ, gượng cười nói, "Tiểu... tiểu nhân đâu dám!"

Ngô Tứ nương sầm mặt lại nói, "Chủ nhân đã nhận lời rồi, sao ngươi còn từ chối!"

Diệu Vũ đưa mắt nhìn ngang, thấy gã đại hán mặt vàng đang lừ lừ tiến lại phía mình. Bách Duy vội ho khan một tiếng, nói to, "Đại nương đã ban ơn! Ngươi không được từ chối!"

Diệu Vũ bất đắc dĩ cúi đầu nói, "Tiểu nhân xin tuân lệnh!"

Lúc ấy Ngô Tứ nương mới tươi cười, chắp tay mời Bách Duy đi lên. Diệu Vũ cũng bị hai tên đại hán đi kèm hai bên, đưa vào dịch quán.

Đoàn người vào tới cửa, Bách Duy đi theo Ngô Tứ nương rẽ sang dãy hành lang bên trái, còn hai gã đại hán lại đưa Diệu Vũ vào dãy hành lang bên phải.

Quanh co một lúc vào tới hậu viên. Ngô Tứ Nương đưa Bách Duy tới trước cửa một toà tịnh xá, xung quanh bao bọc toàn một loại cây ngô đồng cành lá rườm rà xanh tốt, bóng cây rủ xuống che kín cửa sổ, phong cảnh thanh nhã vô cùng.

Nhưng trong bóng ngô đồng rậm rạp vẫn luôn luôn thấp thoáng bóng người, đủ hiểu rằng xung quanh tịnh xá vẫn có mai phục, ai đã vào đây nếu không có lệnh chủ nhân, cũng khó lòng thoát ra.

Trong nội thất đã bày một tiệc rượu cực kỳ lịch sự, chén đũa thìa bát đều thuộc loại sang quí. Ngô Tứ Nương mời Bách Duy ngồi lên trên, rót rượu ân cần mời mọc, Bách Duy nâng chén, chỉ thấy hương rượu dâng lên thơm ngát, rõ ràng là thứ rượu quý lâu năm, nước rượu trong vắt, không có qua một chút vẩn đục.

Ngô Tứ Nương cầm chén rượu của mình lên uống trước để tỏ ra là rượu không có thuốc độc, Bách Duy cũng theo phép lịch sự, ngửa cổ uống một hơi cạn chén.

Nhưng rượu vừa nuốt khỏi cổ, Bách Duy chợt tái mặt quát to, "À, ngươi dám..."

Ngô Tứ Nương đã đứng phắt dậy, miệng cười khanh khách, nhảy ra khỏi phòng, khoá trái cửa lại, Bách Duy cũng đứng dậy toan chạy theo, nhưng lại ngã ngồi xuống đất, chân tay run lẩy bẩy, sắc mặt nhợt như tờ giấy trắng.

Thì ra hồ rượu đó có hai ruột, thứ rượu Ngô Tứ Nương uống là rượu thường, còn thứ rượu Bách Duy uống trong ngầm bỏ độc dược, nên vừa uống khỏi cuống họng, hắn đã thấy một luồng hơi nóng từ dưới đan điền cuồn cuộn dâng lên.

Hắn lại nhận thấy cái cảm giác hôm nay cũng y hệt như cái cảm giác hôm ở trong ngôi mộ hoang, hắn uống chén rượu do tay Liên Nhi rót, bất giác sợ run lên, mồ hôi vã ra như tắm.

Lúc này sức thuốc tuy chưa phát, nhưng Bách Duy đã như con chim phải cung, trông thấy cành cung đã run cầm cập, đến nỗi đầu óc gần như mê đi, chân tay mềm nhũn, lửa dục mỗi lúc một tăng.

Thốt nhiên nghe có tiếng cười khanh khách, dòn như tiếng vàng reo, từ bên ngoài cửa đưa vào, cánh cửa từ từ hé ra một khe hở rồi một bàn tay trắng nõn như ngọc, luồn qua khe hở đưa vào, Bách Duy run run hỏi, "Ai?"

Tiếng cười lại khanh khách nổi lên, "Con người vô lương tâm kia, quả không nhận ra tiếng ta chăng?"

Giọng cười nửa như mừng, nửa như giận, rồi một khuôn mặt khả ải, chan chứa phong tình, đã hiện ra trước mặt Bách Duy.

Không nói cũng biết, thiếu nữ đó chính là Liên Nhi, một người mà Bách Duy vừa yêu vừa sợ, và ngày đêm mơ tưởng không nguôi.

Bách Duy tuy đã biết trước là thế nào nàng cũng ra mặt, nhưng giờ phút này cũng không tránh khỏi được quả tim đập như trống trận, ấp úng nói không ra hơi. Liên Nhi cúi mặt xuống, cặp mắt đong đưa, mỉm cười nói, "Ngươi hãy nhắm mắt lại đi!"

Bách Duy cổ họng khô bỏng, quả nhiên theo lời nhắm chặt mắt lại. Giữa lúc đó chợt nghe tiếng cánh cửa từ từ khép lại, kế đó là tiếng chân bước nhè nhẹ, rồi một làn hương thoang thoảng xông thẳng vào mũi. Bách Duy không chịu nổi tò mò, liền sẽ hé mở mắt trông trộm.

Bất đồ, hắn vừa mở mắt, chợt tưởng như bên tai nổ "bình" một tiếng, rồi một luồng máu nóng xông thẳng lên đầu. Thì ra trước mặt hắn lúc này, thân thể Liên Nhi chỉ còn che bằng một mảnh da mỏng, Bách Duy trống ngực đập thình thịch, mặt ngây như cán tàu, miệng thở hổn hển. Liên Nhi lại cười khanh khách, "Đồ quỷ yêu, trông trộm người ta..."

Vừa cười vừa uyển chuyển bước tới bên cạnh Bách Duy. Tức thì một làn hương thơm lại ngào ngạt xông lên.

Hồi thứ năm mươi ba

Mê hồn lạc phách, thú thực chân tình

Bách Duy lồng ngực phập phồng, giơ hai tay ra đỡ. Liên Nhi lùi lại tránh, cười nói, "Chúng ta chỉ nói chuyện, cấm không được dùng tay. Nói chuyện xong sẽ hay."

Bách Duy nghiến răng hỏi, "Chuyện gì?"

Liên Nhi lại cười khach khách, "Ta hỏi câu gì, ngươi trả lời câu ấy, nhưng không được nói dối. Xong rồi, xong rồi thì..."

Nói đến đấy thốt nhiên ngưng bặt. Bách Duy mặt đỏ như gấc chín, run run nói, "Được, được, nàng cứ hỏi đi."

Liên Nhi đôi mắt lẳng lơ, cười tình, "Tôi muốn biết mấy hôm nay ngươi đi những đâu? Trả lời đi."

Bách Duy đáp, "Tôi phụng mệnh đi theo Nhâm Vô Tâm, hắn đi đâu, tôi đi đấy."

Liên Nhi lúc này đã đổi giọng, sẵng tiếng hỏi, "Sao hôm nay Nhâm Vô Tâm không cùng đi với ngươi?"

Bách Duy đáp, "Vô Tâm còn mắc đưa Huyền Chân đi chữa bệnh, nên sai tôi tới đây."

Liên Nhi sầm mặt nói, "Đành vậy, nhưng sao ngươi lại phải cải trang, để định lừa ta chăng?"

Bách Duy đáp, "Vô Tâm bắt tôi cải trang, tôi phải cải trang, Vô Tâm tuy không có đây, nhưng đã có người khác giám sát tôi thay hắn, tôi chỉ hơi sơ ý một chút là bao nhiêu công lao trước đều mất hết."

Liên Nhi gật đầu nói, "Ừ, người nói cũng có lý."

Giữa lúc ấy Ngô Tứ Nương chợt đẩy cửa bước vào, ghé tai Liên Nhi nói nhỏ, "Tên này trả lời lưu loát như vậy, chỉ sợ không đúng."

Liên Nhi cười nói, "Trông bộ tịch hắn như người mất hồn thế kia, khi nào còn dám nói dối."

Kỳ thực Bách Duy dẫu uống lầm mê dược, nhưng may biết sớm, nên đã dùng nội lực chặn bớt dược lực, không cho phát tác. Tuy nhiên ngoài mặt hắn vẫn làm ra vẻ điên đảo say mê, là chỉ cốt cho Liên Nhi khỏi nghi ngờ, rút cục thì Liên Nhi dù tinh khôn vẫn còn thua Bách Duy một bực.

Ngô Tứ Nương đưa mắt nhìn Bách Duy, rồi lại nháy nháy Liên Nhi, cười một cách tinh quái, mở cửa đi ra. Bách Duy lại làm ra vẻ sốt ruột giục, "Nào hỏi gì thì hỏi mau lên, dàng dềnh mãi."

Liên Nhi cười một cách lẳng lơ, nói, "Làm gì mà nóng ruột thế? Vô Tâm sai ngươi lại đây có âm mưu gì không?"

Bách Duy nói, "Hắn chỉ bảo tôi lại đây nghe ngóng động tĩnh thôi. Lúc này hắn đã nửa điên nửa cuồng, còn nghĩ ra mưu kế gì nữa?"

Liên Nhi cười nói, "Vô Tâm điên thật à? Nếu thế thì tốt lắm. Ngũ phu nhân mà nghe được tin ấy, chắc phải cao hứng."

Bách Duy hỏi dò, "Ngũ phu nhân có ở đây chăng?"

Liên Nhi lắcđầu. Chợt lại cười nói, "Các ngươi tới đây đã không có âm mưu gì, thì sao lại câu kết với bọn Trường Bạch Tứ Hổ?"

Bách Duy chột dạ, vội nói, "Chúng tôi có hẹn ước gì với bọn Tứ Hổ đâu, chẳng qua chỉ ngẫu nhiên gặp nhau ở đây đó thôi."

Liên Nhi nói, "Vậy thì tại sao họ lại ra sức giúp ngươi? Xem chừng mấy người ấy có vẻ chịu nghe lời người lắm mà."

Bách Duy nói, "Bọn họ tuy không phải là đồng đảng với Nhâm Vô Tâm, nhưng lại rất ghét Nam Cung thế gia, vì thế nên cố ý tới đây quấy rối. Họ tưởng tôi là Bách Đại thiền sư, nên hết sức cung kính lễ phép. Nhưng bọn ấy toàn là đồ vũ phu thô xuẩn chẳng có gì đáng sợ."

Liên Nhi mỉm cười gật đầu, kế lại hỏi, "Kẻ phóng hoả vừa rồi, ngươi có biết là ai không?"

Bách Duy đáp, "Tôi không biết, nhưng dám chắc chín phần mười là do bọn Tứ Hổ gây ra. Theo chỗ tôi biết thì những người buộc tay bằng dải lụa vàng, toàn là đồng đảng của họ."

Liên Nhi gật gù cười nói, "Có lý lắm."

Tiếp đó lại nguýt Bách Duy một cái, õng ẹo nói tiếp, "Không ngờ ngươi vẫn còn trung thành với Nam Cung thế gia. Ngũ phu nhân vẫn có bụng chờ ngươi, chuyến nầy để tôi sẽ giải thích cho phu nhân rõ. Nhưng sau này nếu được đắc chí, ngươi chờ quên công tôi nhé."

Bách Duy cúi đầu nói, "Nếu vậy thì ơn ấy bần tăng xin minh tâm khắc cốt, vĩnh viễn không bao giờ dám quên."

Liên Nhi cười khanh khách, đôi mắt lẳng lơ nhìn Bách Duy, rồi thủng thỉnh đứng lên, đi lại phía giường ngủ.

* * *

Diệu Pháp, Diệu Không từ trước đến giờ vẫn ngồi chờ ở dãy phòng Cầm điếm, trong hậu viện. Hai người tính khí đều trầm tĩnh nhẫn nại, nếu đổi thử là Diệu Vũ, tất cả đã chạy ra từ lâu rồi.

Không biết thời gian qua bao nhiêu lâu, chợt nghe phía ngoài có tiếng người kêu thất hoả. Diệu Không vội bảo Diệu Pháp, "Chúng ta ra xem đi."

Diệu Pháp chỉ lắc đầu, Diệu Không không biết làm sao được đành phải ngồi im. Lúc này ngọn gió ngoài cửa sổ đưa vào đã hơi nong nóng, rõ ràng là đám cháy xẩy ra ở gần đây. Bên ngoài thì tiếng kêu la hò hét mỗi lúc một náo loạn om xòm, Diệu Không sốt ruột nói, "Sao tự nhiên lại phát hoả như vậy? Hoặc giả việc này có liên quan đến anh em họ Ngô chăng?"

Diệu Pháp đáp, "Đúng!"

Diệu Không chẳng biết nói gì nữa, đành lại ngồi im. Một lát sau, tiếng là hét bên ngoài đã dịu, gió nóng cũng bớt dần. Diệu Không lẩm bẩm nói một mình, "Quái lạ! Bách Duy Đại Sư và Tam sư đệ sao mãi thế này vẫn chưa thấy trở về?"

Diệu Pháp vẫn ngồi yên, chẳng rằng chẳng nói, đôi mày cau díu lại, hình như trong bụng đang lo lắng chuyện gì. Diệu Không tuy tức bực nhưng cũng không dám nói ra. Chỉ đành ngây mặt nhìn ra ngoài cửa sổ.

Thốt nhiên nghe ngoài sân có tiếng gà vịt kêu quang quác, Diệu Không mừng lắm, nói, "A, họ đã về."

Nói dứt lời đã thấy Ngô Nhân đẩy cửa bước vào, sắc mặt hớn hở, quần áo đầy những tro than, vạt áo bên trái cũng bị cháy mất một miếng lớn, cổ tay trái còn buộc một cái dải lụa vàng rộng bằng hai ngón tay.

Hắn vừa bước vào, đã đảo mắt nhìn khắp gian nhà, khẽ hỏi, "Hai vị có trông thấy bọn anh em tôi đâu không?"

Diệu Không lắc đầu, "Từ nãy chúng tôi vẫn ngồi chết khô ở đây, chẳng những không trông thấy lệnh huynh đệ mà cả gia thúc và xá đệ cũng không thấy đâu cả."

Diệu Pháp lúc này mới lên tiếng, "Bốn vị cùng đi với nhau, sao bỗng dưng lại thất lạc?"

Ngô Nhân nhướng mày cười nói, "Cuộc hoả hoạn vừa rồi, hai vị có biết do đâu mà ra không? Đó chính là công trình của anh em tôi đó. Chúng tôi chia nhau mỗi người đi một phía, và đồng thời cùng phóng hoả một lúc. Tuy không đốt cháy được hết toà Truyền Thanh dịch, nhưng cũng đủ làm cho bọn Nam Cung thế gia phải kinh hồn hoảng vía."

Hắn nói xong lại cười ha hả, tỏ vẻ khoái chí vô cùng. Diệu Pháp sẵng giọng nói, "Kế của các hạ tuy hay, nhưng Trạm Truyền Thanh này nguyên là tư sản của những người dân lương thiện, không biết Nam Cung thế gia đem lợi rử họ, hay lấy thế lực đe doạ họ mà mượn làm quán chiêu thân? Nhưng họ có mượn cũng chỉ trong một thời gian, rồi lại hoàn lại nguyên chủ, nay các vị tự nhiên phóng hoả đốt đi, có phải là bao nhiêu công trình mồ hôi nước mắt của mấy người dân vô tội, chỉ trong phút chốc đã biến thành tro bụi không?"

Mấy câu nói đó, không khác gì một gáo nước lạnh hắt vào mặt Ngô Nhân, làm cho những nét hớn hở đắc ý trên mặt hắn thốt nhiên tan biến mất cả. Diệu Pháp lại nói, "Vả chăng lúc này các hạ tuy an nhiên vô sự, nhưng lệnh huynh, lệnh đệ chưa thấy một ai trở về, biết đâu là không bị bọn Nam Cung thế gia chộp cổ rồi?"

Ngô Nhân giật mình, tái mặt nói, "Ờ nhỉ! Để tôi phải đi tìm họ mới được."

Hắn chưa kịp quay ra thì cánh cửa phòng đã hất tung, rồi một bọn bốn năm người xầm xầm bước vào, người đi đầu chính là Ngô Đạo.

Ngô Đạo sắc mặt cũng tươi cười hớn hở, bọn đi sau có một ông già râu tóc bạc phơ, mặt đầy nếp nhăn, và một chàng thiếu nhiên diện mạo tuấn tú, hình dạng hơi hao hao giống ông già, có vẻ như là cha con.

Còn hai người kia, một người da đen, một người da trắng, tuổi đều vào cỡ ba bốn mươi, thân hình lực lưỡng khoẻ mạnh. Tất cả bốn người mặt mũi đều đầy những than tro.

Vào tới phòng, Ngô Đạo đã vội vàng chạy ra khép hai cánh cửa sổ lại. Ngô Nhân kinh ngạc, cau mày hỏi, "Nhị ca, bốn người này là ai thế? Sao nhị ca lại đưa họ vào đây?"

Ngô Đức quay lại, mỉm cười nói, "Bốn vị bằng hữu đây quý tính cao danh là gì, chính ngu huynh cũng chưa biết."

Câu trả lời làm cho bọn Diệu Pháp và Ngô Nhân cùng đứng ngẩn người ra, chưa biết nói thế nào, thì một người đàn ông đã chắp tay thưa rằng, "Bọn chúng tôi gặp vị huynh đài đây ở trong đám cháy, trong lúc vội vàng quả chưa kịp thông danh tính. Lẽ ra chúng tôi cũng không dám đường đột vào đây, là vì vị huynh đài này có nói việc cơ mật muốn cùng chúng tôi bàn tính, nên chúng tôi mới đi theo."

Ngô Đạo vội cười nói, "Huynh đài đừng lầm, Tam đệ tôi ăn nói tuy lỗ mãng chỉ vì vì hắn chưa hiểu rõ nguyên do, để lát nữa tôi sẽ bắt hắn xin lỗi."

Gã thiếu niên mặt trắng lạnh lùng nói, "Không dám, chỉ xin các hạ giải thích giùm cho một câu là đủ."

Ngô Đạo lúc này mới quay lại nói với mọi người, "Vừa rồi, trong lúc lửa cháy lớn, tại hạ vẫn đứng bên cạnh xem, thấy trong bọn chữa cháy có bốn vị đây, trông bề ngoài thì tưởng là đến cứu hoả, nhưng kỳ thực thì ngược lại."

Hắn ngừng lại một chút rồi lại mỉm cười tiếp, "Thì ra tiếng rằng cứu hoả, các vị ấy lại ném thêm những vật bắt lửa vào, nếu ai cũng chữa lửa theo kiểu ấy thì ngôi trạm Truyền Thanh này hẳn đã cháy hết từ lâu."

Ông già chợt vuốt râu cười nói, "Không ngờ huynh đài tinh mắt đến thế. Chúng tôi vẫn tưởng việc mình làm kín đáo lắm, không ngờ lại bị huynh đài khám phá được."

Ngô Đạo cười hì hì nói, "Bốn vị làm thế, rõ ràng là cố ý đối đầu với Nam Cung thế gia, mà tại hạ đây lại là kẻ tử thù của Nam Cung thế gia, vì thế nên không nề đường đột, thỉnh các vị lại đây, để tính kế đối phó với kẻ thù chung."

Gã trung niên cười nói, "À ra thế. Nếu vừa rồi các hạ bảo trước, có phải đỡ sinh chuyện hiểu lầm không? Bây giờ chúng ta đã là bạn đồng chí với nhau, vậy tối nay phải hợp sức lại, làm cho họ phải thất điên bát đảo một phen mới thoả."

Ngô Đạo gật đầu nói, "Đó chính là chủ ý của tại hạ."

Nói xong lại chỉ dải lụa vàng đeo trên tay, tiếp, "Phàm là bạn đồng đạo với ta, ai cũng đeo trên tay một dải lụa vàng, để tránh khỏi lầm lẫn."

Gã trung niên nói, "Xin huynh đài ra lệnh, anh em tôi chỉ biết tuân theo."

Ngô Đạo mỉm cười, nói, "Huynh đệ làm sao đảm đang nổi trọng nhiêm. Chủ trì việc này đã có Bách Đại Đại Sư chùa Thiếu Lâm."

Bốn người đều giật mình, vội hỏi, "Bách Đại Đại Sư ở đây à? Thế thì may quá, chúng tôi vẫn khát mộ đại danh Người từ lâu, chẳng hay hiện thời Người ở đâu? Nhờ các hạ giới thiệu giùm cho một tiếng."

Ngô Đạo đưa mắt nhìn Diệu Pháp, hỏi, "Sao giờ này còn chưa thấy Đại Sư trở về?"

Diệu Pháp chưa kịp trả lời, đã thấy tiếng gõ cửa cộc cộc, tiếp theo là người gọi, "Tam đệ mở cửa mau."

Ngô Nhân mừng rỡ chạy ra mở cửa, quả thấy Ngô Đức và Ngô Nghĩa đã đưa một bọn hơn mười người ồ ạt kéo vào. Thì ra là bọn Hoàng Y Lạt Ma.

Mọi người trông thấy bọn Lạt Ma đều lộ vẻ vui mừng. Vị Lạt Ma bé nhỏ chắp tay vái chào mọi người, mỉm cười nói, "Được gặp các vị cao nhân, bọn bần tăng rất lấy làm hân hạnh."

Quần hào đều cung kính thi lễ, mời ngồi. Căn phòng bé nhỏ lúc này đã chật ních những người, ai nấy tinh thần đều trở nên phấn chấn, chỉ còn thắc mắc vì nỗi mãi chưa thấy "Bách Đại Đại Sư" về. Diệu Pháp đứng lên nói, "Các vị hãy ngồi đây chờ một chút, để anh em tôi xin đi tìm."

Nói xong lập tức cùng Diệu Không quay ra. Ra tới ngoài đường, thấy người đi lại lũ lượt, ai nấy hình như đều quên hết những chuyện lộn xộn vừa rồi, nhiều người còn chuếnh choáng hơi men, bá cổ nhau vừa đi vừa hát, cười nói ồn ào.

Nhưng cái cảnh tượng nhiệt náo đó cũng không che hết được bầu không khí nghiêm trọng ẩn vào ở bên trong, tất cả những chố kín đáo như sau cánh cửa, góc sân, góc đường đều thấp thoáng có bóng người áo đen đi đi lại lại canh chừng.

Diệu Không khẽ nói, "Thế này mà anh em họ Ngô vẫn tự lấy làm đắc ý. Họ có ngờ đâu hành tung của họ vừa rồi đã làm cho nhà Nam Cung chú ý đề phòng. Lúc này chúng canh gác nghiêm ngặt thế kia, khó lòng làm gì nổi. Nếu họ không tự lượng, cứ làm bừa đi, e chỉ uổng tống tính mệnh, mà chẳng ích lợi gì cho đại sự... Chỉ tức một nỗi tới giờ phút nầy ta vẫn chưa thấu rõ gan ruột Bách Duy, mà cũng chẳng biết là nên tìm cách can ngăn bọn này đi, hay là cứ để mặc cho họ muốn làm gì thì làm?"

Diệu Pháp ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Dù sao ta cũng nên ngăn bọn họ đi là hơn, nếu để họ bị tiêu diệt thì mình cũng thiệt mất một phần lực lượng..."

Nói chưa dứt lời, chợt nghe "veo" một tiếng, một viên đá cuội nhỏ bằng hạt đậu xanh đã xé luống không khí bay tới.

Viên đá ném vào một khoảng không, còn cách chỗ Diệu Không đứng chừng một thước, đủ hiểu người ném đá không có ý định ám toán, mà chỉ cốt làm cho hai người chú ý.

Diệu Không giật mình, vội quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một người đội mũ rơm, mặc áo choàng đen, giơ tay vẫy vẫy, rồi lập tức quay mình đi ngay.

Người này đội mũ sụp xuống tận măt, và kéo cổ áo quàng che lấp cả cằm, nên Diệu Pháp và Diệu Không không trông thấy rõ mặt mũi, tuy nhiên họ đều nhận thấy cái bóng dáng đó có vẻ rất quen thuộc.

Diệu Pháp cau mày nói, "Tên này gọi chúng ta ra làm gì? Có lẽ hắn là người của Nam Cung thế gia, định như ta ra chỗ vắng để ám hại chăng?"

Diệu Không run sợ nói, "Nếu vậy thì ta đừng ra là hơn."

Hai người còn đang dùng dằng chưa biết quyết định thế nào, thì người kia đã dừng chân lại vẫy lấy vẫy để, xem chừng như có vẻ sốt ruột. Diệu Pháp cau mày nói, "Người này trông dáng quen lắm, biết đâu không phải là người bọn ta có việc cơ mật báo cáo? Hoặc giả chính là Nhâm tướng công cũng nên? Đi, chúng ta cứ ra xem thế nào đã."

Nói xong, kéo tay Diệu Không đi theo. Cũng may lúc đó có mấy người đàn ông say rượu, chân nam đá chân xiêu, cười nói bô bô đi tới, lôi cuốn sự chú ý của bọn quân canh, thành ra bọn Diệu Pháp lẩn tránh được dễ dàng.

Người mặc áo choàng đen thấy hai người đi theo, liền rảo bước chạy ra phía ngoài trạm Truyền Thanh. Diệu Pháp và Diệu Không cũng vội vã đuổi theo. Khi vừa tới gần, Diệu Không khẽ lên tiếng hỏi, "Bằng hữu có phải họ Nhâm không?"

Người kia ho một tiếng, rồi đột nhiên quay phắt lại giơ hai tay vịn vào hai người, đầu hơi ngả xuống, miẹng nói lảm nhảm, "Ngon... rượu ngon quá. Hôm nay tối ngày, ta không say, rót thêm ba chén nữa đi."

Tiếng nói lè nhè, rõ ra người đã say đến độ không biết trời đất là gì nữa. Thì ra lúc ấy có một gã áo đen từ xa đi tới, nhìn người mặc áo choàng một lượt, rồi cau mày, vòng ra lối khác mà đi. Diệu Không gật gù cười mỉm, thầm phục người áo choàng nhanh trí.

Ba người đi một quãng nữa, đã trông thấy cây hoè lớn trước cửa trạm Truyền Thanh. Bên ngoài, các vũ lâm hào sĩ bọn năm bọn ba vẫn tấp nập kéo tới, mà người ngồi dưới gốc hoè tra hỏi tên họ và biên sổ, đã đổi thành ba người đàn ông mặc áo dài, nhưng mỗi lần gió lật tà áo lên, người ta còn trông thấy rõ bộ võ phục họ mặc ở bên trong. Do đó mới biết bọn tay chân nhà Nam Cung không phải chỉ có một số mặc võ phục đen như người ta tưởng.

Giữa lúc ấy, chợt một gã đại hán áo đen chạy ra đón đầu ba người, hỏi, "Các vị định ra ngoài trấn chăng?"

Diệu Không giật mình, gượng cười nói, "Chúng tôi muốn đi chơi một lát có được không?"

Gã áo đen nói, "Hành động của các vị quý khách, bọn tiểu nhân đâu dám can thiệp. Nhưng tiệc yến đã dọn rồi, tệ chủ nhân chính đang mời rượu tiếp chuyện quan khách, nếu không có việc gì cần, thì ba vị không nên đi là hơn."

Câu nói của hắn tuy lễ phép, nhưng giọng nói như ra lệnh. Người mặc áo choàng cười ha hả nói, "Mời rượu... ha ha, tốt tốt... Chúng ta lại uống thêm vài chén nữa... ha ha..."

Diệu Không chợt nghĩ ra một kế, vội cười nói, "Ông bạn tôi đây đã quá say rồi, tôi định đưa ra ngoài kia chơi một lát cho tỉnh rượu rồi lại về. Để ở trong này ông ấy cứ nói năng lảm nhảm, ngộ lỡ xúc phạm đến các vị vũ lâm bằng hữu, thì phiền quá."

Gã áo đen chú ý nhìn người say rượu một lát, rồi ngập ngừng nói, "Đã vậy, các vị đi chơi một chút cũng được, nhưng nhớ đừng có đi xa."

Nói xong tránh ra một bên nhường lối, bọn Diệu Pháp vội rảo bước đi ra, trong khi đó người mặc áo quàng đen vẫn không ngớt lảm nhảm đòi uống rượu.

Khi đã ra khỏi trạm Truyền Thanh một quãng khá xa, ba người tìm vào một chỗ vắng vẻ, Diệu Pháp, Diệu Không lại đưa mắt cho nhau, cùng buột miệng gọi, "Nhâm tướng công..."

Tức thì người mặc áo choàng đen đứng thẳng người lên hấp tấp hỏi, "Nhâm tướng công đâu?"

Hai người cùng sửng sốt bước lùi lại mấy bước, trừng mắt nhìn kỹ, chỉ thấy người ấy lột chiếc mũ rơm, để lộ bộ mặt ra, thì té ra là Diệu Vũ.

Diệu Pháp sầm mặt nói, "Lúc này mà ngươi còn thì giờ bày trò đùa ư?"

Diệu Vũ gượng cười nói, "Diệu Vũ lớn mặt đến đâu, mà dám bày trò đùa với hai vị sư huynh?"

Diệu Pháp vẫn gay gắt hỏi, "Thế là nghĩa gì? Bách Duy Đại Sư đâu?"

Diệu Vũ thở dài nói, "Cục diện biến đổi quá rồi, đêm nay không chắc chúng ta đã được an toàn..."

Rồi chàng thuật lại câu chuyện xảy ra ở trước cửa nhà nghênh tân, và những sự nhận xét của mình về Bách Duy cho hai người nghe. Diệu Pháp và Diệu Không nghe xong thẩy đều tái mặt.

Yên lặng một lúc, Diệu Pháp chợt thở dài nói, "Theo chỗ tôi biết, Bách Duy quả đúng là một trong bốn vị hộ pháp chùa Thiếu Lâm, còn cái cớ hắn liên kết với nha đầu nhà Nam Cung thế gia, thì thật là một sự không thể tưởng tưởng nổi."

Diệu Không cũng nói, "Vả hắn ra khỏi chùa Thiếu Lâm là đi theo Nhâm tướng công ngay, còn lúc nào mà cấu kết với Nam Cung thế gia nữa? Còn nếu bảo hắn bị dược vật làm mê mất bản tính, thì cứ coi ngôn ngữ cử chỉ của hắn ngày thường, tuyệt đối không có vẻ gì là mê lẫn. Điều ấy cũng quyết không thể có được."

Diệu Vũ khẽ nói, "Ta chỉ biết sau khi hắn vào chùa Thiếu Lâm, còn trước đó hắn làm người việc gì có ai biết được đâu? Rất có thể hắn là người của Nam Cung thế gia phái tới chùa để làm gian tế, chờ ngày khởi sự để làm nội ứng cho họ?"

Diệu Pháp, Diệu Không đều rùng mình kinh sợ, và cùng nhận thấy Diệu Vũ đoán có lý. Một lát sau Diệu Pháp chợt hỏi, "Tam đệ theo hắn vào trạm Truyền Thanh, rồi sự thể ra sao?"

Diệu Vũ đáp, "Vừa vào tới quán, tôi bị ngay mấy tên tráng đinh nhà Nam Cung lôi tuột về phía trong hậu viên. Đó là một căn nhà có lẽ bỏ hoang đã lâu. Trong phòng đã bầy sẵn một tiệc rượu trông cũng khá phong thể. Chúng ép tôi uống rượu. Tôi phải vờ làm ra vẻ ngốc nghếch, mặc cho chúng muốn làm trò gì thì làm. Trong khi ấy thì Bách Duy ở đâu không rõ."

Diệu Không cau mày thở dài, "Không ngờ đường đường một vị Hộ Pháp Thiếu Lâm mà lại là gian tế của Nam Cung thế gia? Tình hình nầy ta phải đi tìm ngay Nhâm tướng công để trù hoạch mưu kế vãn cứu đại cuộc mới được."

Diệu Pháp nói, "Sư đệ nói có lý, người gánh vác trọng trách lúc nầy trừ Nhâm tướng công ra thì không còn ai nữa."

Diệu Vũ lắc đầu nói, "Theo ý tiểu đệ thì trạm Truyền Thanh đêm nay tất có đại chiến, bọn anh em họ Ngô đều là người của ta, sau nầy khi nào chúng ta quyết một trận thư hùng với nhà Nam Cung, thì những người ấy chính là chiến hữu đắc lực của ta. Nếu đêm nay ta bỏ mặc họ hy sinh thì thật uổng quá."

Diệu Pháp tái mặt nói, "Đúng rồi, Bách Duy giả mạo Bách Đại đại sư ra lệnh cho họ lúc nào xử sự phải đeo một dải luạ vàng trên cổ tay bên trái. Nếu hắn quả là người của Nam Cung thế gia, thì bọn tay sai cứ chiếu theo kế hoạch đó, chộp cổ tất cả ngần ấy người, còn chệch đi đâu được nữa?"

Diệu Vũ nói, "Vì thế tiểu đệ mới nghĩ là chúng ta cần phải tìm kế cứu họ ra ngay mới được. Những chỗ khả nghi của Bách Duy thực quá quan trọng. Dạo này chúng ta thất bại luôn luôn, rất có thể là do tên ấy? Vậy tiểu đệ muốn nhờ nhị sư huynh lập tức quay về lối cũ tìm Nhâm tướng công mới ông ta chủ trì đại cuộc để kịp thời cứu vãn tình thế."

Diệu Không gật đầu lia lịa, "Phải lắm, sư đệ nói phải lắm, ngu huynh xin đi ngay bây giờ. Nhưng còn Bách Duy? Nếu hắn biết ta đã rõ bộ mặt thực của hắn..."

Hồi thứ năm mươi bốn

Trạm truyền thanh, thi mưu đấu trí

Diệu Vũ quả quyết nói, "Sư huynh cứ yên tâm, hắn dẫu khôn ngoan quỉ quyệt, nhưng trước khi Nhâm tướng công đến đây, tiểu đệ cũng quyết đấu trí với hắn một phen, cho hắn biết tay đệ tử Võ Đương là lợi hại."

Diệu Không đưa mắt nhìn Diệu Pháp, Diệu Pháp thở dài nói, "Đại nghĩa trước mắt không cho phép ta được do dự. Sư đệ cần đi ngay cho được việc."

Diệu Không cúi đầu nói, "Tiểu đệ xin tuân lệnh!"

Nói xong lập tức quay mình đi luôn. Diệu Pháp ngẩng mặt lên nhìn mặt trăng rồi nói, "Thời gian đã muộn, ta phải về ngay gặp anh em Ngô thị mới được, kẻo tới lúc việc xảy ra rồi muốn cứu cũng không kịp nữa."

Diệu Vũ thò tay vào mình lấy ra hai dải lụa vàng đưa cho Diệu Pháp một chiếc, còn một chiếc buộc vào cổ tay mình. Diệu Pháp ngạc nhiên hỏi, "Đây là quỉ kế của Bách Duy, sao ta lại..."

Vừa nói tới đây chợt nghĩ ra, bèn lẳng lặng buộc dải lụa vào tay, đoạn cùng Diệu Vũ thủng thỉnh bước về dịch quán.

Vừa tới gần cổng, chợt thấy hai gã áo đen nhảy ra, mỉm cười nói, "Vị anh hùng này đã tỉnh rượu chưa?"

Diệu Vũ giơ tay giữ chiếc nón rơm đội trên đầu, đôi mắt mấp máy lè nhè nói, "Đa tạ bằng hữu! Tại hạ muốn giải rượu bằng rượu nên lại muốn uống thêm vài chén nữa."

Gã áo đen chợt thấy hơi rượu nồng nặc xông vào mũi, suýt nữa buồn nôn, vội nhăn mặt lùi lại mấy bước, gượng cười nói, "Vân Yến đã bắt đầu, chủ nhân tôi sai tôi đi mời các quan khách. Còn một vị nữa đâu rồi?"

Diệu Vũ nheo mắt hỏi, "Cả thảy có mấy con đường đi vào trong trạm?"

Thốt nhiên trước mắt hoa lên, gã áo đen mặt vàng như sáp đại biểu cho Nam Cung thế gia sáng nay không biết từ đâu đã lù lù hiện ra. Hắn vỗ vai Diệu Vũ cười ha hả, "Vị anh hùng này làm tại hạ đi tìm khốn khổ!"

Diệu Vũ giật mình kinh sợ, thấy hắn giơ chưởng lên, tưởng là hắn cao hứng, tùy ý vỗ vào vai mình, sự thật thì hắn đã dồn tụ sẵn sức mạnh bên trong, vội giơ tay lên đỡ, hàm hồ hỏi, "Tìm tôi ư?"

Cái đỡ ấy trông bề ngoài cũng chỉ nhẹ nhàng hờ hững mà kỳ thực là chiêu thức tinh diệu trong Miên chưởng của Võ Đương. Nhưng đối phương ý không ở chổ đó, hắn trông thấy dải lụa vàng trong tay Diệu Vũ liền rụt ngay tay về cười nói, "Ban sáng tiểu anh hùng bỏ tiệc đi trốn, làm cho tệ chủ nhân trách phạt bọn người hầu thậm tệ, bây giờ tiệc tối đã bắt đầu, mời hai vị nhập tiệc."

Diệu Vũ nghĩ, "Tên này như đã biết rõ lai lịch của mình." Bèn cũng thuận đà "ừ" ào một câu, rồi kéo Diệu Pháp theo gã đi vào. Vừa tới cửa trạm, đã nghe bên trong tiếng cười nói ồn ào như vỡ chợ.

Người đàn ông đưa hai người đến đây rồi vái chào lui ra. Diệu Vũ, Diệu Pháp ngang nhiên bước vào nội sảnh. Trong sảnh đèn sáng rực rỡ như ban ngày, hơn một trăm bàn tiệc người đã ngồi chật kín, quan khách phần nhiều nghiêng đầu rỉ tai, thì thào bàn tán. Thấy hai người vào cũng không ai buồn để ý.

Diệu Vũ mắt sáng như sao nhìn quanh một lượt, rồi đột nhiên xăm xăm đi thẳng vào bàn tiệc chính giữa, cúi xuống gọi một người, "Ngô huynh..." rồi ngầm đưa tay trái lên để lộ miếng vải vàng, thì thầm nói tiếp, "Tình thế đã biến, Ngô huynh nên thông tin cho các anh em, bảo họ bỏ chiếc vải vàng này xuống."

Ngô Nhân kinh ngạc vội hỏi, "Có phải huynh đài vâng lệnh của Bách Đại đại sư chăng?"

Diệu Vũ nghĩ thầm, "Nếu ta nói rõ Bách Duy là gian tế của quân địch thì sợ mọi người nổi lòng căm phẫn làm náo loạn lên sẽ hỏng việc lớn, chi bằng hãy giấu đi cho êm chuyện."

Bèn khẽ gật đầu nói, "Bách Đại đại sư sai tôi chuyển cáo các vị hãy bỏ hết những dải lụa vàng đi, và cả bốn chữ "Thanh truyền hỏa tiễn" cũng đã bị quân địch biết hết cả rồi không nên dùng nữa."

Ngô Nhân đưa mắt nhìn Bách Duy ngồi ở phía xa rồi thì thào đáp lại, "Nhờ huynh đài đáp lại với Đại sư. Từ giờ Ngọ đến giờ Tý đã có sáu, bảy người y theo tín hiệu tìm đến liên lạc với bọn tôi, trong số có rất nhiều vị danh tiếng lừng lẫy ẩn cư đã lâu ngày... Đêm nay, thế nào chúng tôi cũng phải cho họ một trận."

Diệu Vũ kinh sợ nghĩ bụng, "Không biết vị cao nhân tiền bối nào mà có tài xách động được nhiều hảo thủ như vậy?"

Giữa lúc ấy, chợt nghe một người có giọng sang sảng nói to, "Liên cô nương, các vị bằng hữu ngồi đây, phần nhiều đều không quản xa xôi ngàn dặm tìm tới chỉ muốn chiêm ngưỡng phong thái của các vị phu nhân trong Nam Cung thế gia. Chẳng biết tiệc yến đêm nay, có vị nào ra mặt không?"

Toàn trường nghe xong câu ấy đều nín thinh, lắng nghe trả lời. Chỉ thấy Liên nhi cầm chén rượu giơ cao lên mỉm một nụ cười duyên dáng nói, "Thái phu nhân tôi không quen cảnh náo nhiệt nên hôm nay không có xuống đây."

Nàng nói xong lại cầm chén rượu chuyển từ tay trái sang tay phải, đôi mắt đong đưa, động tác cực kỳ mỹ lệ.

Chợt nghe trong bàn tiệc có người tặc lưỡi khen, "Đẹp quá! Thật là thiên tiên giáng thế!"

Ngô Nhân vừa nghe lọt tai câu ấy, lập tức quay phắt lại trừng mắt nhìn.

Người nói đó là một gã đại hán mặt vàng. Hắn nói xong cũng tự biết lỡ lời vội im bặt, chợt thấy Ngô Nhân trừng mắt nhìn mình, mặt gã lại lạnh như tiền, cũng trợn mắt nhìn trả.

Bọn Trường Bạch Tứ Hổ vốn tính hung hăng đã quen thấy thế giận lắm, anh nào cũng hoa tay mím miệng, chỉ chực gây sự. Diệu Vũ kinh sợ, vội ấn vai Ngô Nhân xuống, chú ý nhìn gã mặt vàng, thì ra chính là anh chàng cùng trọ với mình mấy hôm trước.

Trong khi đó, người hỏi Liên nhi vừa rồi lại lên tiếng, "Nam Cung Thái phu nhân không đến đã đành, nhưng còn các vị kia chắc thế nào cũng có một vị tới?"

Chợt lại nghe giọng trong trẻo của một người đàn bà nói tiếp, "Phải đấy! Dù đây là một cuộc thí võ kén chồng thì cũng phải có trưởng bối ra mặt chứ? Chẳng lẽ cô nương lại tự đứng ra đính hôn, làm mối hay sao?"

Câu nói vừa dứt, lập tức trong đại sảnh nổi lên những tiếng cười rúc rích. Cử tọa đều quay lại nhìn người vừa mới nói, chỉ thấy đó là một phu nhân tuổi đã hơi cao, mặt tròn như trăng rằm ngồi trên bàn tiệc bên cạnh bàn của Liên nhi và cũng là một vị nữ khách độc nhất trong bữa tiệc đó.

Có một số người biết mặt vị nữ khách đó bèn ghé tai nhau thì thào, "Đường lão thái."

Liên cô nương sầm nét mặt lại, đăm đăm nhìn Đường lão thái, mắt lộ sát khí, nhưng chỉ trong thoảng chốc lại cười khanh khách nói, "Tôi tuy phụng mệnh Thái phu nhân chủ trì hội "chiêu thân" này, nhưng sở dĩ gọi là "chiêu thân" chẳng qua chỉ là để tuyển mấy vị anh hùng trong võ lâm hào kiệt. Còn việc hôn nhân, nếu vị nào không chê hèn mọn xin thân hành đến Nam Dương cầu thân với Thái phu nhân tôi..."

Nói đến đây lại đưa mắt nhìn khắp cử tọa tươi cười nói, "Cuộc hội họp hôm nay tuy rằng do tiểu nữ tự chủ trì, nhưng trừ Thái phu nhân ra còn các vị khác rất có thể sẽ kịp thời đến đây tiếp đãi các vị anh hùng cũng nên."

Thốt nhiên có tiếng một ông già thủng thỉnh nói, "Lão phu nghe đồn đêm nay Nam Cung thế gia có mười nha đầu, chia ra mười nơi kén chồng và mười địa điểm ấy ở rải rác trong các vùng Nam, Bắc Đại Giang hai bên bờ sông Hoàng Hà, các vị phu nhân nếu trong một đêm muốn đi khắp các nơi đó e rằng đến gẫy chân mất?"

Mấy câu nói ấy tuy hợp lý, nhưng Liên nhi tuy là nha đầu mà lại là nha đầu nhà Nam Cung thế gia nên xưa nay mắt ả vẫn để chốc ngôi, có coi các nhân vật hào kiệt võ lâm vào đâu? Lúc này đứng trước công chúng bị người công nhiên miệt thị, trong bụng lấy làm oán giận vô cùng. Cả đến Ngô tứ nương, Hứa nhị nương nghe nói cũng phải tức thay.

Mấy người đàn bà cũng trừng mắt nhìn người vừa nói, thấy đó là một ông già râu dài quá ngực, áo quần rách rưới lôi thôi như kẻ hành khất, bất giác lại tức bực. Ngô tứ nương liền sẵng tiếng nói, "Cuộc chiêu thân này là chuyện vui mừng của bọn thanh niên, ông đã già vậy cũng phải tự biết giữ gìn, sao lại ăn nói bậy bạ, không sợ bị tống cổ ra hay sao?"

Ông già lạnh lùng đáp, "Lão phu chỉ lo không sống mà ra khỏi đây, nếu chỉ bị tống cổ đuổi đi thì còn gì đáng mừng hơn nữa!"

Ngô tứ nương nổi giận nói, "Lão thất phu kia! Ai mời ngươi đến đây? Trong rượu có thuốc độc hay sao mà ngươi dám nói lăng nhăng như vậy? Hay là cốt ý gây rối phá hoại cuộc vui mừng này?"

Thấy cục diện đã quá căng thẳng, gã đại hán mặt vàng chỉ sợ lỡ mất dịp may hiếm có bèn vội đứng lên nói lảng sang chuyện khác, "Liên cô nương! Đêm đã sang canh ba, chúng tôi đã được ban thưởng cơm no rượu say, ai cũng muốn biết cô nương sẽ dùng phương pháp nào để đánh giá cao thấp những người đến cầu thân?"

Bách Duy thấy nói đã sang canh ba, lại chợt nhớ đến lời dặn vội vàng đứng lên, len lén đi ra khỏi tiệc.

Lúc này, cử tọa ai cũng chú ý lắng nghe Liên cô nương tuyên bố phương pháp chiêu thân, nên không ai để ý đến Bách Duy. Duy chỉ có Diệu Vũ từ lúc vào tiệc đến giờ luôn để mắt ngầm xem hành động của lão. Khi thấy lão đứng lên cũng vội vàng đứng lên theo. Diệu Pháp thấy thế cũng đứng lên ra nốt.

Ra tới cửa, Bách Duy ngoảnh lại trông thấy hai người, vội vàng nói nhỏ, "Đêm nay cao thủ đông lắm, các vị không nên dời khỏi đây, lỡ xảy ra chuyện gì còn kịp thời cứu ứng. Tôi đã bắt liên lạc được với một vị cao nhân đang ngầm xách động chiến cuộc đêm nay, thế tất phải ra họp mặt. Nhưng đã giao hẹn cả hai không được đem người đi theo, sợ lộ chuyện. Vậy xin hai người hãy quay lại. Lát nữa ta sẽ nói chuyện sau."

Nói xong lập tức quay đi. Diệu Vũ nghĩ thầm, "Bao nhiêu mưu cơ của Nhâm tướng công đã bị bại lộ bởi tay người này, bây giờ vị cao nhân nào đó lại tưởng hắn là người tốt, toan bàn việc cơ mật với hắn, thật là nguy hiểm!"

Chàng vội nghĩ ra một kế, vội chạy theo nói nhỏ, "Đại sư! Đệ tử cũng vừa gặp vị tiền bối ấy, người mời đại sư lại họp mặt."

Bách Duy chột dạ, nghiêm nét mặt hỏi, "Ngươi gặp vị tiền bối nào? Phải biết việc này quan hệ trọng đại, đừng có oan gia lại ngỡ thân gia mà chui đầu vào lưới quân địch!"

Diệu Vũ chợt nhớ câu chuyện Bách Duy nói với anh em Ngô thị sáng nay bèn nói bừa, "Vị tiền bối ấy chỉ có một chân và một tay..."

Nói xong, không đợi Bách Duy trả lời quay lại nói với Diệu Pháp, "Sư huynh đứng đây, cứ theo lời dặn của vị tiền bối ấy mà làm. Để tiểu đệ đưa đại sư đi..."

Diệu Pháp còn đang do dự, Bách Duy và Diệu Vũ đã ra tới cửa trạm. Mấy tên đại hán trông thấy Bách Duy đều cung kính nhường lối.

Hai người lẳng lặng, chẳng ai nói với ai một câu, chỉ cắm đầu rảo bước đi nhanh. Ra tới cửa trấn, Bách Duy nóng lòng sốt ruột tự nghĩ, "Đã gần tới canh ba rồi mà tên nhải ranh này cứ ám quẻ mình mãi làm lỡ cả việc lớn!" Hắn bực tức đưa mắt nhìn Diệu Vũ, rồi lại nghĩ tiếp, "Tên này ranh mãnh tinh quái lắm, nếu cứ để hắn bên mình thì thế nào hắn cũng làm hư việc của ta, chi bằng nhân lúc hắn có một mình ở đây thủ tiêu hắn đi cho rảnh."

Nghĩ vậy, trong bụng thấp thỏm chỉ chực ra tay. Diệu Vũ liếc thấy mặt hắn bừng bừng sát khí, thì cả sợ vội bước lùi lại hai bước nói, "Vị tiền bối ấy chẳng khác gì con thần long ẩn hiện bất thường. Có lẽ hắn nấp đâu gần đây cũng nên? Đại sư thử nhìn xem."

Bách Duy nghe nói cũng giật mình, vội ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía. Chợt trông thấy một người cầm chiếc đèn lồng đang từ phía xa đi lại. Lúc này, trăng sáng vằng vặc như ban ngày mà còn có người phải thắp đèn lồng đi đường thật là một điều tối ư vô lý. Diệu Vũ càng thêm nghi hoặc, trong bụng còn có lẽ bồn chồn hơn cả Bách Duy.

Một lát sau người xách đèn lồng tới gần, thủng thỉnh bước qua gốc hòe. Bách Duy chú ý nhìn, thấy đó là một người đàn ông trung niên, mình mặc áo đỏ quần xanh, quả đúng như lời dặn trong tờ mật lệnh.

Bách Duy ruột nóng như lửa đốt, nghĩ bụng, "Nếu để Diệu Vũ tham gia vào việc này thì việc mình có liên quan đến nhà Nam Cung thế gia tất phải bại lộ, mà đuổi hắn đi cũng không xong, thì chỉ giết đi là ổn thỏa." Nhưng lão lại lo Diệu Vũ vốn tính khôn ngoan quỉ quyệt, nếu lỡ đánh hụt thì thế nào cũng bị hắn chạy trốn mất.

Diệu Vũ thấy tình hình đã nguy vội nắm chặt lấy đốc kiếm, mắt đăm đăm nhìn cánh tay phải của Bách Duy, định bụng hễ thấy hắn giơ tay lên thì trước hết hãy tìm cách đon đả rồi sẽ liệu sau.

Lúc này, người cầm đèn lồng đi được một quãng đã quay trở lại. Khi qua chỗ hai người đứng, đầu vẫn cúi gầm xuống, hình như không biết có người đang chú ý nhìn mình, dáng điệu giống như một anh chàng ngốc.

Diệu Vũ chợt mỉm cười nói, "Người này thái độ kỳ lạ, có lẽ là người của Nam Cung thế gia chăng?"

Bách Duy cười một cách âm hiểm, "Theo ta đoán thì người này chính là vị tiền bối cao nhân sai đến đón chúng mình đó."

Diệu Vũ làm bộ hoảng nhiên tỉnh ngộ nói, "Có lẽ, vậy chúng ta hãy theo hắn mau lên."

Bách Duy gật đầu, cả hai cùng vội vàng đuổi theo gã xách đèn. Diệu Vũ cố ý nhường Bách Duy đi trước cách một quãng chừng hơn một trượng.

Người xách đèn lồng trước còn đi nhanh, sau cứ từ từ chậm lại, hình như sắp tới địa điểm. Bách Duy quay lại, thấy Diệu Vũ vẫn lẽo đẽo theo sau trong bụng giận đến cực điểm, nghĩ lúc này mà không giết hắn đi còn đợi đến bao giờ?

Diệu Vũ thấy Bách Duy quay lại vội nhảy tránh sang vệ đường. Bách Duy biết hắn đã đề phòng, không thể ám toán được bèn quyết định thẳng tay đối phó. Miệng cười một cách nanh ác nói, "Diệu Vũ đạo huynh! Vị tiền bối không muốn cho chúng ta đi hai người, vậy bây giờ làm sao?"

Diệu Vũ tinh mắt biết trong khi nói, hắn đã ngầm vận công lực, bèn vội lùi lại phía sau rút phắt thanh kiếm ra. Bách Duy cười lạt nói, "Đạo huynh muốn động thủ với lão tăng hay sao?"

Diệu Vũ hoành kiếm ngang ngực cười đáp, "Đệ tử đâu dám! Đệ tử chỉ có mấy câu nếu không nói ra được thì chẳng khác gì như cái xương mắc ngang cuống họng, khó chịu vô cùng."

Bách Duy cười nhạt nói, "Đạo huynh muốn nói gì cứ nói đi, bần tăng xin lãnh giáo."

Diệu Vũ hất hàm chỉ gã xách đèn lồng nói, "Đệ tử đã nhìn kỹ, người này nhất định là thủ hạ của Nam Cung thế gia. Đại sư không nên để hắn lừa."

Bách Duy cười một cách độc ác, "Đúng thế, hắn chính là thủ hạ Nam Cung thế gia..."

Vừa nói vừa bước lại gần Diệu Vũ, Diệu Vũ đã nhảy lùi lại phía sau hơn một trượng, cười nhạt hỏi, "Nếu thế thì đại sư cũng là thủ hạ của Nam Cung thế gia chăng?"

Bách Duy gật đầu đáp một cách thản nhiên, "Đúng thế! Trước khi vào chùa Thiếu Lâm, lão tăng đã là hạ thuộc của Nam Cung thế gia. Chỉ tiếc rằng ngươi biết đã quá muộn, bây giờ có hối cũng không kịp."

Diệu Vũ cười một cách ngạo mạn, "Đại sư lầm rồi, việc này đệ tử đã biết lâu nhưng đệ tử vẫn muốn chính miệng đại sư nói ra cho chắc chắn."

Vừa nói vừa dồn công lực vào thanh trường kiếm, lưỡi kiếm luôn luôn rung động ánh thép sáng ngời. Bách Duy "hứ" một tiếng, thấy Diệu Vũ sắp lùi nữa liền bất thình lình xông lên, giơ chưởng đánh xuống.

Diệu Vũ quát to một tiếng, múa thanh kiếm lên một vòng ánh kiếm sáng loáng, bao phủ khắp một vùng trước ngực. Đồng thời hai chân đạp mạnh, nhảy lùi về phía sau.

Chỉ nghe đánh "bịch" một tiếng, chưởng lực mạnh như gió bão của Bách Duy đã va mạnh vào màn kiếm của Diệu Vũ đẩy chàng lùi xa ra sau sáu, bảy thước, thanh kiếm suýt nữa tuột ra khỏi tay.

Diệu Vũ ngầm đề chân khí cho lưu chuyển khắp bát mạch trong mình một lượt, cảm thấy trong ngực hơi tưng tức, biết rằng mình đã bị thương nặng.

Bách Duy lại giơ tay lên cách không, đánh ra một chưởng. Diệu Vũ biết thế không địch nổi, bèn tụ chân lực vào hai chân rồi bất thình lình nhảy vụt về phía sau.

Bách Duy chỉ cười khanh khách, Diệu Vũ thì mồ hôi vã ra như tắm, chân vẫn theo đà tiến của Bách Duy mà lùi dần.

Đột nhiên chàng thét to một tiếng, ánh kiếm lấp loáng, đã liên tiếp phóng ra được ba chiêu.

Ba chiêu đó là tinh túy của kiếm pháp Võ Đương, thế kiếm nhẹ nhàng mau lẹ, kỳ ảo khôn lường. Chỉ tiếc là công lực của Diệu Vũ hãy còn non quá, Bách Duy chỉ thuận tay phóng ra ba chiêu là hóa giải được hết.

Diệu Vũ phóng hết ba chiêu lập tức thoái bước, nhìn về phía sau Bách Duy kêu lớn, "Lão tiền bối mau giúp đệ tử một tay, bắt lấy tên gian tế này."

Bách Duy giật mình toan quay đầu lại, nhưng chợt nghĩ ra đây chỉ là mẹo của Diệu Vũ, bật cười khanh khách nói, "Mưu mẹo của trẻ con mà cũng dám hù ta à?"

Chợt nghe "bịch" một tiếng, ngẩng lên đã thấy người xách đèn lồng bỗng dưng ngã lăn xuống đất, ngọn đèn bị bốc lửa cháy ngùn ngụt.

Bách Duy sợ hãi vội quay lại nhìn, Diệu Vũ thừa thế vội giở thuật khinh công chạy đi như bay. Nhưng giữa lúc ấy thoáng một bóng người lướt qua trước mắt rồi một luồng tiềm lực nặng như hòn núi rớt thẳng xuống đầu.

Diệu Vũ hoảng hốt vội uốn lưng, né người sang một bên tránh thoát. Kế lại nghe tiếng Bách Duy cười khanh khách nói, "Không ngờ đệ tử của phái Võ Đương chỉ là đồ bị thịt!"

Nói chưa dứt lời, chợt nghe phía sau lưng có tiếng người lạnh lùng đáp lại, "Ai bảo đệ tử Võ Đương chỉ là đồ bị thịt? Bần đạo muốn thỉnh giáo người ấy!"

Bách Duy hoảng sợ giật hẳn người lên, vội xoay người nhảy ra xa hơn một trượng.

Dưới ánh trăng sáng, chỉ thấy một người búi tóc theo kiểu đạo sĩ, vai đeo trường kiếm đứng sừng sững như một tòa núi.

Diệu Vũ thoạt đầu còn đứng ngẩn người ra, sau đó mới mừng rỡ cuống cuồng reo to, "A! Sư phụ!"

Thì ra người đó chính là Huyền Chân đạo trưởng. Ông cười nhạt một tiếng hiền từ đáp, "Con tốt lắm! Có những môn hạ như con sư phụ cũng cảm thấy được an ủi."

Bách Duy đã trấn tỉnh được tâm thần, đưa mắt ngó quanh bốn phía, khi thấy không còn ai nữa mới hơi yên tâm, nghĩ bụng, "May mà Nhâm Vô Tâm không có ở đây, nếu không thì thật nguy quá."

Huyền Chân đạo trưởng hình như đọc được những ý nghĩ của hắn bèn vuốt râu mỉm cười nói, "Bách Duy! Ngươi thử ngó lại phía sau xem ai đứng đó?"

Bách Duy chợt thấy lạnh toát xương sống vội quay đầu lại, quả thấy một chàng thiếu niên mặc áo lam, mặt đẹp như ngọc đang đứng chắp hai tay ra sau lưng, cách chổ hắn đứng không đầy một thước.

Bách Duy hồn vía lên mây, nghĩ bụng, "Đại thế đã hỏng, đành phải giữ lấy toàn mạng vậy." Đoạn hắn nằm phục xuống, lăn đi mấy vòng chuồn ra xa. Diệu Vũ vội kêu lên, "Hắn định trốn kìa!"

Chàng thiếu niên đó chính là Nhâm Vô Tâm, thấy thế chỉ mỉm cười, chỉ chuyển mình một cái đã đứng chắn ngay trước mặt Bách Duy. Bách Duy cuống quá vội vung tay lên, nhắm giữa ngực chàng phóng ra một chưởng.

Nhâm Vô Tâm khẽ mỉm cười giơ ba ngón tay lên, nhẹ nhàng điểm vào cổ tay Bách Duy. Bách Duy kêu rú lên một tiếng, cổ tay như bị rắn cắn vội rụt về nhưng cánh tay đã mềm nhũn. Nhâm Vô Tâm bước lên một bước, dùng ngón tay giữa và ngón tay trỏ điểm vào hai mắt Bách Duy.

Bách Duy đã sợ đến cực điểm, vội giơ tay phải lên dùng chiêu "Tử xách phục lung" là chiêu tuyệt nghệ của Thiếu Lâm bắt lấy cổ tay Nhâm Vô Tâm. Nhâm Vô Tâm hạ thấp cánh tay xuống, Bách Duy đã thấy cổ tay đau đớn liền buột miệng kêu rầm lên, buông thõng cánh tay xuống.

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Bách Duy! Đã đến nước này ngươi nên biết điều một chút là phải."

Bách Duy mồ hôi ướt đẫm trán, vừa lùi lại phía sau vừa run run hỏi, "Ngươi muốn gì?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Ngươi bảo ta nên làm thế nào? Giết ngươi thì không đủ rửa giận mà tha ngươi thì không hợp tình lý? Ta cũng không biết phải xử ngươi thế nào cho phải."

Huyền Chân đạo trưởng lên tiếng, "Những người như ngươi không bằng cầm thú, để sống ở đời chỉ làm hại thiên hạ."

Nói dứt lời, liền rút thanh trường kiếm cầm lăm lăm trên tay.

Bách Duy hoảng hốt, vội lùi lại hai bước kêu to, "Khoan đã! Phái Thiếu Lâm và các ngươi hợp tác với nhau, ta là đệ tử Thiếu Lâm, dẫu có tội cũng phải giao cho Thiếu Lâm phân xử. Các ngươi tự tiện dùng tư hình thế này sao phải phép đối với đồng đạo?"

Nhâm Vô Tâm nổi giận cười nhạt, "Bách Nhẫn đại sư đâu?"

Bách Duy chột dạ, vội lấp liếm, "Ta tuy chưa biết chưởng môn sư huynh hiện đang ở đâu, nhưng trong chùa còn có trưởng lão hộ pháp, các ngươi phải đưa ta về chùa cho các trưởng lão hộ pháp xử trí."

Huyền Chân đạo trưởng giận dữ quát, "Ngươi có thật là đệ tử phái Thiếu Lâm không?"

Bách Duy vẫn nói cứng, "Phải hay không chỉ có chưởng môn phái Thiếu Lâm nhận định, người ngoài không thể tác chủ được."

Diệu Vũ thấy Huyền Chân đạo trưởng và Nhâm Vô Tâm ngần ngừ không quyết, liền bước lên thưa rằng, "Sư phụ! Trong trạm truyền thanh lúc này không thiếu gì cao thủ, chính là một thời cơ rất tốt cho chúng ta chiêu lập đồng đạo phản kích địch nhân. Người này dẫu chết đi sống lại hàng trăm lần cũng chưa đủ chuộc tội. Xin sư phụ và Nhâm tướng công phải quyết định cho mau mới được."

Huyền Chân đạo trưởng gật đầu, đưa mắt nhìn Nhâm Vô Tâm. Nhâm Vô Tâm mỉm cười, chợt giơ tay chỉ một cái, điểm vào "Cự khuyết huyệt" trên quả tim của Bách Duy.

Chỉ nghe Bách Duy "hự" một tiếng, thân hình run bắn lên, chỉ trong khoảnh khắc lão đã cảm thấy khắp mình đau như kim châm, đầu xương gãy răng rắc.

Nhâm Vô Tâm cười nhạt nói, "Thủ pháp "Phân thân xúc cốt" của ta có thể nói là trong võ lâm chưa từng trông thấy. Chỉ trong chốc lát nữa, thân thể ngươi sẽ co rúm lại còn bằng nửa thước, ta có thể giấu ngươi vào trong túi vải được..."

Nói chưa dứt lời, Bách Duy đã ngã nhào xuống đất lăn lộn không ngừng, mặt mũi đều ứa máu rên la thảm thiết. Thầy trò Huyền Chân đạo trưởng tuy căm giận Bách Duy thấu cốt, nhưng khi trông thấy thế cũng phải quay mặt đi không dám nhìn. Nhâm Vô Tâm cũng không nỡ trông thấy thảm cảnh đó đang định phóng một chưởng kết liễu cho xong, chợt nghe Bách Duy kêu lên, "Nhâm... Nhâm tướng công."

Nhâm Vô Tâm nhấc một chân lên đá Bách Duy lên không, lộn đi mấy vòng rồi lại ngã ngồi xuống đất. Bách Duy thở phì phò như trâu, mặt mũi méo mó, cơ hồ bất thành nhân dạng. Nhâm Vô Tâm quát, "Trước khi vào phái Thiếu Lâm, tên tục ngươi là gì? Có hỗn hiệu không?"

Bách Duy vừa thở vừa nói, "Họ Âu tên Trí, tước hiệu Phấn diện hổ."

Nhâm Vô Tâm lại hỏi, "Bách Nhẫn đại sư sống hay chết?"

Bách Duy vội đáp, "Còn sống, nhưng đã quy hàng Nam Cung thế gia."

Nhâm Vô Tâm giơ chân lên định đá nữa, "Nói láo!"

Bách Duy run sợ nói, "Chưởng môn sư huynh chắc là uống lầm mê dược của Nam Cung phu nhân nên mới cam tâm đầu hàng. Việc đó không can gì đến tôi."

Huyền Chân đạo trưởng hỏi, "Còn ngươi có bị uống lầm thuốc mê không?"

Bách Duy do dự một lát rồi nói, "Năm đó tôi vâng mệnh Nam Cung phu nhân vào chùa Thiếu Lâm làm dọ thám, chẳng qua là trong lúc hồ đồ gây ra lầm lỡ, thực không phải là tại uống thuốc mê."

Nhâm Vô Tâm lại hỏi, "Lúc đó Bách Đại đại sư đâu?"

Bách Duy thản nhiên đáp, "Tôi và chưởng môn sư huynh đồng mưu chế phục Bách Đại đại sư, chính tay chưởng môn bắt hắn."

Huyền Chân đạo trưởng lắc đầu than, "Đường đường một phái Thiếu Lâm mà phút chốc bị tiêu diệt về tay ngươi. Phật Tổ linh thiêng khi nào lại tha thứ cho những kẻ phản bội như ngươi."

Nhâm Vô Tâm lạnh lùng hỏi, "Ngươi ra ngoài hành động thì nghe lệnh ai chỉ huy?"

Bách Duy không cần nghĩ ngợi, lập tức trả lời, "Ngũ phu nhân Điền Tú Linh!"

Nhâm Vô Tâm giật bắn người lên, từ từ quay lại lẩm bẩm, "Hèn gì ta nghĩ mãi mà không ra là ai."

Điều mà chàng cần hỏi Bách Duy chỉ có câu đó, mối nghi ngờ ám ảnh chàng, làm cho chàng tan gan nát ruột bao lâu nay, chỉ trong chốc lát đã gỡ lần ra được hết.

Chàng chắp tay ra sau lưng, đi đi lại lại một lúc, chợt quay lại nói, "Bách Duy! Ngươi đã thẳng thắng cung khai, gỡ cho ta bao nhiêu nỗi thắc mắc từ trước đến giờ nên ta tha cho ngươi khỏi chết. Ngươi đi đi!"

Bách Duy mừng rỡ, vừa toan đứng lên bỏ chạy nhưng còn sợ là Nhâm Vô Tâm lừa gạt nên chưa dám, chỉ ngước mắt nhìn mọi người.

Nhâm Vô Tâm nói với Huyền Chân đạo trưởng, "Một phen giang hồ biến loạn, bao nhiêu tinh anh của phái Thiếu Lâm đã dần dần mất cả, tại hạ mưu sự không thành cũng không chối được lỗi. Bách Duy tội ác đã đầy, dẫu chết cũng chưa đủ chuộc tội, nhưng tại hạ quả không còn mặt nào để giết hắn."

Chàng thở dài rồi nói tiếp, "Người này chịu không nổi cực hình, phun ra hết những điều bí mật của Nam Cung thế gia, Nam Cung phu nhân tất không khi nào chịu tha thứ. Vả hắn đã thành người tàn phế, nghĩ lại công đức của phái Thiếu Lâm, thiết tưởng đạo trưởng cũng nên mở lượng từ bi, mặc cho hắn tự sinh tự diệt là hơn cả."

Huyền Chân đạo trưởng nhìn cánh tay gãy của Bách Duy ngậm ngùi nói, "Nhâm tướng công nói có lý, bần đạo xin tuân lệnh."

Ông lại hỏi Bách Duy, "Ngươi có biết người xách đèn kia vì sao mà chết không?"

Bách Duy đứng lên, cúi đầu đáp, "Theo ý tôi đoán, thì có thể hắn chết vì thứ thuốc độc định giờ của Nam Cung phu nhân."

Bách Duy nói xong, nét mặt chợt lộ vẻ ăn năn, ngượng nghịu. Huyền Chân đạo trưởng thở dài nói, "Thỏ chết chó cũng giết luôn, chim bay đã hết cung còn để chi. Ôi! Cái thói quen của các tay kiêu hùng từ xưa đến nay đều thế cả. Cái chết của người này chính là một tấm gương vàng. Đại sư tài trí hơn người, cũng nên tỉnh ngộ mới phải."

Bách Duy đỏ mặt tía tai cúi đầu nói, "Đa tạ đạo trưởng chỉ điểm cho mê muội, đệ tử đã biết hối lỗi, nguyện sẽ đem tấm thân này cứu lấy hai vị sư huynh đang bị giam hãm trong Nam Cung thế gia. Dù thành hay bại cũng xin lấy cái chết để đền tội."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Hay lắm! Thế mới thật là anh hùng, thật là hào kiệt. Vừa rồi tại hạ hơi lỗ mãng, mong đại sư bỏ qua cho."

Nói đến đây, chàng liền giơ tay ấn vào huyệt "linh đài" sau lưng Bách Duy dồn một luồng nhân lực nóng bỏng vào thân thể lão, Bách Duy rùng mình, vội vận khí từ đan điền đi ra các mạch.

Chỉ trong phút chốc, da thịt lão dần dãn ra, chân tay lại cử động được như cũ. Nhâm Vô Tâm mới thu tay về, Bách Duy vội bái tạ quay đầu bước đi.

Ba người cùng đưa mắt nhìn theo, Diệu Vũ vội nói, "Theo ý đệ tử thì Bách Duy chưa chắc đã thật tâm hối cải."

Nói chưa dứt lời đã nghe tiếng giày ở phía sau, ba người cùng giật mình quay lại, trông thấy Bách Duy đang hấp tấp chạy ngược trở lại. Huyền Chân đạo trưởng ngạc nhiên hỏi, "Đại sư trở lại có việc gì vậy?"

Bách Duy không trả lời, đột nhiên quì xuống trước mặt Nhâm Vô Tâm, lạy lấy lạy để, vừa lạy vừa nói, "Bách Duy đáng chết! Vừa rồi đã dám lừa dối Nhâm tướng công."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Đại sư đứng lên! Có chuyện gì xin cứ cho biết!"

Bách Duy vẫn quì dưới đất, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, ngập ngừng nói, "Bách Duy vâng theo lệnh của Ngũ phu nhân canh ba đêm nay theo người xách đèn lồng đến một nơi nghe người chỉ thị kế hoạch rồi ghi lấy và cho chim bồ câu đưa đi..."

Kế đó, hắn thuật lại cho mọi người nghe những lời dặn dò trong tờ mật lệnh. Nhâm Vô Tâm nghe xong chỉ cúi đầu im lặng, chẳng nói chẳng rằng. Bách Duy ngừng một lát rồi nói, "Người ấy thật là thần bí và những mưu mô của hắn tất cũng quan trọng lắm. Nhâm tướng công không nên..."

Nhâm Vô Tâm chợt ngẩng đầu lên cười ha hả nói, "Xin đại sư hãy đứng lên, tại hạ còn có chuyện muốn nói!"

Bách Duy theo lời, từ từ đứng dậy, dáng điệu tỏ ra hết sức cung kính. Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Đại sư làm môn hạ cho nhà Nam Cung thế gia đã lâu, đã biết rằng vũ khí của họ ngoài võ công, dược vật, mỹ sắc ra, lại còn có những mưu mẹo giảo quyệt, cố làm ra vẻ thần bí để lòe người ta, khiến cho không ai dám manh lòng kia khác. Sau lưng Nam Cung thế gia còn có người giật dây, điều lạ không phải là không thể có được, nhưng việc này đại sư vâng lệnh truyền đi việc cơ mật, chỉ là do Điền Tú Linh cố ý dàn cảnh. Nếu quả có người chỉ thị cơ mưu thật thì hoặc giả đó chính là Điền Tú Linh cũng nên, đại sư không nên để cho họ lừa."

Bách Duy nghe xong lạnh toát cả người, lẩm bẩm, "Có lẽ việc trọng yếu như vậy tại sao các vị phu nhân không thân hành đi lấy mà lại giao cho người ngoài?"

Hắn lại thở dài nói tiếp, "Tài trí của Nhâm tướng công còn gấp trăm Bách Duy, vậy mà Bách Duy còn mơ màng muốn đánh bại tướng công để chiếm đoạt địa vị, thật là không biết tự lượng, ngu xuẩn vô cùng."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Chưa chắc! Đại sư chẳng qua là người trong cuộc nên không được sáng suốt, chứ tại hạ đã chẳng bao nhiêu lần bị bại về tay đại sư đấy ư?"

Bách Duy lạy sụp xuống đất, dập đầu cồm cộp. Nhâm Vô Tâm xua tay nói, "Đại sư làm gì thế?"

Bách Duy run run nói, "Bần tăng chỉ xin Nhâm tướng công nể mặt phái Thiếu Lâm tha mạng cho một lần. Nếu tướng công không hỏi đến lỗi trước, bần tăng nguyện đem chút hơi tàn vì thương anh kiệt mà tận tâm tận lực để chuộc tội."

Huyền Chân đạo trưởng cũng nói đỡ, "Nhâm tướng công! Chúng ta cũng nên nghĩ đến vị cao tăng đã tử nạn là Bách Tường đại sư mà mở cho hắn một con đường sống."

Nhâm Vô Tâm thở dài, vụt giơ tay lên đập vào bối tâm Bách Duy, Bách Duy rùng mình tiến lên một bước. Nhâm Vô Tâm nói, "Nói thật cho ngươi biết, nếu ngươi không trở lại thì lúc này đã chết ở dọc đường rồi."

Bách Duy ngập ngừng nói, "Bần tăng cũng đoán thế!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Ngươi là người giả dối đa nghi, vậy nên ta phải đành lấy cái đạo của ngươi để trị ngươi vậy."

Giữa lúc ấy chợt trong trạm Truyền thanh nổi lên một tiếng hú thật dài. Huyền Chân đạo trưởng cau mày nói, "Tiếng hú đưa đi xa như thế, ngoài vị cao nhân đó ra, tài của ai mà có cái công lực ghê gớm như vậy?"

Diệu Vũ nói, "Tiếng hú ngắn dài hình như có ý muốn cầu cứu?"

Nhâm Vô Tâm liền nói, "Thôi ta đi!"

Nhâm Vô Tâm nói xong, kéo tay Huyền Chân đạo trưởng rồi cả ba cùng trổ thuật khinh công chạy như bay về trạm, để mặc Bách Duy đứng ngơ ngẩn bên đường.

Hồi thứ năm mươi lăm

Còn mất chỉ bằng treo sợi tóc

Đang đi Diệu Vũ chợt chỉ tay về phía trước nói, "Cứ theo con đường ngang mé tay trái này là tới Trạm Truyền Thanh, sư phụ và tướng công cứ đi trước, đệ tử sẽ tới ngay."

Nói xong rẽ sang lối khác. Vô Tâm và Huyền Chân rảo bước tiến nhanh, nháy mắt đã tới đầu con đường ngang. Chợt thấy Diệu Không từ trong thềm một nhà hàng phố nhảy ra, thì thào nói, "Sư phụ và tướng công mau đi theo đệ tử."

Nói xong, nhảy lên nóc nhà, nằm xuống mái ngói mà bò. Hai người cũng vội nhảy theo. Trước cửa nha môn lúc này có tới mấy ngàn người tụ họp. Chỉ nghe văng vẳng từ phía xa có tiếng một người con gái đang nói léo xéo, nhưng vì xa quá nên chẳng nghe rõ gì cả.

Ba người bò tới nóc một toà nhà đối diện cửa nha môn, đã thấy một người đàn ông, thân thể khôi ngô, râu quai nón, cụt một bên chân và một bên tay đã nằm phục ở đó từ lúc nào.

Người đàn ông vừa trông thấy Vô Tâm, mừng như người vớ được cứu tinh, sẽ cất tiếng gọi, "Lão đệ..."

Vô Tâm cũng mừng rỡ reo, "Lão tiền bối..." chợt nhận thấy đôi mắt ông ta sáng quắc, đang đăm đăm nhìn về phía trước. Vô Tâm nhìn theo, chỉ thấy trong quảng trường người đứng chia ra làm ba nhóm, một nhóm bên đông, một nhóm bên tây, còn bọn người nhà Nam Cung thế gia thì đứng cả ở trên thềm.

Người đang nói là một thiếu phụ, thân hình hơi dong dỏng cao, mặt mũi thanh tú, phía sau có hai người con gái, người đứng bên trái tuổi hãy còn nhỏ, dung mạo tuyệt đẹp, mình mặc áo xanh, người đứng bên phải đầu bịt khăn xanh, mình khoác áo choàng đen, chân đi giầy đen đế mỏng, mặt còn phủ một lớp sương mù trắng loãng, trông tưởng như một u hồn, vừa từ cõi xa xăm hiện về. Bọn Liên Nhi và Ngô Tứ nương đều đứng phía sau ba người ấy.

Huyền Chân đạo trưởng rùng mình nói, "Trên mặt Lan Cô phủ một làn khói trắng, không biết đó là loại võ công gì?"

Người cụt tay chợt hỏi, "Còn thiếu nữ áo xanh kia là ai?"

Vô Tâm đáp, "Đó là Diệp Sương Y, con gái Diệp Trường Thanh, hiện giờ là thị tỳ cho Tứ phu nhân."

Thiếu phụ đứng giữa chính là Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh. Nàng đưa mắt nhìn khắp mọi người một lượt, rồi nói, "Các vị đây đều là bực hảo hán lịch lãm giang hồ, kiến văn sâu rộng, tất phải biết câu "có thức thời vụ mới là tuấn kiệt". Vậy nên mau mau quyết định, ai tình nguyện quy thuận Nam Cung thế gia, xin đứng về phía tây cho."

Một ông già hói đầu đứng bên phía đông giận dữ thét lớn, "Phu nhân đừng nói nhiều lời, chúng ta không phải là đồ tham sống sợ chết. Nam Cung thế gia có thủ đoạn tàn ác nhất, thâm độc nhất cứ việc đem ra mà thi hành..."

Phượng Trinh nói, "Bạch Đại tiên sinh đừng vội nóng! Thiếp vì thể lòng hiếu sinh của Thượng Đế, không nỡ tàn hại sinh linh, nên mới thành tâm khuyến cáo. Các vị nên nghĩ cho kỹ, lấy trứng chọi đá, có ích gì chăng?"

Huyền Chân giật mình nói nhỏ, "Bạch Đại tiên sinh? Có phải là người đứng đầu trong Cái Bang Ngũ Lão, mà đã thoái ẩn mấy chục năm nay rồi không?"

Vô Tâm vừa gật đầu, chợt lại thấy trong đám đông người, có hai ông già mặc áo gấm rảo bước đi sang phía tây. Bọn người phía đông thấy thế đều nổi lòng công phẫn, chửi rủa om xòm. Một người có cái giọng to như tiếng chuông nói rằng, "Long Môn Song Cẩu ý chí không kiên, anh em xông vào đánh chết đi!"

Hai ông già ấy đã nổi tiếng là Long Môn Song Kiệt, lúc này chợt lại biến thành "Song Cẩu". Phượng Trinh nói to, "Mỗi người đều có chí riêng, xin các vị yên tĩnh cho."

Một lúc lâu, tiếng ồn ào mới ngớt, hai ông già áo gấm khiếp vì uy thế quần hào, vội lẩn vào trong đám người phía tây mất dạng.

Bạch Đại tiên sinh thốt nhiên giơ cánh tay nói to, "Xin các vị hãy rút binh khí ra khỏi vỏ. Ai có ám khí gì cũng lấy ra cầm sẵn ở tay."

Đường lão thái cũng quát lớn, "Sinh tử tồn vong chỉ một trận này, xin các vị đừng nên vì lòng nhân từ mà do dự..."

Trong phút chốc, cung đã giương, kiếm đã rút ra khỏi võ, tình thế hết sức khẩn trương. Huyền Chân đạo trưởng vội nói, "Tình hình này Nam Cung thế gia tất sai Lan Cô xuất trận tàn sát, chúng ta phải xuống ngay để chặn đường cho quần hào rút lui mới được."

Vô Tâm vừa toan tung mình nhảy xuống, người cụt tay vội nắm lấy nói, "Lão đệ hãy tìm cách dụ Trần Phượng Trinh ra ngoài trấn, còn Lan Cô cứ để mặc ta ứng phó."

Vô Tâm sửng sốt chưa kịp hỏi, đã thấy Phượng Trinh quay lại định ra lệnh cho Lan Cô. Vô Tâm hoảng hốt vội hú lên một tiếng dài, băng mình nhảy xuống.

Phượng Trinh giật mình quay lại. Đồng thời trong đám đông người ở hai bên tả hữu cũng có những tiếng kêu "Nhâm Vô Tâm".

Phượng Trinh cố gắng định thần, mỉm cười hỏi, "Nhâm tướng công phong thái hơn xưa, chắc là quý thể đã bình phục?"

Vô Tâm chắp tay cười nói, "Đa tạ phu nhân hỏi thăm, tôi chỉ đau xoàng. Hiện thời đã khoẻ hẳn."

Phượng Trinh chỉ tủm tỉm cười, đưa mắt nhìn lên nóc nhà, chỗ chàng vừa nhảy xuống, nói, "Thiếp vẫn biết có cao nhân ẩn nấp đâu đây, không ngờ lại có cả Nhâm tướng công ở trong đó. Còn vị nào nữa, xin tướng công mời cả xuống đây, cho tiện thiếp được bái kiến."

Vô Tâm mỉm cười, quay lại giơ tay vẫy. Chợt thấy mé sau nóc nhà nhảy xuống ba bóng người. Đó là Huyền Chân đạo trưởng, và Diệu Không, Diệu Vũ. Phượng Trinh sợ hãi, đăm đăm nhìn Huyền Chân, hỏi, "Đạo trưởng có phải là Chưởng giáo chân nhân phái Vũ Đương không?"

Huyền Chân đạo trưởng cười ha hả, nói, "Bần đạo chính là Huyền Chân đây!"

Phượng Trinh kinh sợ nghĩ thầm, "Người này thần khí thanh sảng, rõ ràng là Huyền Chân. Cả Vô Tâm tinh thần sung túc thế kia, đâu phải người có bệnh? Công lao của Tú Linh không khéo lại thành nước lã ra sông mất!" Trong bụng nàng nửa mừng nửa sợ, nét mặt luôn luôn biến đổi, lẳng lặng không nói gì nữa.

Vô Tâm đưa mắt nhìn Lan Cô, thấy đôi mắt của nàng vẫn mơ mơ màng màng như bao bọc bởi một làn thuỷ tụ, dưới bóng trăng trông càng lắng vẻ huyền bí kinh hồn. Chợt lại nghe tiếng Phượng Trinh hỏi, "Còn vị cao nhân nào ở trên kia, sao còn chưa ra mặt?"

Vô Tâm gượng cười nói, "Phu nhân nói ai? Tôi không hiểu!"

Phượng Trinh nói, "Vừa rồi tôi đang định hạ lệnh sai Lan Cô hội chiến với chư vị anh hùng, chợt nghe có người hú lên một tiếng thật dài báo động. Tiếng hú nội lực rất hùng hồn, cao thấu tới mây xanh. Nếu không phải là tay cao thủ hãn thế thì làm sao có được cái công lực ấy? Vậy mà thiếp mời đi mời lại mãi, vị cao nhân ấy cũng nhất định không chịu hiện thân, thế là thế nào?"

Vô Tâm thản nhiên nói, "Phu nhân thử cho người đi tìm khắp bốn phía xem."

Phượng Trinh đáp, "Một vị cao nhân tuyệt thế nếu không chịu hiện thân, thì bọn tục tử phàm phu kia làm sao tìm ra được?"

Vô Tâm nói, "Vậy thì phu nhân nên thân hành đi tìm lấy."

Phượng Trinh đáp, "Thiếp chủ trì đại cuộc, đâu dám dời ra khỏi đây nửa bước."

Vô Tâm cau mặt nghĩ thầm, "Xem chừng ta cũng khó lòng dụ được nàng ra khỏi trấn!" Lại nghe Phượng Trinh thở dài nói, "Tướng công đã có ý thoái thác, tiện thiếp cũng không dám ép. Nhưng cục thế hôm nay liễu kết thế nào, xin tướng công cho biết."

Vô Tâm nghiêm nghị hỏi, "Nếu chúng tôi không quy hàng Nam Cung thế gia, thì phu nhân sẽ hạ lệnh cho Lan Cô ra trận quyết đấu với quần hào chớ gì?"

Phượng Trinh cau mày, bùi ngùi nói, "Đó là lệnh dụ của Tổ bà, quân lệnh nghiêm ngặt, thiếp không dám trái."

Chợt nghe Bạch Đại tiên sinh nói lớn, "Nhâm tướng công, tôi không tin sức mấy trăm người tụ lại mà không tiêu diệt nổi một người con gái đã mất trí hay sao?"

Đường lão thái cũng cương quyết nói, "Tất cả cùng liều mạng tiêu diệt bằng được "người độc" ấy đi. Thì nhà Nam Cung thế gia còn dựa vào đâu mà tác ác được nữa?"

Quần hào đều nhao nhao phụ hoạ, tiếng hò hét rầm rầm như sấm dậy, sát khí đằng đằng, đao gươm lấp lánh, khí thế cực kỳ hùng dũng.

Phượng Trinh nói, "Nhâm tướng công, tính mệnh của bọn người này toàn bằng một lời nói của tướng công mà quyết định. Tướng công đã biết võ công của Lan Cô thế nào rồi đó, không nên để hối về sau!"

Vô Tâm tự nghĩ, "Nếu tất cả mấy trăm người cùng nỗ lực tử chiến, may ra cũng có thể trừ được Lan Cô. Nhưng mấy trăm người kia cũng khó lòng thoát chết. Chừng ấy bên ta đã mất gần hết tinh nhuệ, mà nhà Nam Cung thế gia thì vẫn còn ba mươi sáu Thiên Cang, và bảy mươi hai Địa Sát, đại bộ phận còn án binh chưa động, ta muốn chống đối với họ, không biết còn phải chờ bao nhiêu lâu nữa?"

Còn đang nghĩ ngợi, chợt nghe có tiếng nói nhỏ như tiếng muỗi rót vào tai, "Lan Cô đã luyện thân thể thành kim cương bất hoại, trên đời này không có ai có thể giết được nàng đâu!"

Vô Tâm biết tiếng nói đó là của Phượng Trinh, bèn nhướng cao lông mày tỏ ý không tin. Kế lại nghe tiếng vừa rồi cất lên, "Tướng công đừng ngờ, Lan Cô là do Tổ bà bồi dưỡng nên, vậy mà công lực như bà cũng còn không giết nổi Lan Cô. Bên tướng công tuy đông người, nhưng chẳng qua chỉ là da thịt, chịu sao nổi được một chưởng."

Quần hào thấy Vô Tâm cứ đứng ngây người, không nói thì cho rằng chàng đã bị khiếp đảm vì uy danh của Lan Cô, nên người thì lên tiếng khích lệ, người thì cổ võ, người thì chê trách, om xòm như vỡ chợ. Bạch Đại tiên sinh nói to, "Nhâm tướng công, bọn lão hủ độn thế đã mấy chục năm. Vì tướng công đưa thư triệu tới, nên Cái Bang Ngũ Lão chúng tôi vội vã thu xếp hành trang phó ước. Nếu nay tướng công lâm trận rụt rè, chẳng kẻo làm chúng tôi thất vọng."

Nhâm Vô Tâm nghe xong mấy câu thống trách, bất giác sợ toát mồ hôi, đang không biết phân biệt làm sao. Đường lão thái lại bước lên cười nhạt nói, "Nhâm tướng công quý thể khiếm an, hãy nên nghỉ ngơi một lát. Việc ở đây đã có chúng tôi liệu lý."

Vô Tâm ấp úng nói, "Xin lão thái hãy nghe tại hạ một câu..."

Đường lão thái bĩu môi nói, "Nếu tướng công định khuyên lão thân đầu hàng Nam Cung thế gia thì không cần phải mở miệng."

Giữa lúc ấy chợt nghe có tiếng người kêu to, "Phái Vũ Đương xưa nay tiếng tăm vẫn lừng lẫy võ lâm, sao lúc này Huyền Chân đạo trưởng không lên tiếng cho một câu?"

Huyền Chân đạo trưởng sửng sốt đưa mắt nhìn Vô Tâm. Ông biết Vô Tâm sở dĩ không dám hành động liều lĩnh, tất phải có duyên cớ gì, tự mình cũng không sao giải thích nổi.

Ngô Nhân sốt ruột, đảo mắt nhìn khắp bốn phía, thốt nhiên kêu to, "Bách Đại đại sư đâu rồi? Sao tới lúc này còn chưa ra mặt?"

Cái tiếng "Bách Đại đại sư" hành hiệp trượng nghĩa, trong đám giang hồ không mấy người không biết, nên khi nghe Ngô Nhân gọi, quần chúng lại reo ầm lên, nhiều người còn lên tiếng gọi theo.

Vô Tâm từ bé đến giờ, chưa hề bị lâm vào trường hợp khó xử như thế bao giờ. Trong lúc bối rối, chàng không sao nghĩ ra được cách gì để giải quyết cho ổn thoả. Giữa lúc ấy chợt có tiếng quát to, "Trần Phượng Trinh có thủ đoạn gì thì cứ giở hết ra, kẻo lại trách là chúng ta cậy đông người bắt nạt."

Phượng Trinh ngẩng đầu lên trông thấy người vừa nói câu đó chính là Bạch Đại tiên sinh, bèn cau mày đáp, "Bạch Đại tiên sinh đừng coi thường mà gây ra mối tranh chấp. Nếu không thì khó lòng ngăn được một trường kiếp nạn tày trời!"

Đường lão thái nổi giận, vung tay lên, tức thì một bóng đen loằng ngoằng như luồng điện phóng ra. Quần hào thấy thế đều đồng thanh reo ầm lên, chỉ trong phút chốc, luồng sóng người từ phía đông ào ạt đổ xô lên thềm nhà địch quân.

Trần Phượng Trinh tái mặt, giơ ống tay áo phất mạnh, gạt đám độc sa của Đường lão thái, bay tản ra bốn phía. Rồi lập tức xoay mình, cánh tay ngọc khoa đi khoa lại trước mặt Lan Cô, miệng lẩm nhẩm đọc mấy câu ám ngữ.

Chỉ thấy tấm áo choàng đen phấp phới, thân hình Lan Cô đã như luồng gió tà tà bay vào đám đông, chân tay đều thu gọn trong tấm áo choàng, hình thái phiêu hốt, giống như một cái bóng ma.

Bọn người nhà Nam Cung thế gia lúc này đều đã lùi cả về phía sau. Vô Tâm sợ cuống lên, vội nhảy ra giang hai tay chắn không cho lớp người phía dưới tiến lên, miệng thì quát, "Đứng cả lại! Tất cả đứng lại!"

Tiếng quát của chàng nghe như tiếng sét đánh lưng trời, khiến cho mọi người đều cảm thấy đau chói màng tai. Nhưng đám người đứng hàng đầu lúc này đã như mũi tên đặt trên dây cung, không thể không bắn được. Bọn Cái Bang Ngũ Lão tâm ý tương thông, đồng thời cùng hét lên một tiếng và phóng ra một chưởng.

Tức thì một trận chưởng phong như băng ngàn bạt núi lao táp vào mặt Lan Cô, uy lực mãnh liệt kinh hồn. Cùng trong lúc ấy, Đường lão thái cũng phóng ra một nắm ám khí "Diệt thần tinh mang". Mỗi chiếc chỉ nhỏ bằng một sợi lông trâu. Loại ám khí này bà chỉ dùng trong những trường hợp đặc biệt. Đồng thời vị Hoàng Y Lạt Ma bé nhỏ cũng thi triển công phu "Mật tôn đại thủ ấn", dốc hết toàn lực phóng ra một chiêu.

Bấy nhiêu cao thủ tiếp tay nhau cùng đánh, lực lượng hung mãnh tuyệt vời. Dẫu người có vũ công đệ nhất đương thời cũng quyết không thể chống đỡ nổi. Không ngờ tấm thân hình bé nhỏ của Lan Cô chỉ sẽ nghiên đi một chút, rồi lại vùn vụt tiến lên, những mũi ám khí "Diệt thần tinh mang" ném vào mặt và người nàng, lại tự bật ra một bên. Quần hào thấy thế đều hoảng hốt đứng ngẩn người ra.

Thốt nhiên trong tấm áo choàng đen vươn lên một cánh tay trắng nõn như ngọc, khoa đi khoa lại, tức thì một luồng gió nhẹ nhàng theo cánh tay bay ra.

Nói thì chậm, nhưng kỳ thực tình trạng biến chuyển lúc ấy còn nhanh hơn luồng chớp. Vô Tâm vừa quát dứt lời, thì phía quần hào đã bắt đầu ra tay, và Lan Cô cũng đã trả đũa.

Vô Tâm vừa giận vừa sơ, không quản sống chết, vội dùng chiêu "Thiên địa câu phần" là một chiêu tuyệt nghệ của chàng đón đầu đánh tới.

Chợt nghe có nhiều tiếng rú thảm thiết và những tiếng "hự hự" kế tiếp nổi lên. Nhâm Vô Tâm, Bạch Đại tiên sinh, và vị Hoàng y Lạt Ma đều vội vàng lùi lại hai bước, xô phải bọn người sau lưng, ngã dúi cả vào một chỗ. Đồng thời mấy người như Âu Dương Đình, anh em Đinh thị, Đường lão thái, và Triệu Liệt Bàn đều bị bắn tung lên, rơi ra xa tới hai trượng.

Việc xảy ra chỉ trong nháy mắt, nên bọn người đi sau không biết, vẫn vô tình ào ạt tiến lên. Vô Tâm vừa đứng vững hai chân, lại lập tức quát vang lên như sấm, "Lùi lại, lùi lại mau!"

Chàng chợt thấy cổ hơi nong nóng, liền khạc ra được một búng máu tươi. Giữa lúc ấy lại nghe có tiếng quát, "Tránh ra, tránh cả ra!"

Rồi một luồng gió ào ào như bão cũng vừa cuốn tới. Trong nháy mắt tình thế chiến trường đã biến đổi một cách bất ngờ. Quần hào vừa rút lui được mấy bước, lại đứng sững cả lại. Mấy người hăng hái xông lên hàng đầu lúc nãy, lúc này miệng cũng đều câm như hến, không dám nho nhoe. Một đám đông hàng ngàn người mà đều im lặng như tờ, không hề có một tiếng động.

Vô Tâm tay trái quài ra phía sau, ấn mạnh vào bối tâm, tay phải đưa ra phía trước, xa xa chụp lấy thân hình Lan Cô. Đồng thời một người đàn ông cụt một tay và một chân, mặt trùm mảnh khăn đen, ngón tay đặt trước ngực luôn luôn khuyên thành một đường tròn. Hai người bốn con mắt sáng như điện, đăm đăm nhìn vào mặt Lan Cô không chớp. Và hai lòng bàn tay cũng như úp chụp lấy nàng, thần tình hết sức ngưng trọng, làm cho bọn người xung quanh đều hồi hộp nín thở.

Lan Cô đứng cách hai người chừng tám, chín thước, hai tay giấu trong chiếc áo choàng, đôi mắt mơ màng. Lúc này tự nhiên nàng sáng quắc như điện, cứ trông tấm áo choàng luôn luôn rung động, đủ thấy cô ta có thể muốn ra tay lúc nào cũng được.

Thốt nhiên Trần Phượng Trinh lăn mình nhảy tới, đứng bên Lan Cô, tay phải đặt hờ lên ngực nàng, rồi quay lại hỏi người cụt tay, "Các hạ là ai? Sao mãi bây giờ mới xuất hiện? Và tại sao không dám cho mọi người thấy mặt?"

Người đàn ông làm như không nghe tiếng, chẳng nói gì cả. Phượng Trinh lại hỏi, "Ngón "Hỗn nguyên vô cực thuỷ" là một môn bí học của nhà Nam Cung thế gia chúng tôi, từ xưa đến nay chỉ truyền cho con trai, không truyền cho con dâu. Tôi tuy chưa luyện qua, nhưng cũng biết rõ thế chưởng."

Nói đến đây, giọng nàng chợt run run, "Các hạ là ai? Nếu không phải là thân thích của Nam Cung thế gia thì sao lại sử dụng được chưởng thức đó?"

Người cụt tay vẫn giả câm giả điếc, mặc nàng muốn hỏi gì thì hỏi. Phượng Trinh càng lúc càng bị kích động, nàng không biết làm thế nào, đành quay lại hỏi Vô Tâm, "Nhâm tướng công, vị anh hùng này là ai?"

Vô Tâm lắc đầu, "Tại hạ cũng không biết. Phu nhân cứ hỏi lấy thì hơn."

Phượng Trinh sửng sốt một hồi, rồi lại hỏi người cụt tay, "Các hạ nếu quả là có bà con với Phượng Trinh, thì xin nói rõ cho biết, kẻo tiện thiếp vì không biết mà lỡ xúc phạm tới bực trưởng bối chăng?"

Diệp Sương Y đứng trên thềm thấy tình hình như vậy, vội bước rảo tới bên Phượng Trinh, ghé tai nói nhỏ, "Phu nhân nên làm thế này..."

Phượng Trinh chợt động sắc mặt, nhìn người cụt tay hỏi, "Vị anh hùng này có phải là Tằng tổ ông của Phượng Trinh không?"

Nàng vừa hỏi vừa đăm đăm nhìn thẳng vào mặt người cụt tay. Chờ một lúc không thấy phản ứng, lại hỏi, "Các hạ có phải là Tổ Ông của Phượng Trinh chăng?"

Người đàn ông vẫn lẳng lặng, chẳng nói chẳng rằng. Phượng Trinh lại hỏi, "Hay người là công công của Phượng Trinh?"

Nàng nói tới đấy mắt đã rướm lệ, giọng đã hơi nghẹn ngào. Lúc này không những bọn người trong Nam Cung thế gia hồi hộp đến cực điểm, mà quần chúng cũng ngơ ngác, hoang mang, quên cả thực tại.

Người cụt tay tâm thần hình như đã hơi rối loạn, bàn tay đặt trước ngực cũng không còn giữ nguyên được thế cũ nữa. Nhưng Lan Cô lại không thấu hiểu tình huống đó, đôi mắt hung dữ của nàng đăm đăm nhìn bàn tay run run của Phượng Trinh chắn hờ trước ngực, nhấp nhổm chỉ muốn xông ra.

Phượng Trinh nghẹn ngào hỏi, "Các hạ có phải là Nam Cung Nghị, phu quân của Phượng Trinh chăng?"

Người đàn ông thốt nhiên khóc oà lên, đưa bàn tay ôm lấy mặt rồi vùng chạy đi như một người điên.

Phượng Trinh đứng lặng người đi, sắc mặt tái nhợt, nước mắt tuôn như suối, thờ thẫn trông theo bóng người đàn ông mỗi lúc một xa dần. Chợt nghe tiếng Diệp Sương Y kêu to, "Phu nhân! Đuổi theo!"

Phượng Trinh lúc này mới bàng hoàng như người đang mê sực tỉnh, lập tức băng mình chạy theo, vừa chạy vừa gọi, "Nghị kha! Nghị kha!"

Tiếng gọi chưa dứt, người đã bay xa tới mấy chục trượng.

Vô Tâm kinh ngạc, tự nghĩ, "À, thì ra người này là Nam Cung Nghị, đệ tứ chủ nhân của Nam Cung thế gia! Nhưng sao lại lưu lạc đến nỗi này?" Chàng còn đang mải suy nghĩ, chợt nghe Diệp Sương Y kêu thất thanh, "Nhâm Vô Tâm!"

Chàng giật mình vừa ngẩng đầu lên, đã thấy một bóng đen xông tới trước mặt, rồi một bàn tay thon nhỏ, trắng muốt như ngọc phóng ra, nhanh hơn luồng chớp.

Vì việc Nam Cung Nghị làm phân tán sự chú ý của mọi người, không ngờ Phượng Trinh thốt nhiên bỏ đi, Lan Cô không bị khống chế, bèn lại xông lên tấn công Vô Tâm, khí thế cực kỳ dũng mãnh.

Vô Tâm hoảng hốt, không kịp suy nghĩ, vội ngã mình xuống sát mặt đất chuồn ra, nhưng trong lúc ấy, chợt nghe nhiều tiếng rú thảm thiết nổi lên. Năm người đứng phía sau chàng đã bị bắn tung lên trời rồi rớt phịch xuống đất, máu tươi phun ra như mưa, chết ngay lập tức.

Huyền Chân đạo trưởng sợ hãi, vội rút kiếm ra, nhằm Lan Cô đánh tới. Một vị Hoàng Y Lạt Ma thân hình vừa khô vừa gầy cũng nhảy ra, thét vang như sấm, năm ngón tay cong lên như chiếc thúng, úp chụp lấy Lan Cô.

Tay phải ông ta tấn công định, tay trái lại nắm chặt lấy tay phải của một vị Lạt Ma khác. Vị Lạt Ma này cũng lại nắm cánh tay một vị nữa. Tất cả hơn mười vị Lạt Ma, người nọ nắm tay người kia, dùng phép Mật tôn "Thiên du tiếp mệnh" hợp lực chống địch.

Chỉ thấy Lan Cô xoay mình một cái, cánh tay vừa vung lên đã cướp ngay được thanh bảo kiếm, còn Huyền Chân đạo trưởng lại bật lùi về phía sau mấy bước.

"Vút" một tiếng, cánh tay trắng nõn của Lan Cô phóng luôn một chưởng vào bàn tay của vị Lạt Ma, chỉ nghe "hự hự" liên thanh, rồi mười mấy vị Lạt Ma giống như một con rồng vàng lật nhào cả xuống đất.

Vô Tâm thấy thế, lại thét vang lên như sấm, "Tránh ra, chạy mau không chết cả bây giờ!"

Rồi chàng vung hai tay lên xông tới. Bạch Đại tiên sinh cũng bị thương như Vô Tâm, thấy Lan Cô hung dữ quá, không ai đương nổi, máu nóng sôi lên bèn cũng cúi đầu húc vào Lan Cô.

Ông ta đã luyện được công phu "Du đầu quán đình", một khi đã húc đầu vào ai, thì dù đối phương mình đồng da sắt cũng không sao chống nổi. Nhưng Lan Cô chỉ nhẹ nhàng vung tay đập vào sau gáy Bạch Đại tiên sinh, luồng chưởng phong âm những phóng ra từ trước đã nhằm giữa ngực Vô Tâm đánh tới.

Vô Tâm vội quát to, "Các vị trốn mau!"

Rồi chàng né người tránh thoát chưởng phong của Lan Cô, đồng thời cũng phóng ra một chưởng.

Chỉ nghe "bình" một tiếng, đầu Bạch Đại tiên sinh đã bị vỡ ra, ngã lăn xuống đất chết giấc.

Chiêu "Chư tiêu bàn đạo" của Vô Tâm phóng ra vừa rồi, chính là một chưởng pháp huyền diệu nhất trong sở học của chàng. Tay phải đánh lên không, tay trái đánh vào vai Lan Cô. Nhưng chàng chợt cảm thấy bàn tay hơi run, rồi một luồng sức mạnh âm nhu đưa ngược từ cánh tay lên, lập tức cánh tay mất hết tri giác, buông rơi hẳn xuống.

Huyền Chân đạo trưởng đã vớ được một thanh kiếm của người khác, liền gạt mọi người ra kêu to, "Người con gái này không thể lấy sức địch nổi, các vị đạo hữu hãy nên mau mau trốn đi!"

Quần hào đã có ý muốn quyết liều một chết, nhưng thấy Lan Cô khí thế hùng dũng quá, võ công như Bạch Đại tiên sinh và Nhâm Vô Tâm còn không đương nổi, huống hồ người khác? Tuy nhiên họ cũng không chịu rút lui, còn muốn ở lại để đợi dịp.

Bọn Hoàng Y Lạt Ma đã bị thương rồi vẫn còn xông lên. Cái Bang Ngũ Lão còn có tứ lão cũng hăng hái sấn vào. Vô Tâm đã xả mệnh ngăn cản, rốt cuộc trong tứ lão lại chết thêm mất anh em họ Đinh. Thốt nhiên lại nghe tiếng Ngô Nhân kêu, "Chúng ta đánh không lại "người độc" thì trước hết hãy giết cho hết một lũ chó lợn môn hạ của Nam Cung thế gia đi đã!"

Nói xong cầm dao xăm xăm bước lên thềm. Quần hùng đang giận dữ đầy lòng, nghe Ngô Nhân nói đều reo ầm lên chạy theo, ào ào như một luồng thác cuốn.

Lan Cô võ công tuy cao, nhưng trí khôn đã mất, không biết ứng biến, thấy tình hình thay đổi một cách bất ngờ, bất giác ngẩn người ra, chân tay cũng vì thế trở nên luống cuống.

Bọn Vô Tâm, Huyền Chân, và mười mấy vị Lạt ma đều là những tay võ học uyên thâm, thấy thế không dám bỏ lờ cơ hội, cùng đồng thời giơ chưởng phóng ra.

Lan Cô sắc mặt có vẻ sợ hãi, cầm thanh kiếm cướp được của Huyền Chân, nhằm chưởng thế của Vô Tâm chém tớ, còn chiêu thức của các người khác thì mặc kệ không lý gì đến.

Lan Cô một mình chống cả ba mặt cường địch, mà vẫn không hề nao núng. Chợt nghe "soạt" một tiếng, Vô Tâm thân pháp hơi chậm một chút, bị Lan Cô túm lấy cổ áo xé toang ra, mảnh áo bị gió bay tung lên, để phơi cả ngực ra ngoài. Huyền Chân đạo trưởng kinh sợ vội kêu, "Nhâm tướng công chạy đi, còn giữ tấm thân hữu dụng về sau..."

Nói chưa dứt lời, đã thấy Lan Cô thần tính chợt biến, rồi như một người điên, tay trái xua lấy xua để, gạt bọn Huyền Chân lùi ra xa, tay phải nhanh như chớp nắm lấy Vô Tâm. Vô Tâm kinh sợ, tay trái dùng chiêu "Tiên kiếm trảm long" chém mạnh vào uyển mạch của Lan Cô, tay phải dùng chiêu "Phật tại tâm đầu" nhằm ngực Lan Cô đánh tới.

Hai chiêu ấy uy lực hung mãnh dị thường, nhưng Lan Cô hình như không còn biết gì nữa, tay phải nắm lấy cổ tay trái Vô Tâm, còn tay trái thì lại nắm lấy cổ tay phải của chàng, không còn ra chưởng pháp gì cả.

Vô Tâm thấy thế mừng lắm, vội hạ thấp chưởng thế xuống, nhanh như chớp đánh ra.

Chỉ nghe một tiếng rú kinh hoàng, bàn tay của Vô Tâm đã in lên ngực Lan Cô, đánh bật nàng lên khỏi mặt đất, bay xa tới tám thước, rơi xuống trước mặt Triệu Liệt Bàn.

Lan Cô thần tính đã biến đổi một cách đột ngột, thương tích tuy hình như không nhẹ, nhưng hai tay vẫn khư khư nắm chặt lấy cổ tay Vô Tâm, nhất định không buông.

Triệu Liệt Bàn quát to một tiếng, giơ tay phóng một chưởng vào lưng Lan Cô. Lan Cô lập tức ngã chúi xuống. Nhâm Vô Tâm bị nàng nắm mất uyển mạch, công lực đã mất, đành phải theo đà tay của nàng xô đi kéo lại, không chống cự được nữa.

Huyền Chân đạo trưởng thấy thế vội rút kiếm xông lên. Vị Hoàng Y Lạt Ma cũng đánh bồi thêm một chưởng. Lan Cô kéo Vô Tâm nhảy xa ra tới ba trượng. Huyền Chân kêu to, "Các vị mau đuổi theo, đừng để Lan Cô trốn mất!"

Nhưng Lan Cô đã buông tay phải ra, "soạt" một tiếng, lại xé thêm một mảnh vạt áo của Vô Tâm, hai mắt sáng quắc, trừng trừng nhìn vào dưới vú bên trái của chàng.

Trong thoáng chốc, thân thể nàng bỗng run lẩy bẩy, trên khuôn mặt bao phủ một lớp sương mù, chợt ánh lên những nét nghi ngờ, sợ hãi. Vô Tâm thấy mình cởi trần trùng trục, bất giác vừa sợ vừa thẹn, bèn rút mạnh tay phải về, vung chưởng đánh ra.

Lan Cô hình như thốt nhiên gặp một chuyện gì cực kỳ nghi nan khó giải, nên cứ đứng đờ người như ngây như dại, đến nỗi không biết là Vô Tâm đang phóng chưởng đánh mình. Vô Tâm đã giơ tay lên, chợt nhận thấy thần tính của Lan Cô có vẻ khác lạ, vội dừng tay lại, không dám đánh nữa.

Bọn Huyền Chân đạo trưởng cũng vừa ồ ạt kéo tới, kẻ kiếm người đao đều nhằm cả vào Lan Cô mà đánh. Chợt nghe Diệp Sương Y quát, "Dừng lại!"

Bọng Huyền Chân cũng vừa kịp nhận thấy Lan Cô và Vô Tâm đang đối mặt nhìn nhau, ngây người như hai pho tượng, chẳng nói chẳng rằng, thì đều sửng sốt đứng ngẩn người ra, không tiến lên nữa.

Diệp Sương Y cũng vừa chạy tới, thấy tình hình như vậy cũng kinh ngạc, không hiểu ra sao. Thốt nhiên nàng trông thấy mé dưới vú bên trái của Vô Tâm có một nốt đo đỏ lớn bằng đồng tiền, mà đôi mắt mất thần của Lan Cô thì cứ đăm đăm ngó vào chỗ ấy.

Trong óc Diệp Sương Y chợt loé lên một tia sáng, liền nhẹ nhàng hỏi, "Lan Cô có biết cái nốt đỏ ấy không?"

Lan Cô không đáp. Sương Y lại hỏi, "Hắn họ Nhâm, tên gọi Vô Tâm... Nhâm Vô Tâm. Lan Cô có quen không?"

Lan Cô vẫn lẳng lặng, mặt lộ vẻ đăm chiêu. Bao nhiêu cặp mắt xung quanh đều đổ dồn cả vào mình nàng. Trong ánh sáng lờ mờ của buổi sớm tinh sương, đây đó đều im lìm như một cõi chết.

Thốt nhiên Vô Tâm mở to mắt, dịu giọng đọc, "Thị nhâm thị phụ, Ngã nhâm ngã liễn, Vô phạm vô ẩn, Tâm tang tâm niên!"

Quần chúng nghe chàng đọc, đều ngẩn người ra, không ai hiểu là chàng nói câu gì. Một vị Lạt Ma sẽ hỏi Huyền Chân, "Đạo trưởng có biết Nhâm tướng công nói câu ấy là ý thế nào không?"

Huyền Chân nghĩ một lát rồi nói, "Hai câu đầu là chữ ở trong Kinh Thi, có ý làôm , làcõng. Hai câu sau là chữ trong Lễ Ký, nói về cái lễ học trò thờ thầy. Bốn câu này ghép làm một, hình như lời của một người dặn dò sư phụ trông nom một đứa trẻ con, lại dặn dò đứa trẻ phải hiếu thuận với sư phụ..."

Vị Lạt Ma nói, "Bốn câu đó lời lẽ ôn tồn tha thiết, ý tứ lại uyển chuyển thê lương, nhất định phải là lời một người đàn bà, mà rất có thể là mẹ của đứa bé?"

Huyền Chân gật đầu khen phải. Lúc này Diệp Sương Y thấy Lan Cô vẫn đứng ngây người ra, không động, bèn nhắc lại mấy câu của Vô Tâm, "Thị nhâm thị phụ, Ngã nhâm ngã liễn, Vô phạm vô ẩn, Tâm tang tâm niên. Lan Cô có nghe thấy bốn câu văn ấy bao giờ không?"

Mọi người đều nín thở, hồi hộp chờ nghe động tĩnh. Một lát sau mới thấy Lan Cô đôi môi mấp máy, lẩm bẩm nói một mình như người mê ngủ. Mọi người lắng tai nghe thì ra nàng đang nhẩm lại mấy câu thơ đó.

Hồi thứ năm mươi sáu

Biến đổi cơ trời

Nhâm Vô Tâm sắc mặt nhợt nhạt, mồ hôi vã ra như tắm, thân thể run run. Đột nhiên Lan Cô như vừa bừng tỉnh cơn mê, kinh sợ kêu lên, "Nhâm Vô Tâm!"

Nhâm Vô Tâm lạnh toát cả người, hai chân mềm nhũn sụp quỵ xuống đất. Lan Cô giơ tay ôm lấy vai chàng, ấp úng gọi, "Nhâm Vô Tâm! Nhâm Vô Tâm!"

Rồi từ trong mắt bồ câu từ từ tuôn rơi hai dòng lệ rớt xuống má Nhâm Vô Tâm. Nhâm Vô Tâm nước mắt cũng tuôn rơi như suối.

Hai người khóc lóc một hồi, Nhâm Vô Tâm đột nhiên đứng dậy ôm choàng lấy Lan Cô khóc không thành tiếng.

Toàn trường im phăng phắt ngoài tiếng nức nở của Nhâm Vô Tâm ngoài ra không còn nghe thấy gì nữa.

Thời gian lặng lẽ trôi đi một lúc khá lâu, chợt nghe có người kêu lên một tiếng kinh hoàng, quần hào ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy mái tóc mây xanh biếc của Lan Cô đang từ từ chuyển sang màu xám, rồi lại từ màu xám chuyển biến thành bạc phơ. Chỉ trong nháy mắt, một thiếu nữ đã biến thành một bà già. Và Nhâm Vô Tâm đau đớn kêu lên, "Mẹ!" Tiếng gọi ai oán đau thương đó chẳng khác gì tiếng sét đánh lưng trời làm cho Lan Cô giật mình bừng tỉnh. Bao nhiêu những nỗi buồn vui, hờn giận của người đời trong nháy mắt đã hằn lên nét mặt của Lan Cô tạo thành những vết da nhăn nheo, nhăn nhúm. Nhâm Vô Tâm vẫn nghẹn ngào gọi, "Mẹ! Mẹ!"

Lan Cô nhắm mắt lại, hai dòng nước mắt vẫn từ từ lăn qua gò má chảy xuống dưới cằm rồi nhỏ xuống gương mặt khao khát tình mẹ của Nhâm Vô Tâm.

Lại một lúc nữa, Lan Cô mở to mắt đăm đăm nhìn Nhâm Vô Tâm một cách hiền từ âu yếm, bao nhiêu vẻ hung dữ thần bí vừa rồi đã tan biến mất. Lan Cô bây giờ và Lan Cô cách đây một giờ đã hoàn toàn thành hai người khác hẳn.

Lan Cô dùng tay trái vuốt tóc Nhâm Vô Tâm, tay phải chỉ về phương Tây nói, "Hài tử, mau tiến thẳng về Nam Dương, phá "Mê hồn lao" cứu những kẻ vô tội bị hại, đồng thời hủy diệt cả Nam Cung thế gia báo thù cho những người đã khuất và rửa hận cho mẹ."

Nhâm Vô Tâm thấy Lan Cô hình như có ý muốn bỏ đi bất giác sợ cuống lên, vội nói, "Mẹ đừng bỏ con. Chúng ta cùng đi Nam Dương một thể nghe mẹ."

Lan Cô lắc đầu nói, "Mẹ còn có việc cần, con cứ yên tâm đi đi. Đã có biết bao nhiêu tay cao thủ, đồng đạo võ lâm đây giúp đỡ, mẹ cam đoan thế nào con cũng thành công."

Nhâm Vô Tâm càng lo sợ cuống quít, năn nỉ, "Xin mẹ hãy ở lại với con vài ngày, cho con được thỏa lòng khao khát."

Lan Cô lắc đầu cười gượng, "Mẹ đi với con không tiện..."

Nói đến đây đột nhiên quay lại quát, "Ai dám chạy trốn?"

Mọi người nhìn lên, thấy Diệp Sương Y và bọn người nhà Nam Cung thế gia đang lùi dần về phía sau hình như có ý muốn bỏ trốn. Âu Dương Đình vội quát, "Chúng ta động thủ mau, đừng để họ bỏ trốn."

Nói xong xông lên trước, quần hào đều reo ầm lên chạy theo. Diệp Sương Y kinh sợ vội cầm kiếm xông lên đối đầu Âu Dương Đình đánh tới. Chợt lại nghe tiếng Diệu Vũ kêu lên, "Hai vị sư huynh mau mau đi theo tiểu đệ."

Diệu Pháp, Diệu Không từ từ tiến lên, cả ba cùng nhằm gã đại hán mặt vàng xông tới. Bọn anh em Ngô Nhân thì vây lấy Tứ Nương và Liên Nhi. Quần hào ào ạt kéo vào vây bọn Nam Cung thế gia vào giữa.

Chợt nghe một tiếng rú khủng khiếp, một ông già áo xanh vung kiếm đã chém đứt cánh tay phải của Hứa Nhị Nương, máu tươi phun ra như suối.

Nhâm Vô Tâm vội kêu lên, "Xin các vị lưu ý, chúng ta lấy nhân nghĩa hành sự, đừng nên giết hại quá nhiều sinh mạng, chỉ nên bắt sống là hơn."

Lan Cô mỉm một nụ cười hiền từ nói, "Việc ở đây con tự đảm đang lấy. Mẹ đi đây!"

Nói xong thân hình đã nhanh như một luồng chớp nhảy ra xa hơn một trượng, đoạn quay lại vẫy tay nói, "Bất cứ lúc nào con nhớ đến mẹ là mẹ cũng sẽ ở bên con."

Dứt lời, chớp mắt đã không thấy đâu nữa. Nhâm Vô Tâm sửng sốt đứng ngây ra một lúc. Chợt nghe phía sau có những tiếng la hét om sòm, chàng bỗng giật mình nhớ tới nhiệm vụ, bèn vội vàng xông vào đâm chém nhau, hai tay vung lên, đi đến đâu người ngã đến đó.

Chỉ trong chốc lát, bọn người nhà Nam Cung thế gia đã nằm la liệt khắp mặt đất, chỉ còn sót lại mấy người như Diệp Sương Y, Liên cô nương và gã đại hán mặt vàng là vẫn còn đứng vững được ở giữa vòng vây.

Tình thế chiến trường đã rõ, Âu Dương Đình mới chợt nhớ đến bọn người bên phía Tây lúc này đã trốn đâu mất quá nửa, liền chỉ tay vào một gã con trai mặt mũi trắng trẻo, gọi to, "Ngũ đệ đâu? Ra đánh chết tên dâm tặc kia cho ta."

Triệu Liệt Bàn dạ một tiếng to rồi săm săm đi tới, Ngô Nhân kêu gầm lên, "Bọn ấy toàn là những thằng chó chết, anh em xúm lại đánh chết hết đi."

Lại có những tiếng hét khác reo ầm lên phụ họa, "Phải đấy! Đánh chết hết đi!"

Tức thì đám đông lại ào ào kéo về phía Tây, khí thế cực kỳ hung mãnh. Bọn người phía Tây đều là những phường hiếu sắc, hâm mộ quyền thế. Lúc này tuy thấy bọn tay sai của Nam Cung đã bị đánh giết tơi bời nhưng vẫn nuôi một hy vọng là thế nào Nam Cung thế gia cũng phái viện binh tới, và mắt trông Liên Nhi vẫn còn đó, ảo mộng chưa tan vẫn chưa chịu chạy.

Bây giờ đột nhiên lại thấy quần hào ào ạt kéo đến, ai nấy đều hồn vía lên mây, tay chân luống cuống, mặt mày xanh mét, hoảng hốt đâm đầu bỏ chạy.

Triệu Liệt Bàn hét vang như sấm, chỉ chạy vài bước là đã đuổi kịp chàng thiếu niên mặt trắng, lập tức phóng ra một chưởng. Chỉ nghe một tiếng "huỵch", gã thiếu niên đã vỡ óc ra làm ba bốn mảnh, lập tức chết ngay, miệng chưa kịp rú lên một tiếng.

Bọn Trường Bạch Tứ Hổ và Quan Đông Phá Thất Tiên đã xông vào trong đám đông người, vung quyền múa chưởng đấm đánh tơi bời. Tiếng gầm thét, kêu khóc vang trời dậy đất.

Huyền Chân đạo trưởng thấy thế trong bụng không nỡ nên nói với Âu Dương Đình, "Bọn người kia tuy khả ố đáng ghét, nhưng nếu giết hết đi thì e quá tàn nhẫn. Các hạ nên triệu lệnh đệ và các vị bằng hữu về, tha cho chúng một lần để chúng tự hối cải là hơn."

Âu Dương Đình đưa mắt nhìn ra thấy thây người nằm ngổn ngang khắp mặt đất, mà bọn Triệu Liệt Bàn thì đã đuổi ra tới ngoài trấn, liền lập tức tụ khí vào đan điền, hú lên một tiếng thật dài.

Thừa lúc mọi người không ai để ý, gã đại hán mặt vàng vội lao mình nhảy về phía Tây Bắc.

Âu Dương Đình vội quát, "Chạy đi đâu?" Rồi nhanh như cắt nhảy tới đón đầu đánh ra một chưởng. Gã mặt vàng cũng vung tay đón đỡ, chỉ nghe "binh" một tiếng, Âu Dương Đình thân hình hơi lảo đảo, còn gã mặt vàng thì bị lùi về phía sau quát to.

Âu Dương Đình quát to, "Ta bảo ngươi biết điều thì đứng yên một chỗ, ngươi có nghe thấy không?"

Gã áo vàng đưa mắt nhìn quanh bốn phía thấy toàn là những cặp mắt sáng như điện đều đăm đăm chiếu vào mặt mình, biết có chạy cũng không thoát, đành lại quay đầu lủi thủi bước về.

Lúc này bọn người đuổi theo quân địch đã lục tục trở về. Quần áo người nào cũng đầy máu nhưng sắc mặt thảy đều hớn hở như cánh quân vừa toàn thắng, kéo vào chia ra hai bên tả hữu.

Nhâm Vô Tâm tiến lên một bước nói với gã đại hán mặt vàng, "Các hạ là ai? Xin bỏ tấm mặt nạ ra cho mọi người thấy mặt."

Gã đại hán lạnh lùng đáp, "Vô danh tiểu tốt, hà tất phải phô bày tấm mặt thật ra làm gì."

Nhâm Vô Tâm nghiêm nghị nói, "Không nên xúc phạm tới lòng đang căm phẫn của quần hào, các hạ phải nên biết điều một chút."

Gã đại hán đáp, "Muốn giết muốn mỗ tùy ý, tại hạ quyết không ân hận gì hết."

Âu Dương Đình giận dữ hét lớn, "Đồ chuột nhắt ngu xuẩn, ngươi muốn giở chứng à?"

Nói xong giơ tay phóng ra một chưởng. Gã đại hán né người tránh thoát, tay trái lại vươn lên nắm lấy uyển mạch đối phương, tay phải chia ra những ngón tay rắn như mũi kích đánh vào trọng huyệt "kỳ môn" của Âu Dương Đình. Khí thế nhanh như điện, dũng mãnh dị thường.

Triệu Liệt Bàn thấy thế nhảy sấn vào nói, "Đánh nhau với lũ chuột này làm chi cho mất thì giờ, sao không liễu kết hắn đi cho rồi."

Vừa nói vừa nhằm gã mặt vàng đánh ra một chưởng. Gã mặt vàng xoay người giơ chưởng đón, miệng còn cười nhạt, "Cái Bang Ngũ Lão danh tiếng lẫy lừng, không ngờ chỉ toàn là đồ tiểu nhân, cậy đông thủ thắng."

Triệu Liệt Bàn lạnh lùng đáp, "Nếu ngươi là hảo hán đã chẳng phải giấu mặt đi."

Nói vừa dứt lời lại phóng thêm một chưởng. Âu Dương Đình quát to, "Nằm xuống."

Gã mặt vàng chưa kịp hóa giải chưởng phong của Triệu Liệt Bàn đã thấy sau lưng tê dại, kình lực mất hết, lập tức ngã xuống đất.

Triệu Liệt Bàn tay trái lôi hắn dậy, tay phải lột chiếc mặt nạ ra. Quần hào đứng chung quanh bất giác đồng thanh kêu lên một tiếng kinh hoảng.

Thì ra gã đại hán đó vầng trán vào đôi mắt đã có nếp nhăn, râu tóc đều cạo nhẵn, mắt sáng như điện, ức chừng tuổi vào khoảng bảy mươi.

Huyền Chân đạo trưởng rẽ mọi người ra, tiến lại gần nhìn kỹ một lúc rồi kinh sợ hỏi, "Các hạ có phải là Thượng Tam Đường không?"

Người đàn ông mặt đỏ tưng bừng, nhắm nghiền mắt lại chẳng nói chẳng rằng. Tức thì bọn người đứng xung quanh đều nghiêng đầu ghé tai xì xào bàn tán, có kẻ còn thốt ra những tiếng thở dài, chép miệng cảm thán ngậm ngùi.

Cũng nên biết là Thượng Tam Đường giao du rất rộng, tính tình hòa nhã, không hề cạnh tranh với ai nên trong võ lâm vẫn được nhiều người kính mến. Lúc này đột nhiên thấy ông ta biến thành môn hạ Nam Cung thế gia ai mà không sửng sốt?

Âu Dương Đình trừng mắt quát to, "Thượng Tam Đường! Ngươi còn nhận ra lão phu không?"

Thượng Tam Đường mở mắt ra, nhắm mắt lại lạnh lùng đáp, "Sao không nhớ!"

Âu Dương Đình nổi giận nói, "Vậy tốt! Thần trí ngươi vẫn còn tỉnh táo phải không?"

Thượng Tam Đường chỉ hững hờ đáp, "Cố nhiên!"

Triệu Liệt Bàn nổi giận đùng đùng, hét vang như sấm, "Vậy mà ngươi cam tâm làm khuyển mã cho Nam Cung thế gia à?"

Thượng Tam Đường lạnh lùng nói, "Việc đã thế này nói cũng vô ích. Nếu các ngươi nghĩ tình cố cựu thì ban cho một nhát, lão hủ cảm kích vô cùng."

Âu Dương Đình lạnh lùng cười nói, "Chết đâu mà dễ thế."

Nói xong giơ tay lên, Nhâm Vô Tâm vội giữ lại nói, "Xin lão tiền bối bớt giận, tại hạ còn muốn hỏi hắn vài câu."

Âu Dương Đình lẳng lặng đứng tránh qua một bên.

Nhâm Vô Tâm nói với Thượng Tam Đường, "Thượng lão tiền bối! Theo tại hạ đoán thì lão tiền bối sở dĩ phải đầu hàng Nam Cung thế gia chỉ là sự vạn bất đắc dĩ, có một tâm sự riêng không thể nói ra được, phải không?"

Thượng Tam Đường mở mắt nhìn Nhâm Vô Tâm một lúc, đột nhiên thở dài nói, "Lão hủ chẳng có ẩn tình gì đâu, chẳng qua là bị điểm vào bốn bí huyệt mất hết trí nhớ..."

Nói đến đây chợt im bặt, khóe mắt từ từ chảy ra hai giọt lệ nóng hổi. Nhâm Vô Tâm chắp tay vái Âu Dương Đình rồi nói, "Tại hạ cả gan, dám xin lão tiền bối tha cho người này."

Âu Dương Đình do dự một lúc rồi nói, "Tướng công đã bảo, lão hủ đâu dám không thuận."

Nói xong lập tức giơ tay giải huyệt cho Thượng Tam Đường, đoạn lạnh lùng nói, "Ta nghĩ tình ngươi trước kia tiếng tăm cũng không đến nổi xấu nên tạm tha cho một lần. Nếu ngươi thật lòng hối cải thì nên đem những bí mật của Nam Cung thế gia nói cho mọi người biết."

Thượng Tam Đường cười khẩy nói, "Nếu hỏi những việc cơ mật trong nhà Nam Cung thế gia thì nên Diệp Sương Y cô nương, họa chăng còn biết được chút đỉnh. Chớ lão hủ chẳng có gì phụng cáo được cả."

Nhâm Vô Tâm nói, "Nam Cung phu nhân âm trầm thâm độc, nếu không phải là người cực kỳ thân cận tất không thể biết được những bí ẩn của mụ. Lão tiền bối không cần phải hỏi nữa."

Âu Dương Đình nhìn Thượng Tam Đường nói, "Thôi tha cho ngươi, bước!"

Nhâm Vô Tâm chắp tay vái chào nói, "Người ta không ai là không có lỗi, nếu biết kịp thời cải hóa thì lại trở thành người hay. Lão tiền bối tiền đồ trân trọng."

Thượng Tam Đường đỏ mặt chắp tay thi lễ nói, "Đa tạ tướng công tha chết."

Rồi lập tức đi ngay. Vừa xuống khỏi thềm chợt nghe "binh" một tiếng, mọi người đều giật mình trông theo, thì ra ông ta đã lấy tay đập vào thiên linh cái cho vỡ óc ra mà chết.

Quần hào ai cũng sửng sốt bàng hoàng, đứng lặng giây lâu không ai nói được tiếng nào.

Một lát sau, Huyền Chân đạo trưởng mới bảo Diệu Vũ, "Thượng Tam Đường với ta là chỗ quen biết cũ, nay đến lúc tuổi già lại bị chết một cách thê thảm như vậy kể cũng đáng thương. Ngươi nên ra chợ mua một cỗ quan tài tốt để mai táng cho ông ta kẻo tội nghiệp."

Diệu Vũ vâng lệnh quay đi. Âu Dương Đình cũng sai Triệu Liệt Bàn liệu lý hãn sự cho anh em họ Đinh, rồi hỏi Nhâm Vô Tâm, "Còn hai người con gái này tướng công định xử trí thế nào?"

Nhâm Vô Tâm chỉ vào Diệp Sương Y nói, "Thiếu nữ này là con gái Diệp Trường Thanh, một trong bốn vị Quân tử Trung Nguyên, ta nên nghĩ tình ông ta mà tha cho nàng."

Huyền Chân đạo trưởng than rằng, "Nam Cung thế gia đã dùng mọi thủ đoạn hiếp bách các nhân vật võ lâm giúp chúng làm ác. Nếu ta không phân đen trắng nhất khái đem giết cả đi thì giết đến bao giờ mới hết? Và rất có thể giết lầm người vô tội nữa. Vậy nên theo ý bần đạo, thà ta tha lầm trăm người còn hơn giết oan một người."

Âu Dương Đình nói, "Hai vị đã chủ trương như vậy, lão hủ còn biết nói gì hơn nữa."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, vẫy tay bảo Diệp Sương Y, "Cô nương đi đi thôi!"

Diệp Sương Y nhướng cao đôi mày lạnh lùng hỏi, "Các ngươi không có câu gì cần hỏi ta ư?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Chúng tôi đã nhất định tha cho cô nương thì cũng không muốn bắt cô nương phải cung khai. Nói nhiều làm gì vô ích."

Diệp Sương Y mỉm cười quay ngoắt đi ngay. Nhâm Vô Tâm nói với theo, "Cô nương không nên trở về Nam Cung thế gia nữa, nếu không thì e tính mạng khó toàn."

Diệp Sương Y chẳng nói chẳng rằng, chỉ cắm đầu thoăn thoắt bước đi, chớp mắt đã mất hút.

Âu Dương Đình lắc đầu nói, "Người con gái này tính nết thật cổ quái kỳ dị."

Huyền Chân đạo trưởng nói, "Đại phàm những người đã qua tay Nam Cung phu nhân huấn luyện, tính tình đều biến thành lặng lẽ thâm trầm, khác hẳn người thường."

Ngô Đức nói, "Nhâm tướng công! Ta không nên coi Liên Nhi như những đứa a đầu tầm thường. Thị chuyên dùng sắc đẹp để gây sóng gây gió, con bài ấy mới thật nguy hiểm, ta không nên tha."

Nhâm Vô Tâm nói, "Tại hạ vẫn định giữ thị lại để hỏi cung vì nữ tỳ này là người hầu cận Ngũ phu nhân tất biết nhiều điều bí mật."

Lúc này Liên Nhi đã bị chàng điểm huyệt nằm ở dưới đất.

Huyền Chân đạo trưởng lại hỏi, "Còn bọn gia nhân kia định xử trí thế nào?"

Nhâm Vô Tâm đáp, "Bọn này võ công tầm thường giết cũng vô ích, chi bằng cứ để mặc họ. Khi nào tỉnh lại, họ tự động muốn đi đâu thì đi."

Âu Dương Đình nói, "Việc này không quan trọng lắm. Điều cần thiết là bây giờ ta phải quyết định ngay việc đối phó với Nam Cung thế gia mới được."

Nhâm Vô Tâm ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Theo ý tại hạ thì nhân lúc này Nam Cung thế gia vừa bị thua một trận liểng xiểng, ta nên thừa kế kéo xuống Nam Dương phá tan sào huyệt của chúng ra, khiến cho chúng không kịp đề phòng, như thế mới là thượng sách."

Ngô Đức tán thành, "Nhâm tướng công nói phải đấy. Chúng ta nên lập tức đi ngay, khiến cho địch trở tay không kịp, hết giở trò gì được nữa."

Quần hào cũng đều nhiệt liệt hưởng ứng. Nhâm Vô Tâm đưa mắt nhìn mấy người bị thương rồi nói, "Nhưng còn Bạch Đại tiên sinh, Đường lão thái và các vị cao tăng bị thương chưa khỏi..."

Vị Lạt Ma đứng đầu nhảy lên cười nói, "Tướng công đừng lo, chúng tôi tuy bị thương nhưng khi nào tới Nam Dương tức thì khỏi bệnh."

Nhâm Vô Tâm cảm kích hỏi, "Xin đại sư cho biết pháp hiệu và người đối với Ma Ca pháp vương như thế nào?"

Vị Lạt Ma nói, "Bần tăng là Âm Ca. Ma Ca pháp vương là sư huynh của bần tăng."

Nhâm Vô Tâm ngậm ngùi nói, "Các vị đại sư vì việc của võ lâm Trung Nguyên, không quản xa xôi ngàn dặm tới đây, tại hạ không biết lấy gì báo đáp cho xứng."

Âm Ca đại sư cười ha hả nói, "Cùng là một phái võ lâm, tướng công đừng nên khách sáo. Bần tăng còn muốn hỏi thăm tướng công có biết sư huynh bần tăng ở đâu không?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Lệnh sư huynh theo lời tại hạ ủy thác hiện đang ẩn cư tại vùng phụ cận Nam Dương để nghiên cứu một loại võ công của Nam Cung thế gia. Chúng ta tới đó chắc sẽ gặp mặt."

Chàng nói xong lại giải huyệt cho hai tên nữ tỳ nhà Nam Cung, dặn trông nom cho Liên Nhi. Tới giờ Mùi, chàng và quần hào lục tục lên đường, kéo sang Nam Dương.

Bạch Đại tiên sinh vì vết thương quá nặng nên phải thuê một chiếc nhuyễn kiệu do hai tên phu cáng đi, còn Đường lão thái ngồi trên kiệu đã có mấy tên nữ tỳ phục dịch. Tất cả hơn một trăm người chia làm bảy nhóm rầm rộ lên đường.

Đêm ấy, quần hào đều ngủ ngoài cánh đồng, đem lương khô ra ăn. Trong khi ăn, Đường lão thái chợt nói với Nhâm Vô Tâm, "Lệnh đường bị khốn trong nhà Nam Cung đã lâu, đối với việc đánh phá Nam Cung thế gia tất phải có cao kiến?"

Nhâm Vô Tâm gật đầu nói, "Chúng ta cứ theo lộ trình đã định mà tiến, đợi vài hôm nữa tại hạ khỏi vết thương sẽ tìm gia mẫu vấn kế."

Chàng ngừng một lát lại tiếp, "Các vị tiền bối tính xem cuộc quyết chiến này ta có nên gởi thiếp mời các môn phái khác và các vị anh hùng trong võ lâm cùng hợp sức quyết một trận thư hùng với Nam Cung thế gia không?"

Bạch Đại tiên sinh nói, "Nhâm tướng công nghĩ thế rất phải. Như thế bên ta có thể nắm chắc phần thắng lại vừa có thể nêu cao được ý nghĩa cuộc chiến đấu vì đạo nghĩa võ lâm."

Quần hào đều tán thành. Kế đó mọi người đều liên danh ký vào giản thiếp, sai người truyền đi khắp nơi mời các vị giang hồ hảo hán tới ngày rằm tháng ấy sẽ tới Nam Dương hội họp.

Kế nghị xong, Nhâm Vô Tâm sai hai tên nữ tỳ nhà Nam Cung vực Liên Nhi ra, giải khai huyệt đạo cho nàng.

Liên Nhi ngầm vận chân khí, hoạt động chân tay rồi đứng phắt lên cười nói, "Tướng công tha cho tất cả mọi người, chỉ giữ riêng một tiểu tỳ, tiểu tỳ rất lấy làm hân hạnh."

Nhâm Vô Tâm sầm nét mặt nói, "Ngươi dùng sắc đẹp gây sóng gió, tội nặng hơn người khác nhiều, vì thế ta còn phải nghiêm trị để làm gương cho kẻ khác."

Liên Nhi mỉm cười duyên dáng đáp, "Những việc làm của tiểu tỳ đều là do lệnh của Tứ phu nhân, tiểu tỳ là kẻ dưới không có quyền tự chủ. Tướng công định trừng phạt e không được công bằng."

Đường lão thái nổi giận nói, "Con tiện tỳ này mồm mép xảo lắm, nếu tướng công không có gì cần hỏi để lão thân cho nó một trượng, đập chết cho rồi."

Liên Nhi vênh mặt lên cười nhạt, không thèm trả lời. Đường lão thái giận quá vung gậy lên đánh xuống. Liên Nhi chỉ "hừ" một tiếng, nhảy ra xa năm thước tránh khỏi. Thật ra thị vẫn yên trí Nhâm Vô Tâm không bao giờ giết thị nên cứ nhởn nhơ không hề sợ hãi, miệng còn cười nói, "Nhâm tướng công có gì muốn hỏi xin cứ hỏi đi. Nếu không thì tiểu tỳ cũng có mấy câu muốn bẩm với tướng công."

Nhâm Vô Tâm cười một cách lạnh lùng, "Những điều bí ẩn của Nam Cung thế gia, tôi chỉ không biết có một điều. Mà điều ấy chính ngươi cũng không thể biết được. Vì thế ta không còn việc gì hỏi nữa, ngươi có nói ta cũng không muốn nghe."

Liên Nhi ngẩn người hỏi, "Còn điểm bí ẩn gì tướng công cứ hỏi, may ra tiện tỳ biết được cũng nên."

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Tỉnh tửu thang chế bằng vật gì ngươi biết không?"

Liên Nhi sửng sốt một lát rồi nói, "Điều đó thì đến Tam, Tứ, Ngũ phu nhân còn không biết huống hồ là tỳ nữ."

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Vì thế mà ta mới bảo ngươi đừng nói nhiều chi cho vô ích."

Vừa nói vừa thủng thỉnh bước đến gần bên Liên Nhi. Liên Nhi sợ hãi bước lùi lại hai bước nói, "Tướng công định làm gì tôi?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Ta nghĩ ngươi chỉ vâng theo lệnh mà hành động nên tha cho không giết, nhưng phải hủy bỏ võ công của ngươi để từ nay ngươi không tàn ác nữa."

Liên Nhi tái mặt nói, "Phá bỏ võ công người ta là thất đức. Người anh hùng không khi nào dùng thủ đoạn khắc bạc đó. Thà tướng công giết tiểu tỳ đi còn hơn."

Nhâm Vô Tâm nói, "Đó là ý kiến riêng của ngươi. Ta đã có cách."

Nói xong giơ một ngón tay lên định điểm huyệt Liên Nhi.

Liên Nhi sợ quá vội nhảy chéo sang một bên kêu to, "Tướng công với Ngũ phu nhân tôi là chỗ quen biết cũ, tiểu tỳ lại là người thân tín của Ngũ phu nhân, tướng công đối đãi với tiểu tỳ như vậy còn mặt mũi nào trông thấy Ngũ phu nhân."

Nhâm Vô Tâm mỉm cười lạnh lùng nói, "Ngũ phu nhân của ngươi đã tàn sát bao nhiêu đồng chí của ta làm cho chúng tôi phải thất điên bát đảo cơ hồ ngóc đầu không nổi. Ta đang định tìm nàng để hỏi tội, còn tình nghĩa gì nữa."

Dứt lời chỉ nghe "vút" một tiếng, một luồng chỉ phong cực kỳ lanh lẹ đã xé làn không khí bay ra. Liên Nhi mặt mày tái nhợt nhảy vội về phía sau mấy bước, hai bên thái dương và chân tóc đã thấy ướt đẫm mồ hôi.

Huyền Chân đạo trưởng trong bụng không nỡ, thở dài nói, "Nhâm tướng công! Người con gái này tuổi còn thơ dại không biết gì, lại còn bị người trên sai khiến..."

Diệu Vũ ngồi sau lưng Huyền Chân đạo trưởng vội giật tay áo sư phụ một cái thật mạnh. Huyền Chân đạo trưởng ngạc nhiên quay lại.

Diệu Vũ nói nhỏ, "Với thân thủ của Nhâm tướng công, nếu muốn hủy bỏ võ công của con nha đầu kia thì chỉ cần vẫy tay một cái đã đủ làm cho ả khó lòng thoát khỏi..."

Huyền Chân đạo trưởng chợt tỉnh ngộ mới thôi không nói nữa. Liên Nhi tránh thoát được luồng chỉ phong của Nhâm Vô Tâm, giận dữ nói, "Tướng công thật là người can trường thiết thạch, không có một chút tình cảm nào. Chẳng trách Ngũ phu nhân tôi giận tướng công thấu xương cũng phải."

Nhâm Vô Tâm nhanh như cắt, nắm lấy uyển mạch của Liên Nhi hỏi, "Ta với Tú Linh không phải bạn bè thân thiết hà cớ gì nàng giận ta thấu xương? Nói mau!"

Liên Nhi cười nhạt, lạnh lùng nói, "Hừ! Tướng công bị thương gần chết, phu nhân tôi không quản hiểm nguy đưa tướng công đi xa xôi ngàn dặm, dọc đường hết sức nuôi nấng chăm nom, không ngại hiểm nguy, không từ gian khổ lại còn suýt nữa bị nhục mà chết. Vậy mà bây giờ tướng công hoàn lại được những gì? Hừ! Hừ! Không bạn bè thân thích, sao mà đuổi ra nhanh quá thế?"

Nhâm Vô Tâm trống ngực đập thình thịch nghĩ thầm, "À! Thì ra nàng giận ta chỉ vì thế."

Chàng ngẩng đầu lên nói, "Ta tưởng nàng vẫn còn ẩn tích trong Tử Cốc, biết đâu nàng đã trở về Nam Cung thế gia trở mặt chống ta."

Liên Nhi lại cười lạt, "Nói đùa! Nàng liều chết bội phản lão phu nhân, không tiếc danh tiết, không tránh hiềm nghi, có lẽ chỉ vì cớ để vào Tử Cốc để ẩn cư hay sao?"

Nhâm Vô Tâm tỏ vẻ hoài nghi nói, "Nàng đã bội phản trở về mà Nam Cung phu nhân chẳng những không giết lại còn trao cho trọng trách, cái độ lượng khoan hồng ấy, ta tin một người như Nam Cung phu nhân nhà ngươi không thể có được."

Liên Nhi nói, "Sao mà tướng công nghĩ giản dị như thế? Lão phu nhân tôi không phải tâm địa bồ tát thì làm sao có thể tha thứ một cách dễ dàng như vậy?"

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Thế thì vì cớ gì?"

Chàng cố làm ra vẻ trấn tỉnh nhưng không sao dấu được cái sắc mặt xám nhạt và lồng ngực phập phồng thở gấp.

Liên Nhi đáp, "Ngũ phu nhân oán hận đầy lòng, nhưng nàng cũng không muốn chết một cách oan uổng bèn lại trở về Nam Cung thế gia tự thú. Trước mặt các vị trưởng bối, nàng tình nguyện uống một liều thuốc độc. Thứ thuốc độc này uống vào chỉ một năm sau là chết. Tính đến hôm nay, nàng chỉ còn sống được thêm ba tháng nữa thôi."

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Nàng cố sống thêm một năm nữa để báo thù ta, kể ra ta cũng không nên oán trách nàng. Nhưng nàng giận ta thì chỉ giết một mình ta là đủ, sao lại lạm sát những kẻ vô tội? Đó là một tội đại ác không thể tha thứ được. Dù nay ta có tự tay giết nàng cũng không đủ tạ tội với các vị hảo hán dưới suối vàng."

Liên Nhi cười nhạt lạnh lùng nói, "Ngũ phu nhân cũng đã từng thề thế nào cũng phải giết bằng được tướng công thì thôi. Nếu không thì làm sao tướng công còn sống đến bây giờ?"

Nhâm Vô Tâm cau mày ngẫm nghĩ một lát rồi nói, "Lẽ ra ta sẽ điểm vào một bí huyệt trên mình ngươi cho ngươi hết làm mưa làm gió, nhưng nay nghĩ lại, việc gì cũng có thiên công dàn xếp, ta cũng chẳng phải cần độc ác với ngươi."

Nói đến đây, chàng chợt thò tay vào túi lấy ra một phong thư đưa cho Liên Nhi rồi tiếp, "Ngươi cầm phong thư này giao cho Ngũ phu nhân hoặc lão phu nhân ngươi, hay nếu có điều gì không tiện thì xé đi cũng được."

Hồi thứ năm mươi bảy

Hiệu triệu quần hùng, đột nhập mật thất

Thấy lần phong bì có nhiều dấu xi và dấu sáp gắn, Liên Nhi biết là bức thư quan hệ, ngần ngừ, nhăn nhó nói, "Nếu tỳ nữ ngấm ngầm trao thư này cho Ngũ phu nhân tức là tỳ nữ phản bội Lão phu nhân. Nếu đem dâng lên cho Lão phu nhân tức là phản bội Ngũ phu nhân...!"

Nhâm Vô Tâm cười nhạt, "Vậy thì mi cứ tự tiện xé vụn ra, chẳng đưa cho ai cũng được!"

Liên Nhi nhăn nhó nói, "Thơ của Ngũ phu nhân mà tự ý huỷ đi ư? Phu nhân biết thì khốn to."

Ngừng một giây, nàng nói tiếp, "Tướng công có biết đâu rằng, từ chỗ yêu thương không được hoá ra giận, thì tính tình Ngũ phu nhân đã biến đổi đáng sợ, ghê gớm hơn cả Thái phu nhân."

Nhâm Vô Tâm quát to rằng, "Nam Cung thế gia sát hạt võ lâm. Mi có biết rằng gần đây thêm bao nhiêu người chết oan nữa!"

Thấy chàng nổi giận, Liên Nhi vội cất phong thư nơi tay áo, cúi đầu thi lễ, vội quay mình đi. Nhâm Vô Tâm gọi, "Đem cả hai con nha đầu kia đi!"

Liên Nhi mỉm cười, quay lại, giơ tay vẫy một cái, đem theo hai đứa đầy tớ gái, vội vã ra đi. Đường lão thái tức giận nói, "Hừ! Tụi đàn bà, từ già đến trẻ ở Nam Cung thế gia không một đứa nào là lương thiện."

Huyền Chân đạo trưởng mỉm cười nói, "Diệp Sương Y chưa phải là người của Nam Cung thế gia!"

Đường lão thái cười nhạt, nói chặn lại, "A đầu ấy à? Trước khi vào với Nam Cung thế gia từng công bố rằng, "Ai có thể báo được thù cha cho nó thì nó sẽ lấy người ấy! Vậy mà tới nay luôn cả với nhà ta, nó cũng coi như khách lạ!"

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Đường lão thái ơi! Lệnh lang giờ ở đâu? Sao không cùng đi với lão thái?"

Đường lão thái hậm hực nói, "Hừ! Vì con tiểu nha đầu ấy mà nó theo đi về miền đông. Lão theo tìm... chẳng thấy tăm hơi đâu!"

Nhâm Vô Tâm giật mình hỏi, "Ủa! Nguy hiểm quá! Lệnh lang một mình tiến vào sào huyệt Nam Cung thế gia hay sao?"

Đường lão thái chép miệng nói, "Hoặc giả thế! Đã một lần được chư vị cứu thoát, nay nếu lại lọt vào nữa, thì đành mặc... trời!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Không để thế được! Ngày mai chúng ta gấp lên đường sớm tới Nam Dương!"

Đường lão thái nói, "Đa tạ tướng công! Nhưng chúng ta đều bị thương nặng cả rồi! Đi rút gấp ngay có khác gì đi tới chỗ chết!"

Nhâm Vô Tâm thở dài, cúi đầu. Hàng ngày chàng lo lắng biết bao nhiêu công việc, lại thêm câu chuyện rắc rối về Điền Tú Linh, khiến tâm linh chàng càng rối loạn, người già sút hẳn đi đến mười tuổi.

Mọi người đều bị thương, lại thêm sau một ngày đi đường trường, ai cũng nhọc mệt. Nói chuyện vãn một lúc, sau đó ai nấy đều ngồi nhắm mắt vận công, điều hoà hơi thở.

Ngồi như vậy đến quá nửa đêm, trong màng tai Nhâm Vô Tâm chợt vo ve có tiếng gọi, "Tâm nhi! Mẹ gọi con đây! Mẹ ở cách xa độ trăm trượng về phía đông nam. Sẽ sẽ, chớ làm kinh động mọi người!"

Nhâm Vô Tâm mừng rỡ, lập tức lén bước ra đi về phía đông nam.

Một bà lão, đầu trùm mảnh sa mỏng màu xanh, lộ ra mái tóc trắng, mình choàng tấm áo che gió bằng lông màu đen, nét mặt từ ái êm đềm như ánh dương xuân. Dưới ánh trăng sáng, vẻ người thiên nhiên phong vận. Vừa thoáng trông thấy, Nhâm Vô Tâm sẽ rú lên một tiếng "Mẹ!", chạy tới ôm choàng lấy bà lão. Lòng chàng thổn thức, nước mắt trào ra.

Bà lão đưa bàn tay trắng muốt như ngọc, đẹp tuyệt trần, xoa lên đầu Nhâm Vô Tâm, sẽ cất tiếng dịu dàng nói, "Mẹ con ta hãy ra xa hẳn đây một quãng nữa để nói chuyện, khỏi làm náo động mọi người!"

Nhâm Vô Tâm sẽ "dạ". Lập tức mẹ con dắt nhau đi về phía trước. Lại một quãng nữa, bà lão ngừng bước, đưa ống tay áo lên lau nước mắt chàng, và sẽ nói, "Con trai gì mà tầm thường vậy! Coi mẹ có khóc đâu, sao con khóc?"

Nhâm Vô Tâm thổn thức nói, "Thân thế con, có nhiều điều chưa tỏ rõ..."

Bà lão kéo con vào lòng, âu yếm nói, "Con muốn rõ, mẹ sẽ nói cho biết. Lúc này nói ra, làm loạn óc. Mẹ con được gặp nhau, thế là Trời thương, Phật độ lắm rồi!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Con có nhiều việc cần hỏi mẹ, xin mẹ chớ xa con!"

Bà lão cười nói, "Dù ở nơi góc biển chân trời, nội trong một ngày, mẹ cũng trở về tìm con. Bữa nay mẹ từ Nam Dương về đây."

Chàng giật mình hỏi, "Mẹ dò xét sào huyệt Nam Cung thế gia?"

Nét mặt bà lão thoảng qua vẻ lo hãi, nhưng rồi lại cười mà rằng, "Con cứ yên tâm! Mẹ rất cẩn thận! Mẹ con ta quyết không thua trận nữa đâu!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Con đương chuẩn bị cùng một số bạn thân liên hiệp gửi thiếp mời thiên hạ anh hùng, quyết một trận sống chết với Nam Cung thế gia. Ý mẹ nghĩ sao?"

Bà lão hất hàm cười, "Con quyết chí làm thì cứ làm. Mẹ sẽ ngấm ngầm giúp sức kỳ cho đến khi san bằng Nam Cung thế gia, bắt Trình Ngọc Ngạc nghiền xương mụ ra thành hôi tro mới thôi!"

Bà lão nói với vẻ mặt ôn hoà, nhưng lại có giọng kiên quyết, hình như bên trong nung nấu toàn là cừu hận. Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên hỏi, "Trình Ngọc Ngạc? A! Phải chăng là..."

Bà già nói, vẻ mặt đau đớn, "Là vợ Nam Cung Minh. Không nhắc đến mụ nữa để khỏi... sôi tiết!"

Nói xong, bà lão lấy ở túi ra một chiếc bình ngọc. Mở nút dốc ra một viên thuốc bọc sáp, hai ngón tay sẽ bóp một cái, lần sáp tách ra, một hương thơm ngát xông lên. Bà lão đặt viên thuốc vào miệng Nhâm Vô Tâm mà rằng, "Nuốt đi để chóng hồi sức. Bạch Đại tiên sinh cùng những người khác bị mẹ đánh trọng thương cũng có thuốc đây. Khỏi lo!"

Đợi chàng nuốt xong viên thuốc rồi, bà lão lại lấy ra một chiếc hộp thuốc lớn trao cho chàng, dặn để chữa cho các người khác. Nhâm Vô Tâm đón lấy hộp thuốc và hỏi, "Trong có một ngày mà mẹ kiếm đâu ra nhiều thứ thuốc vậy?"

Bà lão cười nói, "Đó là thủ đoạn trộm cướp. Con chớ bắt chước. Giờ đây, ngồi xuống vận công, cho chất thuốc thêm hiệu quả!"

Nhâm Vô Tâm "dạ"! Ngồi xếp bằng chân, vận nội khí xung động sức thuốc. Bà già ngồi bên, đặt bàn tay mặt lên giữa lưng chàng, đưa nội lực truyền qua. Hai mẹ con hợp lực hành công, lại thêm viên thuốc do thứ lão nhân sâm, hà thủ ô ngàn năm, luyện với linh chi trên núi Tuyết Sơn, nên chỉ chốc lát công hiệu như thần. Nội thương đã hết, thần khí sáng suốt gấp trăm lúc thường. Nhâm Vô Tâm bừng mở mắt ra, nói, "Giờ mẹ giải thích cho con..."

Bà lão cười mà rằng, "Trước hết hãy cởi khuy áo ngực, để mẹ nhận lại dấu ấn trên ngực con hồi lọt lòng!"

Chàng cau mày nói, "A! Mẹ sợ rằng con là... giả mạo sao?"

Bà lão mỉm cười, tự ý cởi khuy ngực chàng. Một dấu như hình chữ "Tâm" nổi hiện ra. Bà lão chỉ vào ngực chàng cất giọng đầm ấm nói, "Khi sanh con ra, mẹ nghĩ rằng mẹ khó sống. Nhân thế mới cố thu sức lại, vạch một dấu chữ "Tâm" trên ngực con. Vì mẹ nghĩ rằng, sau khi chết đi không nhớ được diện mạo con. Với cái dấu này dù mẹ có mù cả hai mắt, cũng nhận ra con được!"

Chàng nghẹn ngào nói, nước mắt chan hòa, "Lòng mẹ thương con thực là vô cùng. Con chưa báo đáp lại được chút nào!"

"Tên tuổi con vang lừng thiên hạ, để tiếng tốt cho cha mẹ. Thế là chí hiếu! Chẳng hay tới giờ con đã có ý trung nhân chưa?"

Nhâm Vô Tâm lắc đầu nói, "Chưa ạ!"

Nghĩ tới Ngũ phu nhân Điền Tú Linh, chàng bất giác chua xót, thở dài.

Bà già nói, "Trai tài thì lo gì không có vợ! Việc gì phải thở dài!"

Chàng hơi đỏ mặt, bèn thuật lại câu chuyện rắc rối với Điền Tú Linh. Bà già cười nhạt mà rằng, "Thế là cái gì? Yêu mà bị cự tuyệt, thế là trở mặt thù hằn. Con khỏi nghĩ ngợi đến việc ấy. Lần khác gặp, mẹ sẽ giết nó đi."

Nhâm Vô Tâm rùng mình, sẽ mỉm cười, nói, "Mẹ chớ bận lòng. Xin để con xử trí lấy việc này."

Bà già nói, "Chớ bị nó lừa gạt. Chẳng kể rằng nó là hạng gái goá! Riêng một điểm rằng mục đích không đạt được mà nó quay ra phá hoại, làm bậy, đủ thấy đó không phải là vì tình chân chính! Con chớ bị mắc cạm bẫy của nó."

Nhâm Vô Tâm nghĩ thầm rằng nếu mẹ chàng mà quyết ý giết nàng thì nàng khó thoát chết. Nghĩ vậy bèn cười mà rằng, "Thư của con đã gửi cho nàng, đòi nàng phải gặp mặt để giải quyết dứt khoát việc này. Đại trượng phu há thất tín với ai! Nếu mẹ giết nàng thì sự giải quyết của con vẫn không bao giờ dứt khoát được! Mẹ nghĩ có phải thế không? Đến như việc hôn nhân của con, thì sau này tuỳ mẹ lo liệu cho, con quyết không trái ý mẹ!"

Bà già nở một nụ cười mãn nguyện, nói, "Có thế mới được! Mẹ bằng lòng lắm."

Chợt quay lại nhìn xa xa, bà la lên một tiếng, sẽ nói, "Có người kìa!"

Nhâm Vô Tâm giật mình ngó theo, quả thấy có bóng người thấp thoáng, len lách qua các bụi cây đi về phía các quần hào ở. Chàng nghĩ thầm, công phu võ nghệ của mẹ chàng quả nhiên cao siêu hơn chàng nhiều lắm!

Bóng người kia lướt đi lẹ như rắn. Mẹ con Nhâm Vô Tâm ngồi sau một khối đá lớn nên người kia không hay biết. Bà già cau mày nói, "Đó là người của Nam Cung thế gia!"

Nhâm Vô Tâm nhận kỹ rồi nói, "Nàng là Diệp Sương Y, con gái Diệp Trường Thanh đứng đầu trong hàng Trung Nguyên Tứ Quân Tử."

Bà già chép miệng hỏi, "Trong khoảng một hai chục năm trở lại đây, mẹ không hay biết gì về các nhân vật võ lâm. Trung Nguyên Tứ Quân Tử là... thế nào?"

"Bốn vị cao ngạo ẩn dật. Phẩm cách vang lừng thiên hạ, võ nghệ cao siêu. Vậy mà tới nay bị sung vào số ba mươi sáu vị Thiên Cang của nhà Nam Cung thế gia." Ngừng một giây, chàng nói tiếp, "Còn Diệp Sương Y là con dâu chưa cưới của Đường gia. Nàng quyết tâm cứu cha, nên chẳng từ nguy hiểm, tìm vào sào huyệt Nam Cung thế gia..."

"Thực đáng khen, đáng phục! Tiếc rằng còn kém thông minh."

Bà già nói tới đây, bỗng ngừng lại nhìn về phía trước, "Kìa! Nàng đã trở ra...!"

Chàng nhìn theo. Quả nhiên Diệp Sương Y quay trở ra, đưa mắt ngó quanh như tìm kiếm gì. Mẹ chàng cười, sẽ nói, "Con bé kháu khỉnh quá! Xứng đôi với... con! Kìa nó ngó trước nhìn sau... A! Hoặc là nó kiếm tìm con... Con thử tới đó coi...!"

Chàng nói, "Con bé hay lôi thôi lắm lời! Con chịu thôi..."

"Không lắm lời, sao gọi là đàn bà con gái! Đi... mau!" Vừa nói bà già vừa đẩy mạnh chàng một cái.

Nhâm Vô Tâm phì cười, theo tay mẹ đẩy, vọt người đi như mũi tên.

Diệp Sương Y lanh mắt, nhận ra Nhâm Vô Tâm, nàng ngừng lại đợi.

Nhâm Vô Tâm lên tiếng hỏi, "Đêm hôm tới đây, hẳn là cô nương định kiếm... Đường lão thái thái?"

Diệp Sương Y nói với giọng thản nhiên lạt lẽo, "Kiếm Đường lão thái thái thì có ích lợi chi!"

Chàng mỉm cười, chợt nhớ tới lời mẹ khen về chí khí nàng đáng kính phục, bèn nghiêm nét mặt lại mà rằng, "Nam Cung thế gia là kẻ thù chung của võ lâm! Nếu cần giúp sức, cô nương cứ cho biết, tại hạ xin nỗ lực vì trách nhiệm chung!"

Diệp Sương Y buồn thảm nét mặt, nói, "Gia phụ bị giam trong nhà giam "Mê hồn", thần trí hôn mê. Việc đó tướng công có biết không?"

Chàng nói, "Chẳng những biết chuyện mà tại hạ còn mắt thấy nữa."

"Trong bảy mươi hai Địa Sát, phần nhiều là tự nguyện theo vào phục vụ. Một số ít thì bị họ điểm huyệt, bị kiềm chế. Còn ba mươi sáu vị Thiên Cang thì toàn là bậc cao cường của võ phái, nhưng đều bị độc dược làm mê loạn thần trí, không tự chủ hành động được mà phải theo mệnh lệnh của Nam Cung phu nhân. Trung Nguyên Tứ Quân Tử, Thiếu Lâm Bách Nhẫn, Bách Đại đều thuộc số đó!"

Chàng nói, "Việc đó tại hạ có biết. Nhưng không tường tận như cô nương."

Diệp Sương Y nói, "Chỉ có hai lối có thể cứu tỉnh lại những ai bị điểm huyệt đến thần trí hôn loạn! Một là "Tỉnh thần thang" cho uống. Hai là bậc võ công siêu phàm nhập thánh như thân mẫu tướng công. Chỉ cần bụng nghĩ tới đâu là huyệt đạo ấy hoặc được mở ra, hoặc được bịt lại mà không cần vận công dùng sức chi cả."

Chàng nói, "Cô nương hiểu biết rộng! Xin cứ chỉ giáo cho!"

Diệp Sương Y "hừ" một tiếng, lạnh lùng mà rằng, "Tướng công là lãnh tụ võ lâm nghĩa hiệp. Một quyết định của mình là quan hệ đến sinh mệnh và thành bại. Ta là đàn bà con gái, võ nghệ và tài trí kém cỏi. Nay tướng công hỏi ý kiến ta, khác nào hỏi thăm đường kẻ thù...!"

Nhâm Vô Tâm nghe nói, lạnh toát cả gáy. Chàng vội ôm tay quyền đưa lên ngang cằm thi lễ, cung kính mà rằng, "Cô nương vì quyết chí cứu lệnh nghiêm, hy sinh mình để làm nô tỳ cho Nam Cung thế gia, tại hạ rất khâm phục. Cô nương bấy lâu nay khuất mình ở với Nam Cung thế gia, hẳn đã lưu tâm tra xét, biết được nội tình và nhiều điều bí mật của họ. Sở dĩ tại hạ yêu cầu cô nương chỉ giáo cho vì rằm tháng sau có cuộc hội tập ở Nam Dương để ấn định ngày quyết chiến. Những điều chỉ giáo của cô nương sẽ vô cùng quan hệ đến sự thắng bại..."

Diệp Sương Y hỏi, "Đối với những kẻ chẳng may bị đối phương làm cho mê hồn, mất trí, tướng công có cách gì giải quyết? Tới ngày đó, đối phương sẽ huy động cả ba mươi sáu vị Thiên Cang ra trận thì sao? Họ đều là kẻ bị đối phương làm hôn mê, mất trí, chỉ cần đối phương ra lệnh thì dù là cha mẹ, vợ con họ, họ cũng đánh giết. Lúc đó một là tướng công cùng mọi người vươn cổ chịu chết, hai là tướng công sẽ tàn sát họ đi... nếu tướng công đủ lực lượng!"

Nhâm Vô Tâm nghĩ thầm, "Cô nàng này đáo để lắm, ta thử nói khích cô ấy xem sao." Nghĩ vậy, bèn cười mà rằng, "Bất đắc dĩ thì phải dùng thủ đoạn quyết liệt. Lúc đó không còn câu nệ tiểu tiết nữa. Miễn là cứu được làng võ lâm thoát khỏi kiếp vận."

Diệp Sương Y rùng mình, giây phút sau thở dài nói, "Làng võ lâm là ai? Phải chăng chỉ có phe mình mới là võ lâm? Ta cứ nghĩ rằng tướng công là bậc kỳ nam tử. Nay xét ra lối giải quyết ấy, chính là đưa võ lâm vào vòng mạt kiếp. Nếu không thì cũng là oán thù liên miên bất tuyệt, sao gọi là giải thoát cho "toàn diện võ lâm" được! Chao ôi! Ta rất lầm, vì cứ tin ở tướng công là bậc đại anh hùng, hào kiệt! Chẳng qua chỉ là hạng có hư danh mà thôi!"

Nói xong, mắt nàng chớp chớp, giọt lệ chạy quanh. Bỗng nhiên nàng oà lên khóc thật, nhún gót quay mình, chạy thẳng...!

Liền ngay đó, mẹ Nhâm Vô Tâm chạy tới hỏi han sự tình.

Chàng nói, "Cứ luận điệu nàng nói, thì có ý thúc đẩy con phải lẻn vào sào huyệt Nam Cung thế gia, đánh cắp cho được thuốc "Tỉnh thần" cứu tỉnh lại những người bị hãm trong nhà giam "Mê hồn" đã, sau đó... mới nói đến việc quyết chiến, nếu cần!"

Mẹ chàng cau mặt, lắc đầu nói, "Khó lắm! Khó lắm! "Tỉnh thần thang" là tính mệnh, là nguồn sinh lực của Trình Ngọc Ngạc. Nó giữ luôn ở bên mình nó, làm sao lấy được! Tuy nhiên, không phải vì khó mà không bàn định! Giờ quá khuya rồi, con nên về nghỉ ngơi lấy sức. Đêm mai sẽ bàn...!"

Nhâm Vô Tâm vội giữ mẹ lại mà rằng, "Việc không nên trễ! Con đã lành mạnh, có thể tiến hành mọi việc tức khắc."

Mẹ chàng chép miệng thở dài, "Lúc này các bạn của con đã trở dậy cả rồi. Mẹ phải lánh mặt họ, vì... bình sinh mẹ giết người nhiều quá. Dù là hành động vô tâm, mất trí, nhưng cũng tổn hại đến uy tín của con!"

Chàng vội ngắt lời me, "Mẹ chớ nghĩ thế! Đã do Vô Tâm, mất trí thì trong lòng không có gì đáng thẹn, mà trái lại họ còn kính trọn mẹ là khác."

Ngừng một giây, chàng nói tiếp, "A! Đã vậy mẹ con ta cứ hợp sức tiến hành việc này, không cần họ biết."

Mẹ chàng lắc đầu nói, "Mẹ con đơn độc hành động vẫn hay và thuận tiện, nhưng là công việc chung, thì cũng phải báo tin cho các bạn con biết mới được."

Chàng nói, "Vậy thì xin mẹ đợi ở đây một chút. Con quay về nói chuyện với anh em, rồi tức khắc trở lại."

Dứt lời, chàng quay gót đi liền. Lúc đó quần hào đã trở dậy. Chàng trao hộp thuốc cho Bạch Đại tiên sinh, kế đó ngỏ lời định đi Nam Dương tìm cách cứu những người bị hãm trong sào huyệt của Nam Cung thế gia. Bọn Huyền Chân đạo trưởng tuy biết là hành động ấy quá mạo hiểm, nhưng cũng tin rằng với tài sức hai mẹ con chàng mà cùng tiến hành một việc thì thiên hạ vô địch thủ. Nghĩ vậy, nên không ai ngăn cản. Nhâm Vô Tâm liền uỷ cho mọi người việc gửi thiếp đi triệu tập giang hồ, ước hẹn ngày và nơi tập họp. Kế đó chàng quay trở lại, đón mẹ cùng lên đường.

Hai người khinh công đều vào bậc thánh thủ. Trong một ngày đêm đã tới một thôn trang nhỏ ngoài thành Nam Dương. Cả xóm có chừng trên mười nhà phần lớn là dân nghèo. Tới trước một ngôi nhà nhỏ, lợp ngói, Nhâm Vô Tâm giơ tay gõ vào phía trên khuôn cửa mấy cái. Một lát bên trong có ánh đèn le lói. Có tiếng một người già hỏi ra, "Đêm hôm, ai gọi đó?"

Chàng trả lời, "Nhâm Vô Tâm, người mặc áo dài sắc lam đây!"

Bên trong "a!" lên một tiếng, cánh cửa mở ra. Một người lạ, tóc hoa râm, giơ cao cây đèn, ngó nhìn chàng có vẻ sợ hãi rụt rè. Nhâm Vô Tâm cũng e ngại, cau mày nhìn. Một vài giây sau, chàng giơ một ngón tay chỉ vào bên ngực mình. Người kia lập tức lùi ra bên nhường lối. Chàng mời mẹ tiến vào bên trong. Người kia lập tức đóng cửa lại.

Nhâm Vô Tâm mỉm cười hỏi, "Tại hạ xin lỗi, chưa nhận ra tiền bối là... ai?"

"Lão hủ họ Ngụy..." Ông già hơi ngừng một chút, nói tiếp, "Hiện nay lối cải trang, cải cả diện mạo rất tài tình. Xin phép để lão hủ sờ nắn khuôn mặt coi có đúng chăng." Vừa nói lão vừa đưa bàn tay khẳng khiu lên sờ nắn mặt, cuối cùng sờ nắn ngực chàng rồi cười mà rằng, "Đúng là Nhâm tướng công rồi. Lão hủ là Quan Đông Thần Y Nguỵ Tử Lương. Vì lão hủ cải diện hoá trang nên cảm thấy không nhận ra được."

"Lão tiền bối cẩn thận như vậy là phải lắm." Chàng quay lại chỉ vào mẹ và giới thiệu, "Đây là bậc tôn trưởng của tại hạ."

Nguỵ Tử Lương cúi chào và nói, "Lão hủ xin dẫn lối."

Giơ cao cây đèn lên đi trước, hai người theo sau, qua một cửa ngách vào gian phòng bên, Nguỵ Tử Lương tới bên một chiếc tủ áo, mở cánh cửa ra, bên trong treo sống áo. Lão sờ soạng, bấm nút, nghe có tiếng động, đáy tủ lật lên lộ ra một cửa đi xuống hầm có ánh đèn le lói. Phía dưới có tiếng hỏi, "Lương huynh! Có việc gì vậy?"

Nguỵ Tử Lương trả lời, "Nhâm tướng công đã tới!"

Tiếng bên trong reo lên, "A! Xin mời xuống đây! Chậm một ngày nữa thì Ma Cà Pháp Vương phải đi tìm tướng công."

Nhâm Vô Tâm lần từng bậc đá đi xuống. Mẹ chàng theo sau. Đáy tủ áo đóng lại. Đây là một nhà hầm rất lớn, bốn bề có cửa thông qua các phòng bí mật khác. Dưới ánh đèn sáng trưng, hai ông già râu tóc bạc phơ, áo bào rộng đứng đón ở cuối bậc thềm, mỗi bên lại có một đồng tử buông tay đứng thẳng, đầu cúi hẳn xuống. Bốn bên cửa ngách mở rộng, có trên mười ông già vào cỡ sáu, bảy mươi chạy ra.

Nhâm Vô Tâm vội vã đi gấp, nắm cánh tay hai ông già trước thềm, cảm động reo lên, "Cù lão tiền bối! Thi lão tiền bối... đều khang kiện!"

Hai ông già cùng nói, "Gần đây tin đồn sóng gió, toàn là tin bất lợi cho tướng công. Chúng tôi nóng lòng sốt ruột. Nhưng không thể bỏ dở công việc nơi đây để đi tìm tướng công được..."

Nhâm Vô Tâm vội cảm tạ hai ông già, và quay ra hàn huyên với trên mười ông lão kia. Chợt có một người to lớn từ phía trước chạy lại, mình khoác áo Lạt Ma vàng, miệng cười hớn hở. Nhâm Vô Tâm vội tiến lên, vòng tay thi lễ mà rằng, "Pháp Vương, ngài vất vả quá! Tại hạ vô cùng cảm kích!"

Ma Cà Pháp Vương cười ha hả, nói, "Tướng công vắng mặt lâu quá! Khiến ta mong chết đi được!"

Nhâm Vô Tâm vội xin lỗi, kế đó giới thiệu mẫu thân với mọi người.

Chàng chỉ giới thiệu là mẫu thân chàng, nếu như lại nói rõ tên là Lan Cô ra thì có lẽ lúc đó mọi người đều chết khiếp cả đi được. Đột nhiên hai tiểu đồng sắc lam chạy tới, cùng lạy rập đầu sát đất mà rằng, "Chúng cháu là Hiệp Nhi và Tông Nhi, xin bái kiến sư tổ mẫu và sư phụ."

Mẹ chàng ngạc nhiên, sẽ hất hàm hỏi. Chàng thưa, "Hai đứa cùng mồ côi. Con đem về nuôi, chưa có danh phận thầy trò gì cả."

Mẹ chàng cau mày, nghĩ một lúc rồi hỏi, "Ta có gặp chúng nó ở đâu chăng?"

"Mẹ chưa gặp chúng bao giờ!" Ngưng một chút, chàng nói tiếp, "Con nuôi bốn đứa đặt tên là Hiệp, Nghĩa, Truyền, Tông. Nhưng Nghĩa với Truyền chẳng may đều qua đời rồi!"

Bà già chợt nhớ ra rằng, chính mình đã đánh chết hai đứa nhỏ. Bà cảm thấy buồn khổ vô cùng, bèn đưa tay xoa đầu Hiệp và Tông mà rằng, "Sư phụ chúng mi bận rộn luôn luôn, thì giờ đâu truyền thụ võ nghệ cho chúng mi. Hãy đứng cả dậy! Khi khác ta sẽ truyền thụ công phu cho."

Hai đứa mừng rỡ, vội rập đầu làm lễ rồi đứng ra một bên, nhường lối cho mọi người tiến vào gian phòng rộng lớn phía bên. Nơi đây là phòng thí nghiệm, một bên toàn là chai lọ, lò, đĩnh, một bên là giá để sách. Ma Cà Pháp Vương hỏi, "Coi thần sắc tướng công tuấn lãng, tráng kiện hơn xưa. Hẳn là có tin gì đáng mừng hoặc sự quyết thắng đã nắm trong tay!"

Chàng trả lời, "Chưa có gì là toàn thắng cả! Tuy nhiên tình thế đã sáng sủa ra nhiều, nhiều nghi vấn được giải đáp. Duy còn một điều là quyết chiến, lấy võ lực định sống còn!"

Cù Thức Biểu cau mày hỏi, "Còn mụ Lan Cô độc ác... thì sao?"

Mẹ Nhâm Vô Tâm kịp nói chặn ngang đi, "Mụ Lan Cô chết rồi!"

Thấy mọi người có vẻ không tin, bà nói tiếp luôn, "Chính tay lão đã giết mụ đi!"

Nhâm Vô Tâm nói thêm vào, "Võ nghệ của mẫu thân tại hạ còn cao siêu gấp mười lần tại hạ. Cho nên mới...!"

Mẹ chàng nói tiếp, "Việc đó các vị khỏi lo ngại nữa! Duy còn vấn đề sẽ phải đối phó với ba mươi sáu vị Thiên Cang, bảy mươi hai tay Địa Sát của Nam Cung thế gia!"

Nghe nói vậy, mọi người lặng yên, chỉ sẽ đưa mắt cho Cù Thức Biểu. Cù Thức Biểu ngẫm nghĩ một chút, thong dong nói, "Chúng tôi gần đây xoay quanh vấn đề "kinh" và "huyệt". Mới tìm ra được bốn huyệt can hệ là ở giữa trán nơi "Tâm đầu huyệt", ở "Á huyệt" dưới óc một tấc, ở phía lưng đối thẳng với "Linh đài huyệt" và ở con trai thì huyệt "Toản tâm" bên phải, ở con gái thì huyệt "Toản tâm" bên trái. Nếu vận dụng nội gia chỉ pháp, cùng một lúc điểm bít cả bốn nơi huyệt ấy lại thì bao nhiêu ký ức ở con người đều mất hết, không còn nhớ được việc gì, không nhận ra được người thân thích, nhưng... về võ nghệ và sức mạnh thì trái lại, tăng gia lên gấp bội! Nhờ có Ma Cà...!"

Ma Cà Pháp Vương vội lên tiếng, "Nói ra thì cũng đáng thẹn! Thoạt tiên phải lẻn vào trong nhà ngục ở Tràng An, Lạc Dương, thí nghiệm vào trên người tên tử tù. Mỗi lần điểm huyệt như thế là toi một mạng, vì khó lòng mà có thể điểm trúng cả bốn huyệt cùng một lúc, và nếu hơi nặng tay, không đều tay, hoặc nhẹ tay quá cũng đủ toi một mạng."

Mẹ Nhâm Vô Tâm hỏi, "Bọn tù nhân không biết võ nghệ. Đem họ ra thí nghiệm không đúng!"

Ma Cà Pháp Vương nói, "Chính thế! Vì vậy, trước đây nửa tháng, lão nạp phải tới địa hạt Khai Phong, rình mõ mãi mới tóm được mấy tên thủ hạ của Nam Cung thế gia về thí nghiệm, nhưng hiệu quả chưa tốt đẹp lắm. Lão nạp định vào tận sào huyệt đối phương, bắt lấy vài tay cao cường của họ. Nhưng làm như vậy, e rằng lộ liễu quá, có hại đến mọi hoạt động khác của tướng công chăng?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Nam Cung thế gia khoe khoang rằng tìm ra được bốn đại huyệt thần kỳ lắm, không thuộc vào hệ thống kinh mạch..."

Mẹ chàng cười mà rằng, "Họ dùng thủ pháp điểm vào các huyệt "Tâm kinh", "Linh đài", "Toản tâm" và "Âm giao", bất quá cũng thuộc vào ba mươi sáu đại huyệt lớn mà thôi! Họ nói là thần kỳ, chính ra chỉ là bịp bợm tuyên truyền mà thôi."

Mọi người, trừ Nhâm Vô Tâm, đều kinh dị, không hiểu sao công việc bí mật như vậy của đối phương mà bà già này biết rõ.

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Cù lão tiền bối! Thuốc giải mê của lão tiền bối ra sao?"

Cù Thức Biểu nói, "Kết quả có vẻ lạ lùng! Chúng tôi chế ra được ba thứ thuốc khác hẳn nhau, vậy mà kết quả lại giống nhau. Không hiểu sao lại thế!"

Lão cất tiếng gọi, "Hiệp Nhi! Tông Nhi! Vác đồ thí nghiệm ra đây!"

Hai đồng tử "dạ dạ" chạy qua cửa phòng bên. Giây lát sau, chúng lần lượt khiêng ra ba người đàn ông, người nào cũng cứng đờ ra như cái thây chết được hai ngày rồi. Ma Cà Pháp Vương tiến lên, nói với mọi người, "Lão nạp xin thí nghiệm nghề mọn."

Dứt lời, lão đưa tay đập liên tiếp hai chưởng lên mình ba cái thây kia. Đoạn lùi lại ngồi xuống ghế. Một phút sau, cả ba cái thây cùng mở bừng mắt ra, kế đó cùng vùng cả đứng lên một lượt. Mắt họ mất thần, trố ra nhìn ngó Ma Cà Pháp Vương. Ma Cà Pháp Vương chỉ dẫn cho mọi người rõ, "Người đứng mé bên phải là tay tướng cướp ở vùng Tề, Lỗ, hai người kế bên là thủ hạ của Nam Cung thế gia. Họ đều mất hết ký ức, thì dù nhảy vào nước sôi lửa nóng, hoặc bảo họ giết cả cha mẹ, vợ con, luôn cả tự sát, họ cũng nghe theo! Hà hà!"

Không nỡ để mắt nhìn thấy cái tình trạng "con người mất trí" tới cái độ ấy, Nhâm Vô Tâm vội giục, "Xin Pháp Vương cho uống thuốc giải mê ngay đi!"

Pháp Vương gật đầu, lấy trong túi ra ba chiếc bình nhỏ, màu sắc khác nhau! Giơ tay vẫy một cái, đại hán râu xồm đứng bên hữu lập tức bước lại gần. Pháp Vương há miệng ra. Đại hán cũng há hốc miệng ra. Pháp Vương sẽ vẫy tay, một ít nước màu đỏ trong bình theo tay vọt ra vào miệng đại hán. Hắn nuốt xuống đánh ực một cái. Đến lượt hai người sau, Pháp Vương không cần giơ tay vẫy ra hiệu. Hình như trong bụng Pháp Vương nghĩ sao thì họ đều làm theo như ý Pháp Vương đương nghĩ. Loáng cái, cả hai lần lượt được Pháp Vương cho uống thuốc ở hai chiếc bình xanh và đen. Thuốc "Tỉnh thần hồi ức thang" này tuy không giống như của Nam Cung thế gia, nhưng hiệu lực thần tốc! Phút chốc cả ba người cùng lao đao, hai tay ôm lấy đầu, thở hổn hển. Mọi người nhận ra rằng, riêng đại hán râu xồm, vì công phu võ nghệ còn kém nên bị sức thuốc quật cho lao đao, té xuống liền. Còn hai người kia chỉ bị lảo đảo, chệnh choạng vài bước, rồi đứng vững được và ký ức đồng thời khôi phục lại ngay. Hai người ngơ ngác nhìn quanh gian phòng, đều lộ vẻ kinh ngạc. Chợt người áo đen phía bên trái lùi bật lại hai bước, miệng la lên, "Nhâm Vô Tâm...!"

Người đứng giữa tuy cũng là thủ hạ Nam Cung thế gia, nhưng chưa từng gặp chàng bao giờ. Bất quá hắn cũng có nghe người ta nhắc nói đến chàng nhiều lần thôi. Lúc này, thần trí vừa khôi phục, chợt nghe đồng bạn nói lên ba tiếng "Nhâm Vô Tâm", hắn vội nhìn lên, bỗng quay phắt mình đâm đầu chạy.

Tiếng Tông Nhi quát lên, "Trở lại!"

Và lẹ như tên bay, nó vươn mình một cái đã vượt qua mặt đại hán, tay mặt đưa ra gạt một cái.

Bị cái gạt ấy, đại hán kia quay người đi nửa vòng, loạng choạng lộn trở về nguyên chỗ. Mẹ Nhâm Vô Tâm cười và khen, "Đứa nhỏ khá quá! Một ngọn "Bát vân kiến nhật" dùng rất đúng."

Quay lại nói với mọi người, "Công việc thí nghiệm thế là thành tựu, đều nhờ ở công đức các vị đã hy sinh tận tụy. Giờ đây, trời chưa sáng, xin để cho Tâm nhi đem thuốc giải mê đi để cứu mọi người. Chúng ta có thể quyết định một trận cuối cùng, càng sớm càng hay, để Pháp Vương cùng các vị lão tiên sinh đây trở về quê quán. Riêng về phần lão đây, hà... hà, đã có tính toán sẵn là nếu cần thì lão cùng mụ già Nam Cung phu nhân, cả hai cùng chết... Miễn là "thiên hạ thái bình" hà... hà!"

Nhâm Vô Tâm hơi tái mặt đi, nhưng vội trấn tĩnh ngay lại và nói, "Hiệp Nhi, Tông Nhi! Đem ba người này giam lại. Xong việc sẽ thả ra."

Hai đồng tử "dạ dạ" cùng phát chưởng, giơ tay điểm huyệt. Ba đại hán theo tay té xuống, bị hai đứa lần lượt vác lên vai đem qua phòng bên. Cù Thức Biểu trao ba bình thuốc giải mê cho Nhâm Vô Tâm. Ma Cà Pháp Vương mỉm cười nói, "Lão nạp ngứa ngáy tay chân, ý muốn cùng đi với Nhâm tướng công!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Được Pháp Vương giúp cho thì còn gì hơn!"

Cù Thức Biểu cười nói, "Lão hủ cũng cảm thấy ngứa nghề! Chỉ tiếc là không biết võ nghệ! Hà hà! Đành chịu!"

Mọi người cười vang cả lên. Liền đó mẹ con Nhâm Vô Tâm cùng Ma Cà Pháp Vương từ biệt mọi người, lên đường.

* * *

Nam Cung thế gia được gọi là Võ Lâm Đệ Nhứt Gia, đóng dinh ở một góc nhọn Độc sơn ngoài thành Nam Dương. Hàng vạn gốc bạch dương như tơ mành, bao trùm che kín những toà kiến trúc bao la hùng vĩ.

Bọn Nhâm Vô Tâm, lẹ như khói thoảng, lướt đi trên làn đồng cỏ hoang vu. Chỉ một lát sau đã tới phía ngoài rừng bạch dương.

Trăng sáng vằng vặc. Nhưng khinh công của ba người đều cao cường, nên cứ vững tâm tiến thẳng vào bên trong. Bà già, mẹ Nhâm Vô Tâm đưa tay dắt tay con, tiến lên trước. Ma Cà Pháp Vương theo sát nút. Nhờ mẹ Nhâm Vô Tâm thong thạo đường lối, và khinh công tuyệt đỉnh không chút gió động, cho nên quanh co, len lỏi, vừa tránh hết các ổ mai phục, canh gác, lại không chút tiếng động, cho nên đối phương không hay biết.

Một hồi sau, Ma Cà Pháp Vương cảm thấy đuối sức, mồ hôi thoát ra, bất đắc dĩ phải vận công công thở phào tiếp khí. Không ngờ chỉ có vậy thôi mà áo bào lập tức quạt gió "phạch phạch" nổi lên mấy tiếng. Lập tức mấy tay cao thủ nấp trong ổ mai phục đã lắng tai, để ý. Họ đều hướng theo phía có tiếng động.

Bà già lập tức rời tay con ra, rồi như một cái bóng ma lượn quanh lại một vòng. Thực là quái dị! Tám tay cao thủ ở các ổ phục kích, hầu như đồng thời bị điểm trúng huyệt đạo, té lăn cả ra, không ai kịp trở tay hoặc lên tiếng.

Ma Cà Pháp Vương thấy thủ pháp "Cách không đả huyệt" tuyệt diệu đến thế, bất giác thất kinh, bèn dùng lối "truyền âm nhập mật", vo ve như ong bay, hỏi vào tai Nhâm Vô Tâm rằng, "Trung Nguyên võ lâm đã có một bậc siêu phàm nhập thánh như Tôn lệnh đường thì Nam Cung thế gia sao có thể hoành hành được?"

Câu hỏi giản dị mà khiến chàng khó trả lời. Mẫu thân chàng chính là Lan Cô, người đã gây ra muôn vàn khủng khiếp, trước kia bị Nam Cung thế gia chi phối. Đó là điều bí mật, chưa thể giải thích ngay được. Chàng trầm ngâm, sẽ trả lời, "Theo gia mẫu nói thì võ công của Nam Cung phu nhân ngang tay với mẫu thân tại hạ. Cho nên không thể nói trước việc quyết thắng!"

Chợt bà già dùng truyền âm nhập mật, nói, "Thời giờ chẳng còn mấy nữa! Chúng ta phải lẹ lên!"

Dứt lời, bà già nắm tay chàng dẫn đi. Ma Cà Pháp Vương thận trọng theo sau. Dưới ánh trăng, chiếc cổng lớn sơn đen với tấm biển lớn "Võ Lâm Đệ Nhất Gia" đã hiện rõ. Phía sau là lâu đài đình tạ, không thấy có ánh đèn lửa chi hết!

Bà già lại vo ve nói vào tai hai người, "Qua cổng là bắt đầu sự canh phòng của ba mươi sáu vị Thiên Cang. Không rõ họ ở cả đây hay một phần ở lại nhà giam. Vậy hai người lẻn vào nhà giam thử giải mê cho số người trong đó. Nếu hành tung lỡ bị bại lộ, thì tức khắc chạy ra phía này, có ta ở đây cầm chân mụ già Nam Cung phu nhân. Tiện dịp ta sẽ đánh cắp luôn cả thuốc "Tỉnh thần thang" của mụ!"

Nhâm Vô Tâm nói, "Mẹ cũng nên cẩn thận! Việc báo thù không nên quá gấp!"

"Được rồi! Mẹ cốt trọng ở việc lớn! Việc riêng tư sá kể!"

Bà già ngừng một giây rồi nói tiếp, "Chú ý! Chớ để cho ba mươi sáu vị Thiên Cang vây khốn, thì hết đường thoát!" Dứt lời, chỉ loáng như cái bóng, bà già đã biết mất.

Hồi thứ năm mươi tám

Giữa phút mê hồn chạm trán thù nhân

Nhâm Vô Tâm cùng Ma Cà Pháp Vương vượt cổng vào trong. Chợt có tiếng bà già dùng lối "Phân âm nhập mật" vo ve gọi vào tai. Hai người cùng nghe rõ, "Coi chừng! Sau dãy giả sơn có người rình nấp!"

Hai người giật mình vội ngừng bước. Qua lùm liễu xanh, chỉ thấy bóng cây um tùm, ngoài ra không thấy gì khác. Hai người đưa mắt cho nhau, tự thẹn rằng võ công của mình còn kém bà già xa lắm. Một lúc sau, mới phát giác ra sau giả sơn có người. Nghe hơi thở ra của người ấy rất nhẹ mà dài, tưởng chừng như bất tuyệt, rõ ràng là một tay nội công rất cao siêu.

Đợi một lát, một trận gió thổi qua, cành lá rung động, xào xạc. Nhâm Vô Tâm thừa dịp sẽ giật tay Ma Cà Pháp Vương. Hai người như hai lằn khói bay tới sau một gốc hoè lớn, thoắt cái đã cùng vượt qua dãy tường cao vào trong sân mé bên. Hai người nép mình vào tường, đưa mắt cho nhau, cùng ra vẻ khâm phục, kinh hãi!

Nơi đây không những phòng ốc, lầu các, cổng ngách trùng điệp, mà đường lối, cửa ngõ đều có vị trí đặt theo phương hướng của "kỳ môn độn giáp biến hoá". Lại thêm từng quãng một có đặt cơ quan, cạm bẫy, ổ canh, hào hiệu. Cũng may là Nhâm Vô Tâm đã từng có lần đi ngang qua đây, thuộc lối, khinh công của hai người đều cao siêu, cho nên len lỏi vào được tới chỗ nhà giam "Mê hồn". Hai người ngừng bước, vận công điều khí. Chợt Nhâm Vô Tâm giật mình sẽ nói, "Hành tung của chúng ta bị lộ rồi! Họ cố ý mặc cho ta vào tới đây, chính là lừa ta vào bẫy. Ở đây bố trí như lưới trời, võng đất, trừ mẹ tôi thuộc lối, thêm khinh công lẹ như vô hình tuyệt tích thì mới tránh được mắt họ."

Ma Cà Pháp Vương nói, "Phải chăng Lệnh đường đã ra tay chế phục các ổ phục kích? Dù chẳng thế nữa thì càng hứng thú. Lão nạp ở Thiên Trúc chưa gặp địch thủ. Lần này nếu gặp hung hiểm, càng thêm hào hứng, dẫu mất mạng cũng khoái!"

Nhâm Vô Tâm cười, giơ tay mời, "Đại sư cao hứng như thế, thực là thú vị! Vậy thì chúng ta cứ tiến!"

Vào con đường hầm xây bằng đá, tối đen như mực. Tuy nhiên với con mắt tinh luyện, hai người vẫn nhìn thấy được mọi vật. Đi một lúc, tới chỗ tận cùng, thì lại chia ra làm hai ngả. Nhà giam "Mê hồn" ở cuối con đường phía bên trái. Nhâm Vô Tâm toan tiến thẳng tới nhà giam, nhưng chợt phát giác ra rằng, ở đường bên phải, ẩn hiện có hai cái bóng người ăn vận áo dài. Hai người lập tức nép mình vào vách đá.

Quãng đường lặng ngắt. Hai cái bóng kia cứ đứng yên không chút động cựa. Sự yên lặng tới quá lớn, gây nên một không khí ghê sợ, khủng bố trong đường hầm. Ma Cà Pháp Vương truyền âm nói, "Có vẻ chúng ta bị lừa vào cạm bẫy thực sự!"

Nhâm Vô Tâm cũng dùng lối truyền âm trả lời, "Họ yên lặng như vậy, hẳn là đã có người ngầm chỉ huy các ổ mai phục. Hai người kia có vẻ là nội gia cao thủ trong bọn Thiên Cang. Chúng ta phải đồng loạt... ra tay!"

Hai người kia đứng nép vào vách, vốn là chỗ kín đáo. Không ngờ bị Nhâm Vô Tâm và Pháp Vương nhận ra, vả lại dùng lối "phản khách vi chủ" chiếm tiên cơ, lẹ như chớp điện, vọt tới đánh trước. Trong khi bất ý, hai người kia chỉ kịp đưa tay đánh bừa ra một chưởng. Ma Cà Pháp Vương võ công cao, gan mật lớn, tay trái quèo ra chặt mạnh vào cổ tay hắn, tay mặt dựng lên, thi triển "đại thủ ấn" công phu của phái Mật Tông định tống một quả đấm vào giữa nắm tay của người thứ hai...

Giữa lúc hai nắm tay sắp chọi vào nhau ấy thì Nhâm Vô Tâm từ phía sau vọt đến. Lẹ như chớp điện, chàng luồn qua nách Ma Cà Pháp Vương, cánh tay vượn buông ra, thi triển "cầm nã pháp" đi trước nắm tay Pháp Vương mà chộp vào cổ tay người thứ hai. Thực là một đòn xuất kỳ! Sở dĩ chàng làm như vậy là tránh cho hai nắm tay của hai người khỏi chọi vào nhau, sợ rằng phát ra tiếng động dậy đất sẽ lôi cuốn toàn bộ số Thiên Cang kéo tới bủa vây thì khốn to.

Trong đường hầm tối, hai bên giao tranh, phần nhiều là nghe gió để phân biệt vị trí với đòn của đối phương. Người mặc áo bào kia, yên trí là hai nắm tay sẽ chọi vào nhau, không ngờ vụt một cái dưới nách Ma Cà Pháp Vương bỗng lại thò ra một cánh tay nữa chộp tới. Hắn giật mình, vội chùn vai thâu chưởng lại. Chỉ nghe "soạt" một tiếng, ống tay áo của hắn đã bị ngón tay của Nhâm Vô Tâm vạch phải, xé đứt ra một nửa.

Trong đêm tối đột nhiên rít lên một tiếng còi tuy tiếng không lớn nhưng chói tai, rùng mình lên được. Hai người áo dài kia thừa cơ nhảy vọt ra ngoài ba trượng, nhẹ nhàng không chút tiếng động.

Ma Cà Pháp Vương nói, "Tiếng còi ấy từ đâu phát ra? Tựa hồ như để điều khiển hai tên áo dài nơi đây."

"Tại hạ nghe như nó từ trong "Mê hồn lao" phát ra. Vậy ta còn đợi gì một không tìm vào đó." Nói xong, chàng liền đi về phía bên trái.

Ma Cà Pháp Vương nói, "Lão nạp là Pháp Vương của Thiên Trúc, địa vị và danh phận cao quý. Vậy mà đêm hôm lại đi lén lút thế này ư? Nay hành tung đã bị đối phương phát giác rồi, thì cứ việc công khai đường hoàng mà làm. Tướng công có đem theo mồi lửa đó không?"

Nhâm Vô Tâm cười và nói to lên, "Tại hạ không dắt theo mồi lửa. Nếu có thì đã bật lửa lên từ nãy kia rồi!"

Chàng vừa dứt lời thì trước mặt bỗng có ánh sáng loé ra ngay. Một thiếu nữ áo sắc tía, nhan sắc xinh đẹp, tay giơ cao ngọn đuốc, xuất hiện ở cuối lối đi cách ba bốn trượng. Sau lưng nàng là cánh cổng sắt nhà giam. Nàng đứng đó như vẻ soi đường, đón tiếp khách.

Nhâm Vô Tâm vọt lên trước. Thấy nét mặt nàng lạnh như băng đá, chàng cười và hỏi, "Tại hạ là Nhâm Vô Tâm, xin cô nương cho biết quý tánh danh?"

Thiếu nữ lặng yên không trả lời, nhưng má hơi đỏ lên. Ma Cà Pháp Vương nghĩ bụng cười thầm rằng, "Chàng công tử phong tư tài mạo tuyệt vời, hé miệng cười là duyên dáng, hèn chi cô ả kia chẳng... đỏ mặt động tâm." Vừa nghĩ tới đó thì cánh cửa nhà lao Mê hồn tự động rít lên, hé ra chừng hơn hai gang rồi ngừng lại.

Nhâm Vô Tâm vốn là tay "gan mật trùm cả người", không chút do dự, sẽ ra hiệu cho Ma Cà Pháp Vương rồi cất bước tiến vào liền.

Ma Cà Pháp Vương mỉm cười, rộng bước tiến theo.

Đợi Nhâm Vô Tâm vào qua cánh cổng rồi, thiếu nữ bỗng quay mình ngăn Pháp Vương lại. Pháp Vương cười hà hà nói, "Chúng tôi hai người cùng là khách. Tại sao cô nương biệt đãi..."

Thiếu nữ cất giọng lạnh lùng nói chặn đi, "Đại sư là cao tăng nước ngoài! Cớ sao can thiệp vào việc Trung Nguyên nội bộ chúng tôi?"

Chưa kịp trả lời, bỗng nghe tiếng cửa sắt chuyển động khép lại. Pháp Vương nghĩ bụng "Hỏng to rồi...! Một người bị nhốt bên trong, một người ở ngoài..." Không cần biện bác gì nữa, Pháp Vương vươn mình, qua đầu thiếu nữ, cánh tay to lớn đưa ra, đẩy mạnh một cái. Cánh cửa nặng hàng mấy ngàn cân, bị một sức đẩy mạnh bằng mấy chục tấn, theo tay mở rộng ra liền. Thiếu nữ thất kinh tái mặt, nhưng chỉ nửa giây phút trấn tĩnh trở lại, nhoẻn miệng cười, dịu dàng giọng và hỏi, "Nghe đồn Thiên Trúc có Du Già thuật, không sợ gươm, đao, nước, lửa. Đại sư là cao tăng Thiên Trúc, hẳn là tinh thông phép đó..."

Chưa dứt lời, nàng đưa bó đuốc dí vào ngực Pháp Vương. Hai người cách nhau chỉ một thước. Cánh tay Pháp Vương lúc đó đương với qua đầu nàng để đẩy cánh cửa, nên không kịp đề phòng, áo cà sa bằng tơ, bắt lửa cháy luôn. Pháp Vương nghe nói, thực là cười dở, khóc dở, một tay vẫn giữ cánh cổng cho khỏi đóng lại, miệng thì giải thích, "Lão nạp không sợ lửa... Nhưng... hà hà! Cô nương chớ thiêu trụi cả y phục của lão nạp đi... ha ha! Thì khó coi lắm...!"

Thiếu nữ vừa giật mình, vừa đỏ mặt lên. Lập tức đứng xa ra một chút, đưa ngọn đuốc dụi vào bộ râu xồm của Pháp Vương. Một quái tượng hiện ra, ngọn lửa liếm chòm râu, tàn lửa toé ra như sao đóm, trông rõ cả thớ thịt, vậy mà râu không hề gì cả!

Thiếu nữ thất kinh "ủa" lên một tiếng. Pháp Vương đề chân khí, phì ra một chuỗi cười. Lửa trên áo cà sa, luôn cả ngọn đuốc lập tức bị tắt ngấm, cả một khu vực chìm vào đen tối. Quả tình lúc đó, thiếu nữ định đánh lén ra một đòn thọc nách, nhưng chợt lại nghĩ, lão cao tay một tay giữ cánh cửa mà vẫn cười nói tự nhiên được thì công lực của lão siêu phàm dễ gì tập kích nổi lão.

Pháp Vương thấy Nhâm Vô Tâm tiến vào nhà giam rồi im lặng, khác nào như cục đá chìm xuống biển, bèn gọi to lên, "Tướng công! Nhờ tướng công tống cổ con tiểu nha đầu này đi!"

Tiếng chàng truyền ra, "Đại sư không nên quá từ bi! Cho nó một chưởng là xong chuyện!"

Pháp Vương nói, "Không phải là vấn đề từ bi! Chỉ e anh em võ lâm chê cười cho...!"

Thiếu nữ khen ầm lên, "Chí lý! Ma Cà Pháp Vương là bậc tiền bối, địa vị cao quý mà lại giang tay đánh đập một... một thiếu nữ yếu..."

Hai tiếng "yếu ớt" chưa ra khỏi môi son, thì ngón tay ngọc của nàng đã như mũi dùi thép đâm thục vào "kỳ môn huyệt" của Pháp Vương.

Ma Cà Pháp Vương cười nói, "Té ra nha đầu cũng biết lão nạp là ai rồi!"

U môn kỳ huyệt ở dưới vú một tấc rưỡi. Bị điểm trúng thì chết ngay không kịp ngáp. Thiếu nữ ra tay lẹ, điểm rất trúng, không ngờ da thịt lão dầy, lại nhuyễn như bông gòn, ngón tay nàng ngập lút hẳn vào. Nàng vội rút ra những tay như bị ăn rễ vào, không tài nào thoát. Thiếu nữ vung tay trái lên, định ra một chưởng, nhưng mới nửa vời đã cảm thấy kiệt lực, mềm cả gân xương, tự nhiên tay buông thõng xuống.

Chợt bên trong có tiếng con gái trong trẻo nói, "Nhâm Vô Tâm! Tới bước này, ngươi hãy giở lối côn đồ, võ phu ra một chút xem sao!"

Nhâm Vô Tâm trả lời, "Một chọi một, ngươi địch không nổi ta! Nói chi đến du côn với côn đồ!"

Nàng cười nhạt nói, "Hừ! Việc đời biến hoá, biết đâu liệu trước được. Nếu ngươi tự tin là thắng thì sao còn phải thêm người giúp sức. Ngươi nghĩ lại xem, nếu ở đây đặt mai phục, thì dù ngươi có thêm một tay giỏi vào giúp sức nữa, cũng là uổng... thôi!"

Nhâm Vô Tâm cười vang lên, gọi vọng ra ngoài, "Cảm phiền Pháp Vương trấn giữ nơi cửa vào! Khỏi cần vô đây!"

Pháp Vương nghĩ thầm, "Tướng công lúc nào cũng có thái độ phong lưu. Ở ngay trong ổ địch mà cũng rắc rối... lôi thôi!"

Nghĩ tới đây, tay mặt lão thu lại, quay mình đi, vận khí sẽ phềnh bụng ra một cái đẩy bật thiếu nữ ra xa đến bảy tám bước, may ôm được một cái cột, khỏi té. Nàng sợ run bắn người lên, nhưng vì chưa có lệnh chủ nhân, nên không dám bỏ trốn.

Chợt "ầm" một tiếng, cửa nhà giam đóng ập lại. Pháp Vương giật mình, vội nhảy tới dùng cả vai tận lực đẩy ra. Nhưng phía trong then chốt tự động cài rồi, dù sức voi cũng không lay chuyển nổi...!

Nhà giam đây là một toà nhà rộng lớn, tứ bề toàn là đá, với từng hàng từng dãy quan tài. Giữa nhà là một cái ao, hơi nước lạnh buốt xông lên. Cánh cửa sắt đóng ập lại, lập tức có ánh loé ra. Một nữ lang tuyệt sắc, tóc buộc bằng giải lụa trắng mỏng, mình mặc áo trắng, tay cầm mồi lửa giơ lên châm vào ngọn đèn gắn trên vách.

Nàng cử chỉ ung dung, khoan thai đi quanh một vòng, châm lửa vào mấy chục ngọn đèn, trong chốc lát, toà nhà đá sáng trưng hẳn lên.

Nhâm Vô Tâm đứng dựa vào cánh cửa nhìn theo gót sen yểu điệu, bóng dáng thướt tha. Chàng đương mỉm cười, bỗng hơi cau mày, bật lên nói, "A! Điền cô nương!"

Thiếu nữ nói chặn lời chàng đi, "Ta là vợ goá Nam Cung Thọ! Kêu ta là Ngũ phu nhân mới đúng!"

Nàng nói giọng lạnh lùng, lại bận toàn đồ trắng mỏng, khiến chàng có cảm giác như đứng gần chỗ băng đá, môi chàng tự nhiên cứng lại, nụ cười duyên dáng vụt biến mất. Đợi nàng bước tới bên bờ ao, vén tay áo, cánh tay trắng muốt thò xuống ao, kéo lên một chuỗi xích sắt mỗi vòng lớn bằng hột trứng ngỗng. Tay mặt rút ra một lưỡi dao găm đặt lên dây xích cứa ngang một cái. Chỉ nghe một tiếng rít lên, dây xích bị cắt ngang, một phần thụt chìm xuống ao, phần còn lại trên tay dài độ hơn một thước.

Nhâm Vô Tâm cười nói, "Ha ha! Ngươi định trói ta bằng dây xích...?"

Chưa dứt câu hỏi thì từ trên nóc nhà có vật gì lăn ầm ầm, loáng cái tiếng động như sấm, rung chuyển dậy đất.

Pháp Vương ở ngoài hỏi, "Nhâm tướng công a! Tiếng chi dữ vậy?"

Ngũ phu nhân lạnh lùng nói, "Giữa đỉnh đầu xuống kia!"

Chàng cảm thấy một luồng gió mạnh áp xuống đầu, vội vọt mình nhảy bắn qua một bên, tai nghe "ầm" một tiếng, đất rung như ưỡn mình lên. Một khối sắt nặng bằng mấy chục ngàn cân rớt xuống bịt kín cả cổng nhà giam. Chàng tái mặt, hai tay lẹ như chớp chộp lấy vai Điền Tú Linh và hỏi, "Nói mau! Định giở trò gì?"

Nàng không phản kháng, vẻ mặt trấn tĩnh, giọng càng lạnh lùng, "Chốc lát, đường hầm sụp đổ, lối ra bị tắt. Nhà giam này bị chôn vùi dưới đất sâu. Dù bậc Đại la Kim tiên cũng đành bó tay..."

Nhâm Vô Tâm vội đề khí, gọi ra phía ngoài, "Ma Cà Pháp Vương! Mau thoát ra khỏi đường hầm!"

"Ngươi dù có kêu đến vỡ phổi, phía ngoài cũng chẳng nghe tiếng. Hơi sức đâu lo thay cho người! Hãy lo cho bản thân đã!"

Chàng nổi giận, lật bàn tay tát "bốp" một cái. Năm đầu ngón tay in đỏ lên trên má Điền Tú Linh. Nàng không cau mày, thản nhiên đưa nốt má bên kia mà rằng, "Ngươi cứ đánh đi! Bất quá cả hai đứa rồi sẽ chôn xác nơi đây! Chẳng cũng tịch lắm sao! Vậy đánh nữa đi, cho vui!"

Nói tới đây, nỗi lòng xúc động, nàng nấc lên một tiếng, nước mắt trào ra, từng chuỗi hạt châu lóng lánh, lăn trên đôi má phấn. Chàng tức quá, gằn giọng gắt, "Điên hay sao? Nói mau!"

Tiếng động mãnh liệt, long trời chuyển đất. Cả toà nhà đá rung lên, nước ao phọt sóng, hàng mấy chục chiếc quan tài bật nắp, xô lăn đi ra một phía. Điền Tú Linh như không để ý gì đến những biến cố ấy. Đôi mắt nhung mơ màng như thơ như mộng, nàng lảm nhảm nói, "Hồi tưởng lại lần ấy... chúng ta bôn ba hàng vạn dặm. Anh bị trọng thương, gần chết. Em hầu hạ thuốc thang như thế nào nhỉ? Vậy thì... một cái tát có ý nghĩa gì... Em chỉ mong anh... tát... tát nữa...!"

Nhâm Vô Tâm bấm chặt tay xuống, rung mạnh vai nàng rồi trầm giọng mà rằng, "Tú Linh à! Ta đâu có sợ chết! Khổ một nỗi ta còn mẹ già, thân thế lai lịch ta ra sao, thực ta chưa rõ, trên giang hồ còn lắm việc chưa kết liễu, khiến ta chết đi mà không nhắm được mắt."

Nước mắt chan hoà đầy mặt, nàng lắc đầu nói, "Muộn quá rồi! Đường hầm sụp đổ! Đằng nào thì cũng chết! Nhưng em chỉ cầu được chết do một chưởng của anh... Đánh đi!"

Nhâm Vô Tâm lạnh tái cả mặt đi, hàm răng đập vào nhau. Đột nhiên chàng cúi xuống lượm lưỡi dao găm lên, đặt vào tay nàng mà rằng, "Chắc chắn là chết ở đây! Được lắm! Vậy xin nàng đâm cho ta một nhát, rút nhẹ được phiền não trong lòng...!"

Tay cầm lưỡi dao, mắt nàng nhìn vào lồng ngực thở căng lên của chàng. Chàng hăng hái chỉ tay vào ngực, nói, "Đâm vào đây! Mau! Chậm trễ, ta nổi hung lên sẽ đập nàng chết không kịp ngáp!"

Nàng thổn thức nói, "Em giết anh đi! Anh giết em đi! Bất quá cũng vậy mà thôi, có gì khác đâu! Đằng nào chúng ta cũng chôn xác nơi đây!"

Chàng gay gắt nói, "Sớm chết! Sớm được đầu sanh! Giết mau!"

Cầm con dao, dí sát tận ngực chàng, nàng thong dong nói, "Từ sau khi lìa khỏi nơi Tử Cốc, không biết bao phen em quyết ý mổ bụng anh ra, để coi xem có tim, gan hay không!"

"Ta là kẻ không tim, gan chi hết! Nhiều lời, mất thì giờ! Đâm mau!" Vừa nói chàng vừa nhô hẳn ngực ra.

Điền Tú Linh giật mình "a" lên một tiếng, lưỡi dao rớt xuống đất kêu loảng xoảng, "Anh này nói giọng... tức khí...!"

Chàng nghiến răng, giơ tay lên định tát, thấy nước mắt nàng chan hoà đầy mặt như đoá hoa lên đầm đìa giọt mưa, tay chàng bỗng mềm ra, từ từ buông xuôi xuống. Chàng nghĩ thầm, "Thôi rồi! Thế là hỏng...! Đại trượng phu coi chết như không...! Cớ sao... phụ bạc với...!"

Nghĩ tới đây, bỗng nhiên tay chàng vươn ra, nắm chặt lấy cánh tay nàng, bốn mắt nhìn nhau không chớp. Cả hai cùng nghẹn ngào, thổn thức.

Hai người cùng ngồi xệp xuống đất... Một hồi lâu, chàng sẽ gọi, "Tú Linh à! Anh khát nước quá! Uống nước ao này được chăng?"

Nàng gục đầu vào ngực chàng sẽ nói, "Nước ao uống ngọt! Nhưng biết đâu Lão phu nhân ở đây chẳng đã cho thuốc độc vào rồi!"

Chàng cười nói, "Đằng nào cũng chết! Uống chớ sợ gì!"

"Em khóc thêm một trận! Đủ nước mắt cho anh giải khát!"

Thấy chàng gật đầu, nàng phì cười, vùng đứng lên, chạy tới bên ao, vọc hai bàn tay lấy nước nếm thử, rồi quay lại gọi, "Ngọt lắm! Uống được! Không chết đâu! Lại đây...!"

Hai tay nàng lại vục xuống lấy nước.

Nhâm Vô Tâm chạy tới, cúi đầu uống một ngụm nước trong tay nàng. Nàng hỏi, "Có ngọt... có thơm không?"

Kỳ thực thì nước sặc mùi bùn hôi, cũng chẳng ngọt gì. Uống vào khỏi họng muốn nôn ra, nhưng chàng cố nuốt, đoạn cười mà rằng, "Ngọt lắm... Thơm lắm!"

Nàng cười, vục thêm nước vào tay đưa lên, "Uống ngụm nữa cho đã đời...!"

Chàng vừa cười, vừa uống thêm một ngụm nữa, "Thực ra thì..."

Nàng hỏi, "Thì sao?... Nói mau!"

Chàng vội nuốt, vừa sặc, vừa nói, "Thì... thì... nước chẳng thơm ngon gì... Hoạ chăng chỉ có... bàn tay ấy thơm... mà thôi!"

Một cái "cốc" bằng trời giáng xuống đầu chàng, nàng lườm và nói, "Nước hôi thế mà cũng... uống! Có độc đấy...!"

Hai người ôn tồn quấn quýt một hồi. Chợt nhớ ra mình đương ở nhà giam, chàng hỏi, "Tú Linh à! Có thật nơi đây không còn lối nào khác để ra chăng?"

Nàng chớp chớp mắt nói, "Không còn lối nào khác! Anh có oán em không?"

Chàng thở dài, "Tới nước này, nói chi đến oán hận! Chà! Chí lớn chưa thành, thân chết tốt. Bước cùng nghĩ lại xót xa lòng!"

Điền Tú Linh nghe nói, bỗng oà lên khóc, "Trước kia em căm hận, chỉ muốn giết anh đi! Nhưng nghĩ lại, chỉ muốn cả hai cùng chết! Ai ngờ... anh... anh đã đổi... đổi ý... Biết vậy thà..." Nàng gục đầu vào ngực chàng, "... Thà một mình em chết... chớ không nỡ hại... hại anh."

Chàng sẽ vuốt mái tóc nàng, sẽ thở dài, "Té ra yêu với giận chỉ là một lý..."

Chàng mỉm cười nói tiếp, "Thôi khóc mà chi! Nước mắt người đẹp... anh không chịu nổi...!"

Tuy đeo cái tên gọi là một góa phụ, kỳ thực thì Điền Tú Linh với Nam Cung Thọ chưa hề sống với nhau là vợ chồng. Thế mà Nhâm Vô Tâm với Điền Tú Linh bữa nay là lần đầu tiên trong đời được thưởng thức cái hương vị ái tình.

Nàng bỗng gạt làn tóc mây, ngẩng mặt lên hỏi, "A! Anh nói đi! Nếu như vạn nhất, chúng ta ra khỏi nhà giam này, thì anh còn yêu em nữa chăng?"

Chàng cười trả lời, "Anh không phải là kẻ giả dối! Trước kia anh có điều không tốt đối với em, nhưng chưa hề lừa dối em!"

Nàng nguẩy vai, nói, "Em chỉ hỏi anh có yêu hay không?"

Chàng xác định, "Đã yêu rồi thì sống chết không đổi!"

Điền Tú Linh hỏi, "Anh có thể... có thể lấy em làm vợ chăng?"

Chàng ấp úng nói, "Về lễ giáo thì... không thể được!"

"Không có gì là trái với lễ giáo cả! Ngay từ nhỏ Nam Cung Thọ coi em như cừu thù. Em chưa từng lấy ai! Người ta chụp lên đầu lên cổ em cái danh nghĩa là quả phụ!"

Chàng cười một cách đau khổ rồi tiếp, "Em nói phải lắm! Chỉ đáng tiếc là chúng ta không ra khỏi đây nữa thì muôn việc đều... uổng cả!"

Nàng oà lên khóc, "Em chỉ hỏi anh "có lấy em không?" Thế thôi!"

Chàng vội gật đầu, lau nước mắt cho nàng và nói, "Nhất định lấy! Ra khỏi đây, nếu xong được mọi việc, chúng ta sẽ đưa nhau đi sống ở một nơi hẻo lánh, luôn cả việc võ nghệ cũng không bàn nhắc đến nữa."

Mắt sáng lên như điện, nàng nở một nụ cười sung sướng, vội nắm tay chàng lôi kéo đi mà rằng, "Chúng ta hãy mau dò xét xem, còn lối nào ra thoát chăng?"

Hai người đi tới chỗ cổng sắt, chàng dồn nội lực vào đôi cánh tay, lay đẩy khối sắt nặng hàng mấy vạn cân. Khối sắt đứng ỳ ra không nhúc nhích.

"Để em thử coi phía ao nước xem!"

Nói rồi nàng chạy tới bên ao, vén đôi ống tay áo lên, thò tay xuống mò khoắng. Nhâm Vô Tâm thì lần theo vách đá, đưa tay lên gõ, lắng tai nghe xem có chỗ nào rỗng bên trong không.

Một hồi lâu, hai người bỗng ngừng tay, bốn con mắt nhìn nhau thất vọng... Điền Tú Linh bỗng khóc oà lên, nhào vào lòng chàng, nức nở mà rằng, "Em muốn sống! Không thể để anh chết được!"

Chàng mỉm cười, nói với giọng thản nhiên, "Yêu thì muốn cho sống! Ghét thì muốn cho chết! Thiên hạ sự đâu có thể muốn sao được vậy! Thôi! Chớ khóc! Hãy bình tĩnh nghe đây! Nhà ngục này do ai xây cất?"

Nàng trả lời, "Không rõ! Chỉ biết rằng nó ăn ngầm vào lòng núi. Trừ lối cổng sắt có đường hầm thì không còn lối nào khác."

Chàng vừa nói vừa đưa tay vuốt má nàng, "Ăn ngầm trong núi? Thế có nghĩa là với sức đôi ta không thể nào phá ra nổi! Nếu như chính Nam Cung Lão phu nhân mà muốn cứu em ra thì phải mất bao nhiêu thời giờ mới khai thông được con đường hầm ra."

"Đường hầm khá dài, nay đổ sập cả rồi. Nếu muốn khai quật lên để có lối vào, thì phải nhiều người và lâu chừng mười bữa nửa tháng. Trong khi đó thì chúng ta chết khô cả rồi... còn gì!" Ngưng một vài giây, nàng lắc đầu nói tiếp, "Em đã uống thuốc độc của Lão phu nhân rồi! Nếu bà ấy lại biết rằng chúng ta đã hoà hợp với nhau, tất nhiên là giết ngay em đi... Còn nói chi đến bà ấy sẽ cứu em ra khỏi đây!"

Chàng mỉm cười nói, "Toà nhà đá này kiến trúc khá kỳ! Có độc một lối vô, mà cửa lại gài đóng từ phía trong. Phải chăng chủ nhân định dùng để... tự sát?"

Nàng nói, "Đúng thế! Lão phu nhân từng nói rằng Nam Cung thế gia gây nên nhiều kẻ thù oán quá. Nếu một khi thất bại thì chỉ còn một đường cùng là rút lui vào đây. Nhờ ở lối kiến trúc với máy móc bí mật, có thể chơi một đòn cuối cùng là làm sập đổ cả xuống cho cả hai bên cùng chết!"

Chàng phá lên cười, "Ha... ha! Em chưa được bà ấy cho phép dùng nơi đây và việc tự sát với giết anh. Vậy mà dám tự tiện dùng trước ư? Đến lượt bà ấy cần tự sát cùng với kẻ thù thì sao? Hết chỗ... rồi! Ha ha... ha!"

Điền Tú Linh khóc tru tréo lên, "Tới bước đường cùng... hết sống... mà anh còn vui cười gì!"

Chàng cười sằng sặc, "Ha ha! Người ta nói "Chết dưới bông hoa đẹp thì cũng sướng một kiếp"! Anh nay có chết cũng đáng đời!"

Hào tình, hùng khí, coi chết như không, bồng bột lên trong chốc lát. Chợt nghĩ đến mẹ già không rõ bị nguy hiểm ra sao? Nếu biết rằng chàng chết ở đây, thì mẹ chàng đau khổ!

Nghĩ vậy, chàng trở lại buồn thảm. Hai người lặng lẽ nhìn nhau qua lằn nước mắt... Chừng một giờ sau, hai người mỏi mệt, cùng lăn ra ngủ... Lại nửa giờ... một giờ... Bỗng nhiên bức vách đá từ từ hé. Một bà già, vẻ mặt từ ái, mình khoác áo lông đen hiện ra. Nhâm Vô Tâm mừng quá, vội chạy lại, rú lên, "Mẹ!"

Mẹ chàng sẽ đặt tay lên môi ra hiệu bảo lặng im, và nắm lấy tay chàng kéo đi. Chàng cuống lên, nói, "Còn Tú Linh cô nương? Con phải..."

Chàng vừa há miệng định kêu gọi Tú Linh dậy thì mẹ chàng đẩy mạnh một cái. Chàng chỉ kịp quay đầu lại nhìn, thì cửa ngầm trên vách đá đã đóng ập lại, tai chỉ nghe tiếng mẹ chàng nói, "Nó là một quả phụ của Nam Cung thế gia! Ta phải tránh xa thì hơn!"

Đường hầm tối như đêm. Mẹ chàng lôi kéo chàng đi, quanh co khúc chiết, qua bao nhiêu ngả bí mật. Một hồi lâu như bay trên mây khói, chợt có ánh sáng trước mặt. Chàng nhận ra đã qua hết đường hầm rồi. Tai nghe tiếng người xôn xao, rồi tiếng hoan hô, tiếng gọi "Nhâm Vô Tâm... Nhâm tướng công..." dậy lên như sóng...

... Trên một bãi rộng, người đứng chen nhau đông như kiến. Đưa mắt một cái, chàng nhận ra ngay một số những nhân vật võ lâm chính yếu, Ma Cà Pháp Vương, Tam Lão trong Cái Bang, Đường lão thái, Huyền Chân đạo trưởng xuất lãnh toàn thể phái Vũ Đương. Ngoài ra lại có Tứ Hổ trong phái Trường Bạch, Phá Vân Thất Tiên vùng Quan Đông, Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn, Thanh Thành... đủ mặt chín môn phái lớn của võ lâm.

Về phía bên Nam Cung thế gia có Trình Ngọc Ngạc phu nhân, Nhị phu nhân, và Tam phu nhân Thường Tố Ngọc, ba mươi sáu vị trong hàng Thiên Cang, bảy mươi hai vị trong hàng Địa Sát. Tất cả ăn vận áo bào dài sắc đen, đầu và mặt đều trùm tấm the mỏng đen, đầy vẻ thần bí khủng bố.

Phía sau những hàng người đứng trên là một rừng người kể có hàng ngàn, hàng vạn đều là nhân vật võ lâm.

Tiếng hoan hô rầm cả hang núi, bỗng nhiên chấm dứt. Trong nháy mắt, rừng người dẹp ra, nhường một lối đi cho mẹ con Nhâm Vô Tâm tiến lên. Rồi Huyền Chân đạo trưởng bước ra đón tiếp, cất lớn tiếng mà rằng, "Xin mời Tướng công đăng đàn tuyên ngôn. Mọi người đương phẫn khích cực độ... cơ hồ..."

Nhâm Vô Tâm gật đầu, thung dung bước lên một bước, cung kính cúi đầu chào mọi người, đoạn quay sang vòng tay thi lễ với Nam Cung Lão phu nhân, rồi lớn tiếng nói, "Lão phu nhân! Tự mình tạo thành kiếp nạn giang hồ, làm khích động lòng công phẫn của giới võ lâm! Bữa nay giải quyết ra sao, đều do ở một lời của Lão phu nhân định đoạt!"

Nam Cung phu nhân vênh mặt lên, lạnh lùng mà rằng, "Ân với oán trong võ lâm, không giải quyết bằng lời nói được. Chỉ có một lối giải quyết là mạnh thì sống, yếu phải chết..."

Ba chữ "yếu phải chết" vừa nói ra, lập tức tiếng la hét nổi lên như sấm. Có tiếng quát, "Trình Ngọc Ngạc! Chớ nói càn. Thiếu Lâm ta quyết đạp tan sào huyệt của ngươi thành đất phẳng!"

"Ngươi hãm hại Chưởng môn phái Nga Mi ta... thì phải..."

Tiếng Diệu Vũ thét lên, lẫn với tiếng nhiều người la hét, "Không cần lôi thôi nhiều lời! Đập chết mụ Nam Cung phu nhân đi đã!"

Vụt cái, từ trong rừng người vọt ra một thiếu nữ tuyệt sắc, chỉ tay vào mặt Nam Cung phu nhân, "Trình Ngọc Ngạc! Mau thả Trung Nguyên Tứ Quân Tử ra. Diệp Sương Y này quyết liều mạng với ngươi!"

Dứt lời, trường kiếm vung lên chém xuống.

Trình Ngọc Ngạc quát lên, gậy tre đánh ra, "Nhãi con! Muốn chết!"

Cả một rừng người dao động. Thiên Cang, Địa Sát xông ra ứng chiến với chín môn phái võ lâm. Nhâm Vô Tâm vừa đánh gạt vừa la lên, "Xin quý vị hãy ngừng tay! Còn phải nói chuyện nhiều!"

Tiếng chàng lạc đi trong tiếng quần hào la hét lẫn với tiếng gươm, đao v.v... xung kích. Bỗng có một tiếng rú rùng rợn. Một chiếc đầu lâu có trùm mảnh the đen từ lưng chừng trời rớt xuống, máu tươi đầy mặt chàng. Chàng giật mình, bỗng thấy nơi gáy mình bị Nhị phu nhân chộp đúng. Chàng thét lên một tiếng, đề khí vận công bế huyệt, đồng thời hai cánh tay văng trở lại... Chợt bên tai có tiếng Điền Tú Linh thất thanh gọi, chàng bừng mắt ra, ngơ ngác ngó quanh. Chỉ thấy Điền Tú Linh đương léo nhéo, "Tâm kha! Mê hoảng chi... mà la hét dữ vậy! Làm em hết hồn...!"

Chàng uể oải thở dài, "Ôi! Một ác mộng! Đại huyết chiến...!"

Chợt nhận ra hai má nàng đỏ cháy lên, hơi người nóng rực, chàng giật mình hỏi, "Điền muội! Thấy trong người... ra sao? Chất độc... phát rồi chăng?"

Đôi mắt say sưa, nàng nhìn vào tận mặt chàng, nở một nụ cười thắm thiết, sẽ nói vào tận tai, "Em cũng vừa qua một giấc mộng...! Chúng ta ẩn cư ở một nơi... sơn thuỷ hữu tình... làm lễ tổ tiên..."

Nói tới đây nàng đỏ mặt lên như gấc, im bặt mất.

Nhâm Vô Tâm mỉm cười, gật đầu hỏi, "Sau đó... sao nữa? Nói nốt đi!"

"Không nói nữa! Mắc cỡ quá!" Vừa nói vừa nhéo cho chàng một cái cháy thịt, nói lảng ra chuyện khác, "A! Em thấy đói rồi! Đói quá!"

Chợt nhớ ra rằng chính mình lừa chàng vào nơi tử địa này, hiện giờ kiếm đâu ra một miếng ăn đỡ lòng, chưa nói gì đến sự chết chóc, nguy hiểm sẽ tới. Nàng hối hận, thút thít khóc.

Nhâm Vô Tâm đưa tay áo lên chùi nước mắt nàng, sẽ nói, "Khỏi lo! Có cái ăn rồi! Hì hì!"

Nàng cuồng lên, ghì chặt lấy chàng, "Thật à? Đâu?"

Chàng phá lên cười, chỉ tay nói, "Kìa! Trong đống quan tài kìa, làm gì mà chẳng tìm được vài cái xác... khô!"

Lộn ruột, điên tiết, nàng nổi giận đấm thật sự, "Đến nước này mà còn khôi hài... giễu cợt à? Hu... hu!"

Nàng khóc rống lên.

Kỳ thực thì chàng chỉ cần trấn tĩnh trong chốc lát bằng cách vui cười để đầu óc sáng suốt, may ra có tìm thấy được gì khác hơn, để thoát khỏi nơi nhà tù chăng. Mặc nàng đánh đấm, cấu véo, trong khi chàng đưa mắt nhận xét thấy rằng đống quan tài bên vách tay mặt, chiếc đổ nghiêng, chiếc lật úp, nắp quan tài đều bật mở, hoặc rớt hẳn ra ngoài. Duy có một chiếc vẫn nguyên vẹn, nắp như đóng chặt.

"Tú Linh à! Chiếc quan tài nguyên vẹn. Hẳn là bên trong...?"

Chàng giơ tay chỉ và hỏi, "Tới coi xem!"

Nàng vùng dậy, chạy tới, hai tay nâng nắp quan tài lên. Bỗng tái nhợt mặt, tay nàng cứng ra, nắp quan tài buông xuống đánh "ầm", miệng rú lên, "Lão... lão..."

Rồi chỉ kịp quay mình, chạy trở lại núp vào sau lưng chàng

Liền đó "phình" một tiếng, nắp quan tài bật lên, rớt xuống đánh "ầm". Một mụ già, tóc bạc, lưng hơi gù, sắc mặt nhợt nhạt, ăn vận đồ đen, tay chống gậy trúc, vụt đứng phắt lên. Trông vẻ mụ ốm yếu, duy đôi mắt sáng như điện, lạnh như băng đá, liếc đưa một cái. Nhâm Vô Tâm cảm thấy rùng mình rởn tóc gáy, tai chàng nghe rõ tiếng hàm răng Điền Tú Linh đập vào nhau. Trong khi mụ già chống đầu gậy nhảy ra ngoài quan tài xuống đất thì chàng kịp lấy lại bình tĩnh, nghĩ thầm rằng đằng nào cũng chết, tận lực chơi nhau một trận rồi chết chẳng là thống khoái hơn sao. Chàng vòng tay thi lễ, mỉm cười rồi đĩnh đạc cất tiếng, "Lão phu nhân! Lâu không gặp! Người mạnh giỏi chứ?"

Trình Ngọc Ngạc hỏi, "Không dám! Lệnh đường đâu?"

Chàng hỏi, "Ủa! Té ra Lão phu nhân ở trong nhà này từ lâu?"

Mụ trả lời, "Lão thân tới đây trước, đã một ngày một đêm."

Nhâm Vô Tâm giật mình, sự thể giữa chàng với Tú Linh đều lọt vào trong tai mắt mụ. Chợt nghĩ ra một điều, chàng cười hỏi, "Lão phu nhân hẳn là đã do một lối nào khác vào đây, ngoài lối cổng sắt?"

Mụ lạnh lùng trả lời, "Cố nhiên là vậy! Nhưng đối với ngươi thì phải coi như là chỉ có một, lối qua cổng sắt thôi!"

Chàng vừa nói vừa quay lại ngó Điền Tú Linh, "Tại hạ không coi sống chết là gì hết!"

Nước mắt ràn rụa, cất giọng run cầm cập, Điền Tú Linh nói, "Tôi... tôi có biết lối nào khác... khác đâu!"

Mụ cười nhạt nói, "Mi biết rõ ràng... Còn khéo vờ vĩnh chi!"

Không cần che giấu e lệ gì nữa, nàng nắm tay chàng, nức nở nói, "Tâm kha! Em thực không biết lối nào khác để ra thoát... Tổ... tổ bà cốt làm cho anh nổi giận... để anh sẽ ra tay giết... em!"

Chàng mỉm cười, "Em lùi hẳn ra một bên! Để anh dễ nói chuyện với Lão phu nhân...! Cấm em không được nói xen vào...!"

Điền Tú Linh ngoan ngoãn "dạ" một tiếng, lùi ra một bên. Nam Cung phu nhân mặt nhợt ra, bỗng cười nhạt mà rằng, "Nhâm Vô Tâm! Ngươi tự coi là tay nghĩa hiệp! Vậy mà lại tới đây quyến dụ một quả phụ! Ha ha! Không sợ thiên hạ phỉ nhổ cho??"

Chàng đỏ mặt, giơ tay vẫy một cái và nói, "Tại hạ kính trọng phu nhân là bậc võ lâm tiền bối nên không tiện dùng câu vô lễ đáp lại! Cục diện bữa nay không thể yên lành kết liễu xong xuôi được. Chúng ta hãy đối thoại về mọi tình tiết ân oán giang hồ, sau đó xin dùng võ công quyết sống chết!"

"Ngươi tin rằng võ nghệ của ngươi đối phó với ta được mấy hiệp?"

"Dù chẳng đối phó được, cũng xin gắng gượng thừa phụng. Duy còn vài câu chuyện ngờ vực trong lòng, dù chết cũng không nhắm mắt."

Mụ nheo lông mày, hất hàm hỏi, "Vấn đề gì? Nếu ngươi thành khẩn cầu xin, thì hoặc giả lão thân cũng thương tình giải thích cho."

Chàng cung kính vái dài một cái rồi nói, "Lão phu nhân! Do nguyên nhân nào mà Người lại đem hết tâm trí ra, gây thành oán hận, thù địch với toàn thể võ lâm?"

Mụ hơi giật mình. Tia mắt loáng lên rọi vào mắt chàng rồi cất tiếng, "Mấy đời con cháu Nam Cung thế gia liên tiếp bị người ta giết hại. Chết không được minh bạch. Lão thân quyết tâm báo thù cho con cháu!"

Nghe nói vậy, Điền Tú Linh sốt tiết lên, môi mấp máy định nói, chợt nghĩ lại, bèn im bặt. Nguyên vì trước kia ở trong Tử Cốc, nàng từng có thấy Nam Cung Thọ. Trong cái tình trạng khủng bố, lại ở một gian nhà đá tối như mực như hồi xưa, nàng như sống trong mộng, nghĩ lại đầy ngờ vực. Vả lại nàng với Nam Cung Thọ từ nhỏ vốn coi nhau như thù nghịch, mà nay thì đã đem mối tình nồng nàng và là tình yêu đầu tiên trút cả vào cho Nhâm Vô Tâm, cho nên không muốn thừa nhận Nam Cung Thọ, một người chồng hão huyền ấy, hiện còn sống trên đời này. Nghĩ vậy nên nàng đành im lặng. Chợt nghe Nhâm Vô Tâm hỏi, "Lão phu nhân! Người có bao giờ ngờ cho một người hoặc một phái nào trong làng võ lâm, có ý mưu hại Nam Cung thế gia qua mấy đời rồi chăng?"

Mụ trả lời gọn lỏn, "Lão thấy rằng tất cả các môn phái đều khả nghi hết!"

Thấy chàng ngớ ra, có vẻ không phục, mụ bèn giải thích, "Có gì lạ! Danh vọng cao, lắm người thù ghét! Năm chữ "Võ Lâm Đệ Nhứt Gia", ai qua cổng cũng phải xuống ngựa, cởi bỏ khí giới, lại thêm ba vật báu của Nam Cung thế gia, đó là nguyên do khiến cho thiên hạ thù ghét, thèm muốn!"

Dù chỉ là lời ức đoán, vô bằng cớ, nhưng dễ gì lúc này có thể đả kích, cãi cọ với mụ được. Một phút lặng lẽ, chàng đưa mắt nhìn quanh, nghĩ thầm, "Nơi đây có cửa lối bí mật, đến Tú Linh cũng không hay biết, đủ thấy bên trong còn nhiều tình tiết bí ẩn nên mụ mới kiến trúc như vậy". Chợt ý nghĩ chuyển sang một hướng khác, chàng cao giọng hỏi, "Xin hỏi Lão phu nhân việc này. Cháu của phu nhân là Nam Cung Nghị vẫn còn sống. Phu nhân từng hỏi ông ta xem ai đã mưu hại ông ta chưa?"

Mụ trả lời, "Lão được tin rằng cháu lão gần đây có xuất hiện ở Trạm Truyền Thanh. Vì nó chưa trở về đây nên chưa hỏi được xem ai đã mưu hại nó."

Chàng gằn giọng nói từng tiếng, "Lão phu nhân hẳn cũng thừa biết vì sao cháu của Người chưa muốn trở về!"

Liếc mắt thấy trên mặt mụ hơi thoáng hiện ra vẻ kinh ngạc, lập tức những ngờ vực của chàng từ bao nhiêu tháng qua hầu như được giải đáp, chàng bèn cười nhạt, nói tiếp, "Theo như tại hạ xét thì luôn cả cháu dâu của Lão phu nhân, tức là Tứ phu nhân từ nay cũng không quay trở về đây nữa!"

Nghe tới đây, mụ rùng mình, mặt nổi gân lên, năm ngón tay mặt vươn ra chộp một cái. Điền Tú Linh chỉ kịp rú lên một tiếng "Tâm kha!" trong khi Nhâm Vô Tâm đã vọt mình lùi lại sau, và quát lên, "Phu nhân bị xúc động như vậy, phải chăng vì giác ngộ ra rằng đã làm nhiều việc trái lương tâm?"

Mụ định xông tới chộp cái nữa, chợt ngừng lại, trầm giọng mà rằng, "Ngươi căn cứ vào đâu mà đoán rằng vợ chồng nó không trở về đây nữa?"

Chàng lớn tiếng nói, "Nam Cung Nghị từng xuất hiện hoạt động từ lâu rồi. Duy Lão phu nhân không biết đó thôi! Tứ phu nhân với Nam Cung Nghị rất thương yêu nhau. Nay vợ chồng được tái ngộ thì còn về đây làm chi... để rồi... lại bị..."

Mụ gân cổ lên nói, "A! Lấy gà thì theo gà! Lấy chó tất là theo chó! Có gì là lạ? Nam Cung Nghị đã nói gì với ngươi, cứ nói thật cả ra. Chớ tìm cách hỏi vặn, đấu trí với ta."

"Nam Cung Nghị là bậc hào hiệp. Vô luận là thế nào, ông ta không nói rõ việc tư riêng bí ẩn của Lão phu nhân ra đâu!"

Mụ cười nhạt, "Nói cái gì? Nó dám nói ư?"

Chàng phì cười, "Không dám nói ra! Hà hà! Nhưng... dám đối đầu lại với Lão phu nhân!"

Mụ thản nhiên nói, "Con cháu bất hiếu. Đó là điều chẳng may cho gia đình. Nhưng có quan hệ gì đến ai đâu... mà..."

Chàng nghiêm mặt nói, "Lão phu nhân! Căn cứ vào một việc ấy, tại hạ tìm ra ba điểm kết luận..."

Ngừng một giây, thấy mụ rùng mình, hất hàm giục nói, chàng liền tiếp, "Điểm thứ nhất, theo tại hạ nhận xét, thì mấy đời con cháu Nam Cung thế gia đều chẳng phải là máu mủ của Lão phu nhân!"

Mụ rùng mình, chọc mạnh đầu gậy xuống đất, quát lên hỏi, "Điểm thứ nhì?"

Chàng chỉ tay vào mặt mụ, "Mấy đời con cháu của Nam Cung thế gia... chẳng phải do ai giết... Mà chính là do Lão phu nhân giết."

Mụ giận đỏ ngầu mắt. Điền Tú Linh rú lên. Mụ chỉ tay vào mặt chàng, hét lớn, "Còn điểm thứ ba... Nói mau... rồi chết!"

Chàng dồn nội lực ra hai tay, thận trọng đề phòng, đoạn ung dung nói, "Điểm này giản dị lắm! Lão phu nhân tạo thành cuộc tàn sát, gây thù địch với toàn thể võ lâm, chẳng phải vì con cháu mà báo thù đâu. Đó là sự dụng ý... Và dụng ý ấy để làm gì...? Hà hà... Xin Lão phu nhân giải thích cho...!"

Chỉ thương hại Điền Tú Linh, chứng kiến cuộc đối thoại giữa hai người. Nàng là tay thông minh, nghe tới đâu hiểu ngay tới đó. Khỏi phải tả sự kinh dị của nàng lúc đó tới bậc nào. Nàng trố mắt há hốc miệng ra trong khi Nam Cung phu nhân giận dữ đến dựng đứng cả tóc mai lên. Bỗng mụ ngửa mặt lên trần, phát ra một chuỗi cười như điên cuồng, âm ba chấn động như muốn rung chuyển cả toà nhà đá.

Điền Tú Linh cuống lên, chạy tới sau lưng chàng và giục, "Tâm kha! Chúng ta chạy... chạy mau!"

Chàng vừa nói vừa cười, "Chúng ta không biết lối. Vả lại, nếu Lão phu nhân không chịu... thì ta cũng hết nghề chạy!"

Bỗng nghe mụ trầm giọng, cười gằn mà rằng, "Lão thành thật phục ngươi là thông minh, tài trí. Ngươi hãy nói cho thực! Bằng cách nào ngươi có được ba điểm kết luận ấy?"

"Hỏi như vậy tức là Lão phu nhân thừa nhận ba điểm ấy?"

Thâm tâm mụ nghĩ rằng chỉ lát nữa, Nhâm Vô Tâm chết là đem theo hết bí mật đi. Mụ cần biết rõ hơn về manh mối sự hiểu biết của chàng, trước khi chàng chết. Nghĩ vậy, mụ gật đầu, "Lão hoàn toàn thừa nhận đó!"

Nhâm Vô Tâm cũng thừa biết ý mụ. Chàng đã coi sự chết như chơi nên càng bình thản, nói, "Thoạt tiên, tại hạ cũng tin rằng con, cháu mấy đời liền của Nam Cung thế gia bị người ngoài giết hại. Duy chỉ có cách tóm cổ được bọn chủ mưu, đem nộp cho Lão phu nhân thì mới tránh được cuộc tàn sát ghê gớm cho võ lâm. Nhưng... tìm kiếm, tra xét hoài mà không ra hung phạm. A! Nhưng rồi nghĩ kỹ lại, với tài năng, công phu võ nghệ của Lão phu nhân, dù có kẻ mưu hại cũng chỉ có thể hại được một đời con, hoặc một đời cháu của Lão phu nhân, làm gì có chuyện liên tiếp sát hại đời con, đời cháu, đời chắt của Lão phu nhân được!"

Nam Cung phu nhân trắng nhợt cả mắt, trố ra nhìn chàng, đoạn lại cười phá lên mà rằng, "Đúng thế! Đó là một chỗ sơ ý của ta khiến ngươi lần ra đầu mối. Mấy chục năm qua rồi, không ai nghĩ tới. Giờ ngươi tìm ra được...!"

Nghe chàng và mụ nói tới đây, Điền Tú Linh sợ lạnh toát người, mắt hoa lên, té xỉu xuống. Chàng vội đỡ lấy, đem nàng đặt nằm trên một chiếc nắp quan tài, đoạn quay trở lại, "Tại hạ chưa dám tin ngay ở lý luận ấy của tại hạ! Nhưng dần dần được biết rằng, liên tiếp hai đời con cháu của Nam Cung thế gia đều bị sát hại ở trường hợp có việc phải đi xa, khi đi khỏi nhà, cô độc một thân, một mình. Đã vậy mà kế tiếp đời cháu, đời chắt cũng đều bị ám sát, hoặc mất tích, và cũng trong trường hợp ấy. Hành tung ấy, nếu là việc công, là công khai thì việc bị giết tất phải rung động cả giới võ lâm lên! Việc ra đi ấy nếu là việc tư, tất phải giữ bí mật, và mỗi lần, một phòng bị gắt hơn. Với thế lực của Nam Cung thế gia, thừa sức đề phòng, thừa sức giữ bí mật. Vậy tại sao người ngoài biết được để hạ sát như thế!"

"A! Ngươi thông minh thật! Không ai theo kịp, khá quá! Hà hà... há há..."

Mụ cười rũ rượi, rùng rợn như ma quái, bỗng tiến lên hai bước ngó vào mắt chàng hỏi, "Ngươi nói hết chưa? Hí... hi hi... há há... hà hà..."

Tự biết rằng không địch nổi mụ, chàng chỉ còn lối kéo dài thời gian ra được phút nào hay phút đó, "Chưa hết!"

Chàng cười nhạt, ung dung nói, trong khi kín đáo quần tụ nội lực vào hai tay, "Cuối cùng, trên đường tới Tử Cốc, ngẫu nhiên gặp Nam Cung Nghị. Tại hạ đột nhiên thêm mối ngờ vực. Tại sao bậc tiền bối ấy lại lưu lạc ở ngoài, nỡ để Tổ mẫu, mẹ già thương tâm, vợ đẹp ở nhà phải đứt ruột...! Tới đây, tại hạ dám quyết đoán rằng thủ phạm giết hại Nam Cung thế gia chính là Lão phu nhân. Nhưng, con hổ, con rắn dù độc ác cũng không ăn thịt con bao giờ. Rút lại, chỉ còn một lẽ rằng tất cả những kẻ bị hại, bị mất tích, đều không phải là máu mủ của Lão phu nhân!"

"Ngươi nói đúng lắm!"

Tay mụ run run lên và nói tiếp, "Khỏi nói thêm nữa!"

Đôi lông mày lưỡi kiếm dựng đứng, mắt chàng quắc lên mà rằng, "Lão phu nhân phải giải thích rõ ràng ra! Nếu không, Nhâm Vô Tâm này quyết không chịu đâu!"

"Lão không tin rằng ngươi không chịu..." Vừa nói, mụ vừa đưa gậy lên như sắp đập xuống, bỗng nhiên đổi ý, lại chống gậy xuống, cười lên khanh khách mà rằng, "Được lắm! Mối hận của lão ứ lại ở cuống họng, ở đầu trái tim như xương ngạnh mắc ngang cổ từ mấy chục năm qua! Giờ đây, thổ lộ ra hết, hoặc giả cũng dễ thở trong chốc lát chăng?"

Hồi thứ năm mươi chín

Tay trắng san bằng sát kiếp, kiếm quan chặt cụt đầu ma

Nam Cung lão phu nhân nghẹn ngào ngửa cổ trợn mắt, đưa tay lên vuốt ngực rồi thở phì một cái. Đúng là cái thở dài uất kết. Hơi thở tuy nhỏ nhưng rất dài, liên miên cơ hồ bất tuyệt, thê lương, rợn óc, tưởng có thể nát đá, rũ tầm...!

Giữa lúc ấy, Điền Tú Linh chợt tỉnh lại, vừa chạy đi vài bước bỗng cảm thấy rợn óc, vội lùi ngay trở lại. Chỉ nghe Nam Cung phu nhân trầm giọng nói, "Nhâm Vô Tâm ạ! Hai vị kỳ nhân ở Tử Cốc ngươi biết là thế nào chăng? Thiết tưởng khỏi cần ta giải thích!"

Nhâm Vô Tâm nhếch lông mày lên nói, "Đó là hai vị ân sư của tại hạ."

Nam Cung phu nhân bĩu môi nói, "Phì! Là ân sư của ngươi? Nói mà không biết thẹn."

Nhâm Vô Tâm đỏ mặt giải thích, "Thái Ất Thượng Nhân truyền thụ võ công cho tại hạ, hai vị lão nhân lại là quyến thuộc tình duyên, thì tại hạ... phải là..."

"Hai vị lão nhân đã không có danh nghĩa vợ chồng, cũng chưa hợp lực truyền thụ đệ tử, ngươi nhận quàng sao được? Nói thật cho ngươi rõ, Nam Cung Minh là học trò của Thái Ất Thượng Nhân, còn ta đây là học trò của Thiên Tâm Thần Lão."

Nhâm Vô Tâm kinh ngạc, nghĩ thầm rằng, "Thái Ất là đàn ông, Thiên Tâm là đàn bà, đó là hai kỳ nhân ở Tử Cốc! Nếu vậy thì chàng và vợ chồng Nam Cung là đồng môn và cũng là ngang hàng, mà đó là điều mà chàng chưa từng bao giờ nghe nói và không ngờ đến."

Nam Cung phu nhân lạnh lùng kể tiếp, "Bảy, tám chục năm xưa, hai vị kỳ nhân ấy là đôi tình nhân. Cả hai cùng tu luyện thượng thừa công phu nên không kết thành vợ chồng. Nhưng... nhưng hai đệ tử nam nữ của hai vị ấy đã kết thành một mối duyên... khắng khít...! Hai đệ tử ấy chính là Nam Cung Minh và Trình Ngọc Ngạc."

Nói đến đây mụ chép miệng thở dài rưng rưng nước mắt, "Nào ngờ trời sinh biến động. Sau khi Nam Cung Minh đánh bại hết anh hùng thiên hạ, đoạt được cái danh dự "Thiên hạ đệ nhất gia" rồi thì có một đứa con gái xinh đẹp thọc... gậy..., phá tan hạnh phúc của gia đình Nam Cung."

Nhâm Vô Tâm cau mày vội hỏi, "Người con gái ấy là ai?"

Như không nghe thấy câu hỏi của Nhâm Vô Tâm, mụ cứ tiếp tục thuật với giọng đầy chua chát và gay gắt, "Nó... nó là môn hạ của phái Tuyết Sơn mình vận đạo bào, sử dụng một ngọn phất trần sắc bạc, trên giang hồ gọi nó là Ngân Phất Tiên Tử...!"

Nhâm Vô Tâm biến sắc mặt đi nói, "A! Mấy chục năm trước đây, tất cả hơn sáu chục mạng của Đệ tứ đại phái Tuyết Sơn đột nhiên bị giết trong một đêm, đó là..."

Mụ thở dài chép miệng, "Đó là... đó là do ta hạ thủ. Đó là việc đã 72 năm qua. Úi chao! Tiếc là ta đã xếp đặt cẩn thận, một phen ra tay là đã tận diệt phái Tuyết Sơn, vậy mà lại sơ ý để sống sót một đứa nhỏ chưa đầy một tuổi, đến nỗi về sau gây nên câu chuyện quái gở mụ quả phụ Đệ Ngũ đệ đồng đường..."

Nhâm Vô Tâm nghĩ thầm, mụ này tàn ác hết sức, nhân hỏi, "Đứa nhỏ chưa đầy một tuổi đó là con ai?"

Mụ nhếch mép cười nhạt, "Nó là nghiệt chủng của Nam Cung Minh và Ngân Phất Tiên Tử đẻ ra. Lão quyết ý nhổ cỏ thì nhổ cả rễ. Không ngờ khi sắp ra tay thì Nam Cung Minh cướp giữ được đứa nhỏ rồi."

Chàng cười nhạt nói, "Mụ giết đã hơn sáu mươi mạng rồi. Thiên Tâm Thần Lão dù không trách phạt, nhưng ân sư của ta quyết không dung thứ cho mụ."

Ký ức trở lại với chuyện xưa, mụ ấm ức nói, "Đúng thế! Thái Ất Thượng Nhân đã quyết ý giết ta, nhưng sư phụ đều cho rằng lầm lỗi là do Nam Cung Minh phụ bạc ta mà gây nên. Ta có cái tội quá ghen, nhưng nếu vì thế mà giết ta thì phải giết Nam Cung Minh trước đã...!"

Chàng vội hỏi, "Lão phu nhân còn sống đến nay thì hẳn là ân sư cũng chưa trừng trị Nam Cung Minh...?"

Mụ giải thích, "Đâu có yên đi một cách dễ dàng thế được! Thái Ất Thượng Nhân đời nào chịu giết Nam Cung Minh trước, nhưng cũng tống cổ hắn đi và cũng truyền rằng trừ phi hắn lấy được đầu ta thì mới được cho về núi...! Sự thật thì hắn có cần kíp phải trở về núi với thầy hắn đâu. Hắn chỉ muốn báo thù cho cái con đĩ đê tiện kia thôi, cho nên đã từng giao đấu với ta suốt một ngày một đêm bất phân thắng bại. Võ nghệ hắn có thể thắng được anh hùng thiên hạ chứ sao thắng nổi ta. Hai vị Thái Ất và Thiên Tâm thuở đó đương thời hăng hái và ganh khi. Thấy đồ đệ bất phân thắng bại, Thái Ất Thượng Nhân tức khí liền ra đi, bỏ sư phụ ta một mình ở lại Tử Cốc. Sư phụ ta cũng tranh khi, không chịu trừng phạt ta mà chỉ ân cần dặn ta muôn vàn không được giết hại đứa con nhỏ một tuổi đó. Từ đó hai vị lão nhân không hề gặp mặt nhau nữa...!"

Chàng thở dài nói, "A! Té ra chính vì phu nhân mà hai lão nhân gia đã đấu khí nhau đến nỗi không nhìn mặt nhau nữa."

Mụ thản nhiên nói, "Không nhìn mặt nhau thì đã sao? Chẳng lẽ vì vậy mà giảm đi mấy tuổi thọ sao?"

Chàng uể oải nói, "Không thể thế được. Hai vị từng sống bên nhau cả trăm năm...rồi."

Rồi chàng đột nhiên hỏi sang câu khác, "Tuyết Sơn đã bị giết đến thế, lẽ nào võ lâm chẳng ai là kẻ trượng nghĩa can thiệp sao?"

Nam Cung phu nhân cười khanh khách lên mà rằng, "Ta chưa lộ diện trên giang hồ nên không ai biết được mặt mũi cùng võ công ta ra sao? Ai có bằng chứng biết ta là thủ phạm của cuộc đồ tể đã qua? Tuyết Sơn phái lại ở tít ngoài biên thùy, không giao thiệp gì với các nhân sĩ Trung Nguyên. Còn Nam Cung Minh với con đĩ đê tiện kia chỉ là ngấm ngầm hoạt động hết sức kín đáo bí mật. Hai thầy trò ta không đem câu chuyện tuyên bố ra ngoài thì ai dám ngờ gì ta. Vì thế mà ta không bị lộ tẩy...!"

Chàng hỏi, "Nam Cung sư huynh đời nào lại chịu yên bỏ qua?"

Mụ chua xót giọng nói tiếp, "Đời nào chịu bỏ qua! Từ đó trở đi hắn với ta ngoài mặt là đôi vợ chồng thân thiết, kỳ thật là hai kẻ thù không đội trời chung. Cả hai cùng ngấm ngầm luyện tập võ công. Và cứ sau một thời gian khổ luyện, Nam Cung Minh lại đem những ngón mới luyện được ra tận lực thi thố với ta. Ha ha! Và chính ta cũng không ngừng luyện tập tinh tiến cho nên không hề bị thua hắn lần nào. Rút cuộc, cho đến khi chết, hắn vẫn chưa được chút mãn nguyện...!"

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Ủa! Nói vậy tức là Nam Cung huynh vì quá uất hận mà chết?"

Mụ gật đầu nói, "Lão ấy ngậm hờn mà chết! Chết rồi thì mọi cừu hận đều hết. Lão chết đi bỏ lại một mình ta cô đơn không chịu nổi."

Nhâm Vô Tâm nghĩ thầm rằng vì ghen tuông mà mụ giết sạch cả phái Tuyết Sơn đi. Xét nguồn gốc thì vì do sự quá yêu Nam Cung sư huynh, nhưng vì khéo quá hóa vụng khiến cho Nam Cung Minh tức khí mà chết. Lúc này, mụ đau khổ hết sức.

Nghĩ tới đó, chàng lại nghĩ đến việc Điền Tú Linh vì quá yêu mà thành thù hận, bất giác cảm khái, thở dài một tiếng.

Nam Cung phu nhân kể tiếp, "Khi Nam Cung Minh đã chết, đứa con trai của Ngân Phất Tiên Tử đã lớn lấy tên là Nam Cung Vọng. Ta tuân lời sư phụ không có ý giết nó lại còn cưới vợ cho và coi nó như con ruột. Ai ngờ, khi nó biết rõ thân thế không phải là con ruột của ta và còn biết rằng ta là cừu nhân, lại biết rằng võ nghệ của ta lợi hại, nó đành ẩn nhẫn trong lòng, mà ngoài mặt càng tỏ vẻ hiếu thuận với ta...! Như thế cho tới ngày con nó ra đời, Nam Cung Vọng từng nói rằng không muốn cho con hắn tập võ nghệ mà chỉ mong sao con hắn hiếu thuận với tổ mẫu, vì thế mới đặt tên cho nó là "Hiếu" và ta cũng tin ở lòng thành thật ấy."

Đến đây mụ bỗng "hừ" lên một tiếng, "Hừ! Một hôm, Nam Cung Vọng nói với ta muốn đem vợ con lên Bắc Nhạc để lễ bái cầu phước thọ cho ta. Nghĩ rằng đã nuôi dạy nó mấy mươi năm và nó cũng đã yên trí ta là mẹ ruột, vợ nó lại là học trò cưng của ta nên ta không nghi ngờ gì hết...!"

Nhâm Vô Tâm hỏi, "Mục đích là muốn thoát ly gia đình Nam Cung thế gia, muốn cao chạy xa bay?"

Mụ lắc đầu nói, "Hà chỉ giản dị như thế! Vợ chồng cha con nó đi khỏi nhà độ chừng nửa đường, bị trên mười tay cao cường, mặt bịt khăn đen đổ ra vây đánh. Đầy tớ bị giết sạch, vợ chồng nó bị thương nặng, đứa con nhỏ trên tay bị chưởng làm xung động cũng thoi thóp gần chết..."

Nhâm Vô Tâm vội hỏi, "Phải chăng bí mật xưa tiết lộ, có kẻ báo thù cho phái Tuyết Sơn?"

Mụ lắc đầu nhăn mặt kể tiếp, "Hừ! Lặng yên nghe ta nói! Ngươi xét đoán sao nổi! Hoàn toàn là một sự bố trí dàn cảnh, đến ta cũng mắc mưu. Con nó chưa được một tuổi, ngoắc ngoải gần chết, dù thuốc thánh cũng không cứu vãn được. Ta đành vận công đem chân khí truyền sang cho đứa bé... Như thế sau nửa ngày tiêu phí nội lực, thân ta hầu như ngọn đèn cạn dầu... lao đao... ngồi cũng không vững! Vậy mà tên hèn mạt ấy cũng không dám ra tay giết ta ngay. Chữa chạy cho con nó rồi, nguyên khí của ta đã kiệt sinh ra miệng khô, cổ ráo, ta phải dùng một thang thuốc đại bổ khí và vội vàng nốc nửa bình nước trà giải khát sinh tâm mà không ngờ rằng trong đó đã có thuốc độc. Tới lúc đó, tên hèn mạt bất thình lình rút ở bên mình ra một lưỡi đoản kiếm, nghiến răng lại đâm vào ngực ta."

Nói đến đây mụ phanh làn áo che ngực, lộ ra hai cái sẹo lớn, lắc đầu nói, "Nếu như nó không quá tàn ác mà không thẳng tay lụi một nhát lút chuôi gươm thì khỏi sinh chuyện. Nó cố tình hành hạ ta bằng cách rạch một nhát gươm rồi kể ra một tội...! Giữa lúc nó rạch xong nhát gươm thứ hai và sắp kể thêm một tội nữa thì vợ hắn kịp chạy tới... Vợ nó được ta nuôi nấng từ nhỏ, lại là học trò trung thành của ta, thấy vậy vội tới can thiệp cản trở. Qua lại vài lời, hai đứa nổi nóng lên đánh lộn nhau. Thừa cơ hội ngàn năm một thuở ấy, ta dùng hết hơi còn lại cướp lối chạy ra, tới gian nhà bí mật, đóng ập ngay cửa sắt lại. Nó đuổi tới nơi ra sức phá cửa nhưng không phá nổi. Biết rằng khả năng của ta rất lợi hại, trong giây lát có thể trong giây lát vận công tạm kiềm hãm chất độc không cho phát ra và khôi phục công lực sẽ giết hắn dễ như trở bàn tay. Nam Cung Vọng lập tức vơ vét đánh cắp cuốn "Võ công bí cấp" cùng một số thuốc bí truyền rồi cuốn gói ra đi. Hà hà! Hắn có ngờ đâu ta đuổi theo kịp. Với một chưởng cách không, ta kết liễu tính mạng hắn và lấy lại các đồ bị mất."

Nhâm Vô Tâm thở dài nói, "Nhị phu nhân tuy là đồ đệ của lão phu nhân, nhưng lão phu nhân đã giết chồng của nàng đi, há chẳng..."

Mụ lắc đầu nói, "Chẳng sao cả! Chồng nó đã quyết tâm giết nó, vợ chồng thế là đã tuyệt tình nghĩa rồi. Ta giết đi há phải tàn ác..."

Chàng vặn hỏi, "Đứa nhỏ... sao? Lại còn Nam Cung Nghị, Nam Cung Thọ, lão phu nhân cũng mưu hại nốt?"

Cất giọng chua xót, vẻ mặt thểu não, mụ nói, "Ta với nàng dâu ta nuôi Nam Cung Hiếu, lấy vợ cho nó là Thường Tố Ngọc, những mong bao nhiêu oán thù từ bao nhiêu đời tới đó được tiêu tan. Ai ngờ..."

Nói đến đây, mụ bỗng gay gắt giọng, quắc mắt lên, "Mỗi lần có câu chuyện ra khỏi nhà, liền bị nguy hại không tìm ra..."

Nhâm Vô Tâm nổi giận quát to, "Bịp bợm! Nhân nghĩa giả! Ngoại trừ mụ là Trình Ngọc Ngạc ra, không ai hại con cháu Nam Cung thế gia cả...!"

Nam Cung phu nhân gầm lên một tiếng, xô bộ vào đập một gậy. Nhâm Vô Tâm điên tiết tránh sang bên, hai tay cùng tống ra, dùng một ngọn "Đảo lộn âm dương" đánh lại. Chỉ nghe "soạt" một cái, tay trái mụ đã xé toang một ống tay áo của chàng và đồng thời hoàn đòn lại. Chàng giật mình, vọt người tới phía sau một cỗ quan tài, cười nhạt mà rằng, "Trình Ngọc Ngạc! Ngươi nuôi đứa con để rồi lại giết nó, trồng sâu mối oan thù, vấy máu qua suốt năm đời. Nhâm mỗ biết rõ nguyên nhân rồi...!"

Mụ trợn mắt hỏi, "Nguyên nhân nào? Ở đâu?..."

Cùng với hai tiếng "ở đâu" do mụ thốt ra thì Nhâm Vô Tâm đã vọt mình như mũi tên đến trước, đoạn cười mà rằng, "Thất ý trong tình trường đâm ra điên cuồng, giết người trả thù cho đã hận, và lấy đó làm thích khoái!"

Biết trước rằng câu nói đó đánh trúng vào ruột gan mụ. Thừa lúc tinh thần mụ bị kích động choáng lên, chàng tập hợp công lực tập kích liền. Một đòn ấy của chàng phát ra hết sức mạnh như sấm sét, há dễ ai chống đỡ lại kịp. Trong không đầy một phần mười của cái chớp mắt, chỉ thấy đầu gậy của Nam Cung phu nhân bật lên, rồi như một màn sương tỏa ra bao kín lấy mụ. Nhâm Vô Tâm tận lực công phá cũng không tài nào vượt qua bức màn gậy của mụ. Đột nhiên, cùng với tiếng cười của mụ xé tan không khí, ba làn gậy liền cùng một lúc đánh ra kỳ ảo, lanh lẹ khiến chàng muốn ngộp thở, chỉ còn một lối là quăng mình nhảy ra xa, tới nấp sau một cái quan tài. Mụ nhếch mép cười gằn, nói, "Vụ án đầy bí mật và máu này, từ trước đến giờ chỉ riêng một mình ta hiểu biết mà thôi. Nay lại thêm cả ngươi cũng biết nữa, vậy đó là điều đại bất hạnh cho ngươi. Ngươi đã hết hy vọng sống rồi...!"

Nói tới đây, mụ chợt nhớ đến Điền Tú Linh hiện có mặt tại đây, hiện đã nghe hết bí mật của mụ. Mụ cười lên sằng sặc, vươn tay ra một cái, tay trái thộp cổ nàng từ góc tường lôi ra, tay mặt vung gậy lên nhằm đầu nàng bổ xuống. Điền Tú Linh sợ chết lặng người, nhắm mắt lại, tai phảng phất nghe tiếng chàng quát lớn, "Hãy khoan!..."

Mụ ngừng tay, cười lạnh lùng quay lại hỏi, "Ngươi có ý van cầu ta chăng?"

Nhâm Vô Tâm nói, "Ta muốn hỏi mụ câu này, Thiên Tâm Thần Lão hiện còn sống, lẽ nào tha thứ, dung túng cho mụ càn rỡ giết người như thế..."

Mụ vểnh mặt lên cười, "Nếu không dung túng thì sư phụ đã trừng trị ta từ lâu rồi. Tới lúc này sư phụ ta không nói năng gì tức là Người không có ý quản thúc ta. Nghe chưa?"

Từ khi ra đời đến giờ, Nhâm Vô Tâm chưa lần nào gặp trường hợp và đối thủ lợi hại như vậy. Không đủ sức chống lại, không biết đường nào trốn thoát. Chàng quẩn lên, chỉ còn một cách là dềnh dang kéo dài thời gian ra để giữ cho tính mạng chàng và Điền Tú Linh thêm chút nào hay chút ấy. Tuy nhiên, ngoài mặt vẫn phải giữ vẻ trấn tĩnh, chàng cười hỏi, "Theo ý mụ có nghĩa là sư phụ mụ cố ý dung túng..."

Mụ gân cổ lên nói, "Chẳng những dung túng mà còn khuyến khích nữa là khác. Hà hà! Ngươi có thể tưởng tượng được rằng cho tới bây giờ, sư phụ ta mỗi khi luyện được thêm một ngón, một môn gì lạ, lập tức sai người tới bí mật truyền thụ thêm cho ta."

Nhâm Vô Tâm choáng cả người lên, tưởng chừng như gieo mình xuống vực sâu vạn trượng. Thấy mắt mụ tóe hung quang, sắp giáng xuống đầu Điền Tú Linh một đòn, chàng hoảng lên la lớn, "Ta hiểu ý của Thiên Tâm Lão Nhân rồi."

Mụ ngừng tay quay lại hỏi, "Ngươi hiểu... hiểu sao?"

Chàng cố ý trì hoãn, thong dong từng lời từng tiếng, "Như mụ đã thừa rõ. Ân sư ta với Thần Lão thoạt tiên là đôi bạn tình sống với nhau thành quyến thuộc thần tiên. Mụ giết hại cả môn phái Tuyết Sơn rồi lẽ ra ân sư ta tự tay đập chết mụ đi nhưng lại không làm thế và chỉ bức bách sư phụ mụ phải tự tay trừng phạt, đó là vì một lẽ khác."

Mụ ngạc nhiên hỏi, "Vì một lẽ khác?... Vì sao?"

Chàng cười và tiếp, "Chẳng riêng vì một lẽ khác! Mà còn cố ý chỉ trích Thần Lão không biết dạy học trò. Thần Lão tức nhiên là nổi giận tức khí...!"

Mụ bĩu môi hỏi, "Tức khí thì sao?"

Chàng nói, "Vì tức khí mà tranh chấp, lâu ngày cũng êm đi. Ý niệm về phải trái lâu ngày sẽ tỏ rõ, tự nhiên là Thần Lão sẽ hối hận để rồi sẽ tự ý xử trí câu chuyện."

Mụ la to lên, "À! Nhưng sư phụ ta chẳng xử trí gì hết!"

Chàng ôn tồn nói, "Có xử trí mà. Chỉ tại mụ ngu muội không nhìn ra những điểm khéo léo, cao siêu ở bên trong đó thôi."

Mụ giật giọng hỏi, "Khéo léo, cao siêu ở chỗ nào?"

"Binh pháp dạy rằng, "Muốn bắt, hãy thả. Muốn cướp lấy, hãy cho đi." Mụ có hiểu cái lý ấy chăng?"

Thấy mụ nhăn nhó lắc đầu, chàng nói tiếp, "Thực ra Thiên Tâm Thần Mẫu đã hối hận và có ý tự tay mình giết Trình Ngọc Ngạc đi. Nhưng nếu như thế sẽ thành ra là chịu kém nước đối với ân sư ta sao? Do lẽ đó mới nảy ra cái kế "định bắt lấy thì trước khi đó hãy thả lỏng đã" thành thử chẳng những dung túng cho học trò làm ác, mà còn tiếp tục bí mật dạy thêm võ nghệ, chỉ dẫn đường lối nọ kia. Cốt ý là trêu tức, chọc cho ân sư ta nổi giận mà giết mụ đi. Ân sư ta giết mụ, tức là Thần Lão khỏi mang tiếng giết học trò, và đồng thời đã hơn nước ân sư ta ở điểm... tranh khi đó! Nghe chưa?"

Nam Cung phu nhân hơi rùng mình, quát lên rằng, "Nói nhảm...! Nói bậy...! Câm...!"

Nhâm Vô Tâm cười nói tự nhiên, giải thích thêm, "Mụ thử nghĩ xem! Với võ công của mụ, lại thêm 36 vị Thiên Cang và 72 vị Địa Sát nữa, thử hỏi trừ hai vị Thái Ất và Thiên Tâm tiền bối ra, còn ai làm gì nổi mụ nữa!"

Vừa nói tới đây, bỗng có tiếng ai vang vang, không rõ từ đâu phát ra, "Thằng nhãi con! Ngươi kể lỗi, trách nhiếc ta sao?"

Nam Cung phu nhân và Nhâm Vô Tâm cùng tái mặt, ngơ ngác, ngó trước nhìn sau. Những vẻ gay go, hung hăng sát khí trên mặt hai người, trong nháy mắt đều biến đi sạch.

Nhâm Vô Tâm giật mình, đứng ngây ra, kế đó hai đầu gối bỗng gập lại, quỳ thụp xuống, chắp tay nói, "Thần Lão tiền bối! Người... giáng... giáng lâm!"

Toà nhà đá hầu như rung chuyển. Ba người bên trong cùng trống ngực nổi lên, mặt tái nhợt cả đi. Nam Cung phu nhân chạy lẹ tới góc tường. Chưa ai nhận ra mụ có động tác gì lạ, bỗng nước trong ao sôi réo lên, một phút sau rút đi hết, trông thấy đáy. Mụ chọc mạnh đầu gậy xuống, tiếng răng bánh xe rít lên, khối đá ở dưới di động sang bên, hiện ra một cửa hang tròn, sâu thăm thẳm, lặng như tờ. Nam Cung phu nhân lưỡng lự một phút, bỗng quỳ thụp đầu gối xuống, hai tay chắp lại, cất giọng run run nói, "Đệ tử Ngọc Ngạc cung nghênh ân sư giáng lâm!"

Lại một phút yên lặng, hãi hùng! Đột nhiên từ cửa hang một người đàn bà ăn vận đồ trắng bước lên. Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên, nhận ra Đệ Tam phu nhân Thường Tố Ngọc.

Vẻ mặt thểu não, đầy đau khổ, thất vọng, oán hận, Thường Tố Ngọc uể oải bước chân, tiến ra. Tia mắt mụ đầy hờn uất như tránh không muốn nhìn Tổ bà Nam Cung phu nhân đương khép nép quỳ ở bên bờ ao. Theo sau là một bà già mình khoác áo lông đen. Vừa ra khỏi cửa hang, bà già đưa bàn tay nõn nà như ngọc ra, kéo Nhâm Vô Tâm đứng lên. Chàng vừa mừng vừa hãi, sẽ reo lên, "Mẹ! Còn... Thiên Tâm Thần... Lão... tiền bối đâu?"

Bà già mỉm cười sẽ vuốt ve mái tóc chàng. Nam Cung phu nhân đợi lâu không thấy trong hang có gì khác nữa, bèn mọp người xuống lễ, cất giọng kêu vang, "Sư phụ mở lòng thương... Đệ tử là Ngọc Ngạc..."

Bỗng nghe bà già lạnh lùng nói, "Thiên Tâm Thần Lão ở hang Tử Cốc, không có mặt đây. Mụ kêu ai là sư phụ?"

"A!" Nam Cung phu nhân chợt tỉnh ra, quay lại nhìn, quát giật lên, "Lan Cô... Ngươi...!"

Lan Cô, tức là bà già vừa ở dưới hang lên, cười nhạt mà rằng, "Đúng thế! Vừa rồi là tiếng ta nói từ dưới hang. Hồi nãy ý hẳn mụ đã nặng tai nên mới nghe lầm ra tiếng sư phụ của mụ..."

Nhâm Vô Tâm và mụ Nam Cung phu nhân đều thất kinh hết hồn. Mụ Nam Cung phu nhân vừa thẹn vừa tức, mặt đỏ tía lên, mắt ngầu lửa.

Tố Thủ Lan Cô vừa đưa tay gạt, vừa quát lên, "Tâm nhi! Né xa ra..."

Nhâm Vô Tâm như máy lò xo bật tung người ra xa tới sáu, bảy thước, đồng thời đề khí, dồn sức ra hai tay, phòng bị. Giữa lúc đó, mụ Nam Cung phu nhân bỗng hú một tiếng, tay áo phất đi, người bốc lên cao, hàng trăm ngọn gậy trúc xé gió, ào ào táp xuống đầu Lan Cô, khí thế hung hãn như sét nổ, sấm rền, vang động rung chuyển cả toà nhà đá. Võ nghệ siêu quần như Vô Tâm, Tố Ngọc, Tú Linh dù đã vận công phòng bị, mà cũng bị sức ép dồn không khí làm cho choáng váng, ngộp thở.

Dưới cái tình thế kinh hoàng cấp bách ấy, chỉ thấy Lan Cô sẽ "hừ" một tiếng. Tố Thủ tức là bàn tay nuột nà đẹp nõn như ngọc phất lên toàn thân quay tròn, tà áo bằng lông tung bay, vù một cái như một màn khói đen nhằm thẳng đầu mụ Nam Cung phu nhân chụp xuống. Điền Tú Linh bưng miệng, rú lên một tiếng. Trong con mắt một tay võ nghệ cao cường như nàng, nhận ra rằng màn khói đen ấy có sức mạnh như cả ngọn Thái Sơn rớt xuống... mà bất cứ vật gì ở dưới cũng tức thời biến ra chất bụi phấn, chất tương bùn với nước... Quả nhiên mụ Nam Cung phu nhân theo đó, thân mình lộn đi, rớt xuống đất, nhưng đồng thời ngọn gậy trúc của mụ khoa tít lên một vòng, gạt hẳn làn khói đen sang một bên... Mọi người định thần nhìn lại, thấy Tố Thủ Lan Cô và mụ Nam Cung phu nhân đã đứng cách xa nhau gần một trượng, bốn con mắt đương toé hào quang ra như lửa rọi thẳng vào nhau.

Nhâm Vô Tâm toát mồ hôi ra. Mọi người đều kinh hoàng, không hiểu bằng cách nào mụ Nam Cung phu nhân hóa giải được ngọn "Thái Sơn áp đỉnh" của Lan Cô, đồng thời cũng không nhận ra Lan Cô đã vận dụng cách gì thoát khỏi lằn gậy như sấm sét điên cuồng của mụ Nam Cung phu nhân.

Một hai phút lặng lẽ, đầy hãi hùng, sát khí...! Nam Cung phu nhân bỗng "khịt khịt" mũi, nhếch mép, trầm giọng, hỏi, "Lan Cô! Ngươi tự tin rằng thắng nổi ta sao?"

Lan Cô lạnh lùng trả lời, "Cả hai cùng chết! Cái đó ta đã cầm chắc. Như vậy không thành vấn đề."

Mụ Nam Cung phu nhân "hừ" một tiếng, mặt đầy sát khí, quay lại nhìn Thường Tố Ngọc, "Mày dẫn nó qua lối đường bí mật vào đây?"

Tố Ngọc thản nhiên nói, "Đó là mẹ chồng cháu dẫn tới đây! Cháu tuy được tin cậy nhưng từ trước vẫn không biết nhà lao này lại có lối bí mật ấy!"

Mụ Nam Cung phu nhân hỏi, "Mẹ chồng mày đâu? Sao không tới gặp mặt ta?"

Tố Ngọc nói, "Mẹ chồng cháu xuất lãnh bọn Thiên Cang Địa Sát, canh giữ lối đường hầm, phòng xa có kẻ tẩu thoát chăng?"

Mụ thét hỏi dồn, "Ai? Phòng xa... ai tẩu thoát? Ai... ai... ai?"

Tố Ngọc thủng thẳng nói, "Cháu không biết! Tổ bà thừa hiểu rồi, còn hỏi làm chi!"

Tố Thủ Lan Cô cất giọng lạnh lùng, nói, "Trình Ngọc Ngạc! Tội ác mi quá nặng, quá rõ rồi cho nên mọi người đều phản bội mi! Mi nên tự động xử trí đi, chết đi để tạ lỗi với thiên hạ!"

Mụ Nam Cung phu nhân mặt xám ngắt lại như thép lạnh, tay run run, thọc đầu gậy xuống vỉa ao, ngập sâu tới hai thước, đá vụn với lửa toé lên, Thường Tố Ngọc càng trấn tĩnh, thong dong nói, "Mẹ chồng cháu và cháu cùng bị Lan Cô uy hiếp, bắt dẫn lối vào đây. Vừa rồi Tổ bà cùng Nhâm Vô Tâm đã nói những gì, mọi người đều nghe rõ cả!"

Mụ Nam Cung phu nhân rít giọng nói, "Nghe rõ cả thì làm cái thá... gì!"

Thường Tố Ngọc ung dung giải bày, "Cháu như người trong ác mộng tỉnh ra. Bao nhiêu ngờ vực từ mấy chục năm, giờ mới sáng tỏ."

Bao nhiêu gân xanh trên mặt mụ Nam Cung phu nhân đều nổi lên, "hự" một tiếng trong họng, mụ tiến lên hai bước, đầu gậy của mụ chĩa vào người Tố Ngọc. Tố Thủ Lan Cô quát lên, "Mụ chớ cậy mạnh! Có ta đây!"

Nam Cung phu nhân tức ứa máu mép ra. Biết rằng thân pháp với thủ pháp của Lan Cô tuyệt vời thiên hạ, không dễ trị nổi, mụ đành cười mát và hỏi, "Tố Ngọc à! Mi quyết tính bội phản ta... sao?"

Tố Ngọc cứ điềm đạm nói, "Cháu có thể là phản bội, cũng có thể là không phản bội. Nhưng mẹ chồng cháu thì nhất định là phản bội rồi! Còn cháu là phận nàng dâu, để giữ trọn đạo hiếu, nên chỉ biết theo lệnh mẹ chồng."

Nàng chép miệng thở dài, "Trong trời đất, còn cừu hận nào lớn hơn thù giết cha! Khốn thực nhưng đã mấy ai thực là hiếu tử! Ngoài ra còn một mối thù khó quên được, ấy là thù giết con!"

Mụ Nam Cung phu nhân rùng mình, rợn tóc gáy, nhưng vẫn giữ vẻ trấn tĩnh, "Nam Cung Nghị chưa chết mà! Còn Nam Cung Thọ thì chưa ai thấy thi thể. Có lẽ là còn sống..."

Mụ múa tay lên nói.

Thường Tố Ngọc vẫn đều đều và dịu giọng, "Thằng Nghị là con tôi, chưa chết! Thằng Thọ là cháu tôi, tức là đã cách một đời, tôi không đứt ruột đẻ ra, cho nên dù Thọ có chết mà mối đau thương hoặc giả tôi còn chịu đựng nổi. Vì vậy mà tôi nói rằng tôi có thể hoặc phản bội, hoặc không phản bội. Nam Cung Hiếu là chồng tôi! Cái thù giết chồng, nếu như tôi đành tạm gác ra một bên, nhưng còn mẹ chồng tôi, đối với cái thù con đứt ruột đẻ ra mà bị giết thì sao... Cho nên mẹ chồng có phản bội, chỉ là lẽ dĩ nhiên."

Mụ Nam Cung phu nhân cười sằng sặc lên nói, "Những việc ta làm thì mi rõ sao được! Nhưng mẹ chồng mi thì biết từ lâu rồi kia mà! Sao giờ mới..."

Tố Ngọc nói, "Mẹ chồng tôi dù có biết, cũng cố nén nhịn, vì không đủ sức phản kháng."

Mụ nghiến răng hỏi, "Ha ha! Giờ đây mẹ chồng mi đủ sức rồi chăng?"

"Cây ngọc quyết "nhiếp tâm" dùng để sai khiến bọn Thiên Cang và Địa Sát hiện ở trong tay mẹ chồng tôi, tức là mẹ chồng tôi có đủ sức chống đối lại với bất cứ ai."

Nghe nói tới đây, mụ Nam Cung phu nhân ngửa mặt lên trời cười rít lên như ngựa hý. Một hồi lâu, như trút được phần nào căm hờn oán độc sang mọi người, mụ bỗng giơ tay ra lệnh cho Tố Ngọc và nói, "Đi kiếm mẹ chồng mi, bảo mụ tới đây gặp ta, có câu chuyện muốn nói!"

Tố Ngọc vừa lắc đầu vừa nói, "Tổ bà với mẹ chồng tôi là tình thầy trò. Mẹ chồng tôi không thể tới đây vì không nỡ để mắt phải trông thấy cái cảnh Tổ bà thân tàn danh bại!"

Mụ gay gắt nói, "Mày quên rằng mày đã uống "Trấn hồn đan" rồi sao? Nếu ta định cho chúng bay chết thì dễ như trở bàn tay!"

Thấy mụ so vai bĩu môi, Tố Ngọc cứ đều giọng nói tiếp, "Chúng cháu nhớ lắm! Nhưng mẹ chồng cháu tin rằng Tổ bà không giết mẹ con cháu đâu! Mẹ chồng cháu bảo rằng Tổ bà tuổi gần một trăm rồi, trừ mẹ con cháu ra thì trong đời này ai cũng là kẻ thù, không ai thân thích cả. Nếu giết mẹ con cháu đi thì Tổ bà sẽ sống trơ trọi. Tổ bà sẽ cô độc linh đinh, thê lương tịch mịch trong cảnh già, như vậy thì Tổ bà dù có sống, kỳ thực thì thê thảm hơn là chết, cho nên không dám giết mẹ con cháu đâu!"

Nghe tới đây, Nam Cung phu nhân cảm thấy đầu óc quay cuồng, chết lặng cả người! Mụ "hú" lên một tiếng, người lảo đảo chực té xiêu, vội chống gậy mới gượng giữ đứng được.

Tố Thủ với Vô Tâm sẽ đưa mắt cho nhau. Tới lúc này, hai người mới thấy rằng Tố Ngọc quả là một nhân vật lợi hại, mà mỗi lời bà là thủng thẳng, ôn tồn, nói ra là có tác dụng mãnh liệt hơn là phóng từng mũi tên bắn vào gan ruột mụ Nam Cung phu nhân. Một, hai phút lặng lẽ...

Mụ Nam Cung phu nhân bỗng nghẹn giọng nói, "Tố Ngọc! Mau đi kiếm mẹ chồng mày tới! Phải biết rằng, chúng bay cố tình bức bách cho ta chết, thì ta càng quyết tâm muốn sống cô độc, dù phải có khổ với tuổi già, chớ không chịu chết trước bay đâu!"

Tố Ngọc sẽ lắc đầu, ngọt ngào giọng, "Mẹ chồng cháu bảo rằng bữa nay thể nào Tổ bà cũng phải vĩnh biệt cõi đời này."

Thấy mụ hất hàm hỏi, ra ý ngờ vực, Tố Ngọc lạnh lùng nói tiếp, "Vì trước hết là Tổ bà không thắng nổi Lan Cô..."

Mụ bĩu môi nói, "Phi! Tụi bay biết sao được công phu của Lan Cô cao siêu tới bậc nào!"

"So sánh về nội lực thì Tổ bà với Lan Cô ngang tay nhau! So về võ nghệ, Lan Cô tham bác rất rộng tới bậc "lửa lò biến thành xanh", hơn Tổ bà một bậc. Nhưng Tổ bà lại luyện được một vài công phu tuyệt độc hơn Lan Cô. Tóm lại, nếu tận lực tranh đấu, thế tất là cả hai cùng đưa nhau xuống âm phủ!"

Mụ ngẩn ngơ hỏi, "Rồi sao? Thế nào nữa mày nói luôn đi?"

Tố Ngọc nói như người giảng sách, "Thánh Khổng dạy rằng, "Việc người còn chưa tường tận, sao dám bàn đến chuyện ma quỷ." Hiện giờ, trước mắt sẽ ra sao, cháu chưa biết hết. Tạm nói rằng nếu hai người tận lực đấu nhau thì cả hai cùng xuống âm phủ. Sau đó, xuống âm phủ rồi, còn đấu nhau nữa chăng? Câu hỏi ấy ngay đến Tổ bà với Lan Cô cũng chẳng trả lời được! Giờ đây cháu nói ra, chỉ là nguỵ luận. Thánh Khổng mà nghe thấy, thì người sẽ mắng cho...!"

Lan Cô, Vô Tâm cùng phì cười, đều phục Tố Ngọc là ăn nói mềm mỏng, lý luận sâu sắc. Tài tình nhất là Tố Ngọc cứ êm ả, dãi dằng, nói với giọng rí rỏm mà không hề nhếch mép cười!

Nam Cung phu nhân nhếch lông mày lên, nói, "Thế à? Mày nói có lý! Nhưng bà mày đây chỉ cần chết sau chúng mày một chút!"

Tố Ngọc trầm giọng lại, "Hoặc giả thế! Nhưng mẹ chồng cháu nói hiện trong tay giữ hết then chốt máy móc của nhà giam "Mê hồn" rồi, nếu cần mẹ chồng cháu chỉ bấm nút một cái thì bất kể thiện ác, phải trái đều chết hết! Kể cả cháu cũng có trong số đó. Cháu nay đã ngoài năm chục tuổi rồi, có chết cũng chẳng non yểu!"

Ngừng một vài giây, Tố Ngọc lại tiếp, "Mẹ chồng cháu cũng nói rằng sẽ tự vẫn chết sau khi Tổ mẫu chầu trời, để báo đáp công ơn Tổ mẫu nuôi dạy. Còn như cháu, thực ra cũng mong sống thêm vài tuổi nữa, một là để trông nom cho thằng Nghị và con Phượng Trinh, ngoài ra cũng cố tìm kiếm xem thằng Thọ còn sống chăng! Nhưng nếu Tổ bà quyết ý giết cháu, thì cháu cũng vui lòng theo hầu sát bên Tổ bà ở chín suối...!"

Mụ Nam Cung phu nhân cười khanh khách rồi nói, "Như vậy là tụi bay đã có ý phản bội ta từ lâu, đã bàn kỹ lâu rồi!"

Tố Ngọc nói, "Thoạt tiên, cháu chỉ ngờ vực thôi! Lâu lâu mới rõ ra là con cháu Nam Cung thế gia đều do tay Tổ bà mưu hại! Nhưng bên trong còn nhiều điều nghiêm trọng khó hiểu mà thân nhau như mẹ chồng con dâu cũng chưa dám đem ra bàn, vì lỡ ra một ly chút là nguy hiểm đến tính mạng."

Ngừng một chút, Tố Ngọc lại nói thêm, "Đêm qua, khi Tổ bà tiến vào trong nhà giam này, kế đó Điền Tú Linh tiến vào theo, rồi đến đường hầm trấn động sụp xuống. Cháu đoán rằng hẳn còn có lối bí mật khác nữa thông tới đây. Giữa lúc đó Lan Cô vụt tới định bắt cháu để tra hỏi đường lối vào nhà giam. Xin thú thực lúc đó cháu thầm nghĩ rằng thằng Nghị đã xuất hiện ở Trạm Truyền Thanh rồi, Tổ bà định giết nó. Việc không thành, Tổ bà quyết thi hành kế khác để giết cho kỳ được. Nay muốn cứu thằng Nghị, trừ phi Tổ bà chết đi... là hết chuyện! Vì nghĩ thế cho nên cháu mặc tình để Lan Cô bắt cháu mà không chút phản kháng!"

"Sau đó?"

Mụ nghẹn hơi chỉ hỏi được hai tiếng rồi im.

"Cháu cứ nghĩ rằng dù là tánh mạng cháu ở trong tay Lan Cô, nhưng mẹ chồng cháu cũng có thể hy sinh cả cháu đi mà không chịu chỉ dẫn cho Lan Cô biết lối bí mật vào đây. Thực không ngờ, mẹ chồng cháu, vì lo cứu lấy tánh mạng thằng Nghị, nên tức khắc chỉ đường dẫn lối... không chút do dự..."

Mụ thở dài nói, "A! Tụi bay đã coi chết như bỡn thì tài sức như ta cũng không cưỡng ép được..."

Tố Ngọc thản nhiên nói, "Chính thế! Nếu như Tổ bà không tin, không đành lòng, thì xin trước hết hãy giết cháu đi!"

"Không sớm thì muộn... Vội chi!"

Cùng với hai tiếng "vội chi" thoát ra chưa khỏi kẽ mép thì cây gậy trúc của mụ như đạn xé gió, loang loáng chụp phăng lên đầu Tố Thủ Lan Cô. Mụ như con sư tử điên, với cái lối "chuông trống bất thần khua lên đồng loạt" lăn xả tới liều mạnh chỉ tấn công, không phòng thủ, khiến Lan Cô lâm vào cái tình trạng "sấm rền tám phía, không kịp bưng tai". Võ nghệ như Lan Cô khinh linh tuyệt thủ, đôi bàn tay trắng muốt biến hoá thần kỳ, thân mình như dã hạc, nhân vân phiêu hốt quái dị, vậy mà đã mất tiên cơ, trở tay không kịp cũng luôn luôn phải lùi bước.

Nhâm Vô Tâm hoảng lên, nghĩ bụng, tình thế này phải chơi cái lối "cậy đông uy hiếp". Lập tức thét to một tiếng, xé bộ vào, phát ra một chưởng, uy lực kỳ cùng, đập vào ngang lưng mụ.

Lan Cô vội quát giật lên, đồng thời hai tay cũng phát chưởng ra như sấm sét, "Tâm nhi! Tránh ra!"

Kỳ thực là mụ Nam Cung phu nhân đã có dự toán. Mụ vờ vịt làm ra điên cuồn, đánh thục mạng, mà tai mụ rất linh dị. Thoáng bắt gió, biết là Nhâm Vô Tâm đã tập kích, và mụ chỉ cần có thế! "Vèo" một cái, lằn gậy quét ngang về phía sau, biến ra hàng mấy chục ngọn cây phản kích. Nhâm Vô Tâm tài nghệ siêu quần đến bậc nào cũng phải vọt mình nhảy ngang sang bên để thoát, trong khi bàn tay "Tố Thủ" đã dính tới áo mụ rồi, chỉ thấy mụ quay tròn mình đi, rồi nhoáng một cái như cái bóng lọt vào trong cửa hang tròn giữa ao.

Nhâm Vô Tâm giật mình, quát lên, "Trốn đâu thoát!"

Vừa quát vừa lao mình vào theo.

Nhưng Lan Cô còn lẹ gấp bội chàng. Như bóng theo hình cái nút, "Tố Thủ" phất lên, chưởng phong ập đánh vào lưng mụ.

Nam Cung phu nhân cười ré lên, đột nhiên quay lại, tay trái như điện chộp đúng lấy cổ tay Nhâm Vô Tâm, tay mặt kịp vứt bỏ gậy, đưa ra đánh chặn thế chưởng của Lan Cô. Chỉ nghe "bình" một tiếng. Tuy đã có chuẩn bị, nhưng vì mụ phân lực ra giữ tay Vô Tâm nên bị chưởng lực Lan Cô dồn đánh quá mạnh. Mụ lảo đảo lùi lại tới năm bước, thiếu chút nữa thì té xấp xuống, nhưng tay mụ vẫn xiết chặt lấy cổ tay Vô Tâm. Lan Cô tức quá, xô bộ vào, vung chưởng lên toan đánh, chợt nhận ra tay mụ vẫn nắm chặt cổ tay con mình và còn kéo chàng ra phía trước để "đỡ đạn" là khác. Mụ quát lên "ngừng tay!" Kỳ thực thì chẳng quát lên, Lan Cô cũng kịp thời ngừng tay lại rồi!

Nam Cung phu nhân đắc ý, vểnh mặt cười khanh khách, "Công lực, võ nghệ giữa ta với ngươi, ngang nhau! Nhưng... nhưng ngươi có chịu nhận là mưu trí ngươi còn kém ta một nước?"

Lan Cô ức quá, gắt lên, "Ngươi muốn làm gì?"

Mụ cười đanh ác nói, "Cháu dâu ta nói thế mà đúng. Nỗi thống khổ không gì bằng mẹ thấy con bị người ta sắp quật chết! Thằng Nhâm Vô Tâm đây là bậc thiếu niên anh hùng, đến ta đây còn có lúc cảm thấy là thua kém nó. Nếu giờ bị ta quật chết, chắc cũng đáng tiếc...!"

Nhâm Vô Tâm mỉm cười nói, "Ta khuyên mụ chớ uổng phí tâm cơ, xảo trá. Tình thế bữa nay, dù mẹ con ta có bỏ qua không trừng trị mụ, thì con dâu với cháu dâu mụ cũng không thể nào tha thứ cho mụ được! Sao bằng quyết đấu một trận rồi cùng chết...!"

Mụ lạnh lùng nói, "Trước khi ta chết thì ta cũng đập chết ngươi đã."

Điền Tú Linh lúc đó cũng vừa theo vào trong cửa động. Thấy vậy liền nức nở khóc, "Tổ bà bà! Xin buông tha... chàng ra!"

Mụ cười một cách nanh ác, hỏi, "Mày! Muốn gì?"

Điền Tú Linh ấp úng nói, "Cháu có ý khẩn cầu cho... Tổ bà bà."

Mụ nhún vai nói, "Tốt lắm! Mày thử khẩn cầu... coi!"

Lập tức nàng thoăn thoắt chạy tới trước mặt Thường Tố Ngọc. Nhâm Vô Tâm khó chịu quá, vừa toan cất tiếng ngăn cản thì Tú Linh đã thụp quỳ xuống nói, "Tổ bà...!"

Mắt Tố Ngọc bỗng quắc lên, mặt đầy sát khí, giơ tay gạt đi mà rằng, "Cầu xin ở ta vô ích! Kiếm Nhị phu nhân mà thỉnh cầu!"

Lan Cô đột nhiên quát lên và cất bước đi, "Để ta thân hành đi!"

Nhâm Vô Tâm cười mà rằng, "Nam Cung lão phu nhân mà thoát khỏi bữa nay thì quyết không tha thứ cho Nhị và Tam phu nhân. Nhị phu nhân đã phản bội thì mụ sẽ kết thúc đời Nhị phu nhân bằng một nhát đao."

Tố Thủ Lan Cô vừa nói vừa đưa tay chộp lấy cổ tay Tố Ngọc, "Đúng thế!"

Tố Ngọc hơi giật mình, nhưng trấn tĩnh liền và hỏi, "Lan Cô! Định làm gì vậy?"

Lan Cô nói, "Đi cầu với Nhị phu nhân! Nếu người buông tha Trình Ngọc Ngạc ra thì Trình Ngọc Ngạc cũng buông tha con ta ra!"

Thường Tố Ngọc lắc đầu, "Nhâm Vô Tâm nói phải lắm! Chúng ta đừng si tưởng sống mà. Sao bằng tận lực quyết đấu một trận rồi chết cả cho sướng khoái!"

Lan Cô lạnh lùng nói, "Tình mẫu tử, ruột đứt lòng đau. Ta hãy tận lực ta đã."

Nói rồi cất bước đi liền, lôi cả Tố Ngọc đi theo. Tố Ngọc vội nói, "Chớ hấp tấp! Vì một khi chúng ta tiến sâu vào đường ngầm này rồi mà mẹ chồng tôi bấm nút máy thì cả toà nhà đá phía sau sập xuống liền, đố ai sống sót!"

Lan Cô giật mình đưa mắt nhìn Nam Cung phu nhân, thấy gân mặt mụ giật giật lên, mặt tái nhợt đi. Mụ cười gượng, nói, "Có thể lắm! Có điều rằng, một đằng ta giết ngay thằng Tâm đây, thà ta cùng chết một nút với tụi bay còn hơn!"

Lan Cô nghĩ thầm rằng "Mụ già này có vẻ run rồi! Tức là Tố Ngọc đã không nói dối... Nhưng..."

Chợt nghe mụ gọi, "Lan Cô à! Lão đây dù chỉ còn một chút hơi thở thôi, thì cũng quyết không bó tay chịu chết một mình đâu! Có điều rằng thằng Tâm này còn trẻ trung mà chết thì đáng tiếc! Vậy ngươi hãy cố gắng kêu cầu cho hết đạo làm mẹ đi...!"

Nhâm Vô Tâm bỗng dùng lối "truyền âm nhập mật" vo vo như tiếng muỗi bay, nói vào tai Lan Cô, "Mẹ ơi! Mẹ hãy nhìn xa xét rộng hơn nữa! Mẹ cùng với Tố Ngọc hoả tốc ra khỏi đường ngầm ngay đi. Mặc Nhị phu nhân bấm nút cơ quan cho toà nhà sập xuống, con vui lòng cùng mụ Nam Cung vùi xác tại đây!"

Thấy mẹ lắc đầu nhìn nơi cửa hang, có ý ngần ngại không biết tiến lui ra sao, chàng thở dài, bất giác nhớ đến một việc, bèn lại dùng "truyền âm nhập mật" hỏi, "Mẹ ơi! Cha con tên huý là gì? Hiện còn sống chứ?"

Lan Cô hơi rùng mình, liền đó cũng dùng lối "truyền âm" trả lời, "Cha của con là Nhâm Thiên Hoa, vừa khi học thành nghệ hạ sơn thì gặp ta. Lúc đó trên giang hồ chưa ai biết tên tuổi cha con. Còn mẹ đây thì thành danh rất sớm, và hơn cha con đến mười lăm tuổi. Mẹ biết thuật "trụ nhan" cho nên nhan sắc lúc nào cũng như con gái đôi mươi. Sau cuộc kết hôn, đến năm sau thì sanh hạ ra con. Theo phép luyện tập "thượng thừa công phu" thì không nên có thai nghén. Cho nên sau khi sanh hạ con rồi, nguyên khí bị thất tán, mẹ chỉ còn thoi thóp thở."

Mụ Nam Cung phu nhân chợt hỏi, "Mẹ con bàn bạc gì với nhau thế?"

Nhâm Vô Tâm gắt lên, "Bàn chuyện riêng! Mụ hỏi làm gì?"

Lan Cô tiếp tục nói bằng lối truyền âm, "Cha con là kẻ si tình. Thấy ta sắp chết, liền dùng phương pháp "khóa mạch tắt khí" phong toả các kinh mạch của ta lại, khiến ta liên miên như người ngủ, không tỉnh lại. Nhờ vậy mà giữ được chân khí khỏi tiêu tan, không chết mà nhan sắc cứ trẻ trung mãi. Khác một điều là kinh mạch một khi đã phong toả rồi, nếu như mở ra thì lập tức phải chết!"

Nam Cung phu nhân không hiểu hai mẹ con nói gì với nhau, đợi lâu sốt ruột bèn hỏi, "Nói gì mà nhiều vậy? Mẹ con vĩnh biệt nhau chăng?"

Lan Cô lườm mụ một cái, cất to giọng nói với con, "Tâm nhi à! Hồi mẹ còn trẻ, có một vài phen phạm vào sát giới. Trừ cái đó ra thì mẹ vốn là người thanh bạch!"

Mụ Nam Cung phu nhân cười nhạt, nguýt dài một cái và tiếp, "Ta đây cũng là hạng thanh bạch! Ngoài trừ việc gây nên sát kiếp!"

Lan Cô cười nhạt, nói, "Mụ là hạng nhơ nhớp, bẩn thỉu! Chết sớm đi cho rảnh!"

Mụ gân cổ lên nói, "Lão đây không con cái, trơ thân cụ, không phiền luỵ máu mủ gì hết. Chết sớm hay muộn cũng vậy."

Lan Cô "hừ" một tiếng, quay sang nói với Nhâm Vô Tâm, "Cha con vì quá đau thương mà chết sớm. Di thể của Người! Chao ôi! Thôi, không nên nói ra, vì e kẻ thù sẽ tìm cách huỷ hoại thi thể của Người!"

Mụ cười một cách nanh ác, "Quả có thế! Thôi ta đi, đợi gì nữa!"

Lan Cô giận dữ nói, "Mụ đi trước đi!"

Mụ cười nhạt, giơ tay, "Ngươi đi lên trước đi!"

Lan Cô không sao được, quay lại nhìn con rồi nắm tay Tố Ngọc, lôi đi. Nam Cung phu nhân cũng vội vã dẫn Nhâm Vô Tâm theo sau. Mụ không dám chậm trễ vì sợ toà nhà sập xuống. Điền Tú Linh thì đầm đìa nước mắt, đi sau cùng.

Đường hầm tối đen như mực, lạnh lẽo rợn người. Mọi người chân tuy bước lẹ mà vẫn lắng tai nghe ngóng, không rõ Nhị phu nhân ở đâu, chỉ sợ đường hầm sập thì chết hết.

Sự yên tĩnh tuyệt đối trong con đường hầm quanh co, như kéo dào cảm giác kinh hoàng, chết chóc của mọi người. Một hồi lâu, trước mặt thấy có ánh sáng ban ngày, biết rằng đã đi hết đường hầm, mọi người càng gấp bước chạy vội thoát ra ngoài. Như trút được phần nào kinh hãi, người nào người nấy thở phào, ngơ ngác nhìn.

* * *

Phía trước là một toà nội viện, mỗi bề rộng chừng năm mươi thước. Giữa khoảng nền cao, một bà già đầu tóc trắng như bạc, mặt xanh xao, nhưng không có một nét nhăn trên làn da, mình khoác áo bào đen, ngồi trên chiếc ghế bành bằng gỗ tử đàn. Bà già hơi cúi nhìn xuống, thành thử không ai thấy rõ tinh quang đôi mắt ra sao, duy chỉ nhận rõ đôi môi khép kín, xa trông như một nét chỉ đặt ngang dưới mũi, tiêu biểu cho một ý chí kiên quyết, can trường, cố chấp tuyệt đối.

Có bốn người đứng hầu sát bên. Phía tay mặt là Nhị phu nhân, đầu tóc bạc phơ. Phía tay trái là Nam Cung Nghị cụt một tay với một chân, rồi đến Tứ phu nhân Trần Phượng Trinh, đứng bên là một thanh niên tuấn tú, cỡ hai chục tuổi.

Trên bậc thềm phía ngoài, chia ra tả hữu hai bên, sắp hàng lố nhố hơn một trăm người, áo bào đen, đầu mặt trùm mảnh the đen. Đó là toàn số 36 vị Thiên Cang, 72 vị Địa Sát.

Thoáng thấy bóng dáng bà già ngồi trên ghế, Nhâm Vô Tâm đã nhận ra là ai rồi. Chàng giật mình! Một sức mạnh tự nhiên dồn lại, chàng giật phăng tay ra khỏi tay mụ Nam Cung phu nhân, rồi người như cái máy quỳ thụp ngay xuống rập đầu nói, "Tâm nhi tham bái... Thần Lão tiền bối!"

Tự nhiên Lan Cô cũng rời tay ra không giữ tay Thường Tố Ngọc. Tố Ngọc lúc đó cũng ước đoán hiểu bà già là ai rồi, lập tức hai đầu gối khép lại quỳ mọp người xuống.

Điền Tú Linh đi sau cùng, ra khỏi đường hầm thấy mấy người kia quỳ xuống thì cũng quỳ theo. Chợt ngó thấy chàng thiếu niên đứng bên cạnh Trần Phượng Trinh, nàng giật mình, buột miệng la lên, "Thọ...!"

Nghe tiếng Tú Linh la, Nhâm Vô Tâm ngạc nhiên quay lại ngó nàng. Bà già ngồi trên ghế giữa nội viện, tuy mắt vẫn như lim dim nhìn xuống, kỳ thực thì dù là một con muỗi bay ở xa ra, bà ấy cũng biết được đó là con muỗi đực hay muỗi cái. Chỉ nghe bà ta sẽ "hừ" một tiếng, Nhâm Vô Tâm giật bắn người, vội cúi đầu quay mặt đi không dám nhìn ngó Tú Linh nữa.

Bọn người vừa ra khỏi đường hầm đều lần lượt quỳ xuống trừ một mình Lan Cô. Mụ Nam Cung phu nhân vì quá kinh hãi và xúc động nên cứ đứng thộn ra, một vài phút sau mới thụp xuống rập đầu hành lễ.

Tới đây, bà già mới từ từ ngước mắt nhìn Lan Cô, rồi trầm giọng nói, "Tiểu Ma nữ! Gan dạ trùm trời! Dám giả mạo tiếng nói của ta, để trộ nạt đồ đệ ta! Hừ!"

Nhâm Vô Tâm biết tánh nết của mẹ vốn cao ngạo. Lo rằng một cử chỉ, một lời nói của mẹ có thể khiến bà già kia nổi giận chăng, chàng vội dùng lối truyền âm nhập mật mà rằng, "Mẹ ơi! Bà ấy là Thiên Tâm Thần Lão! Tuổi ngoài một trăm rồi! Mẹ nên nhường nhịn một vài phân!"

Trầm ngâm một chút, Lan Cô hơi khom mình rồi nói, "Con tôi may mắn được Thần Lão thương. Tôi rất cảm kích."

Thiên Tâm Thần Lão lạnh lùng, nói, "Vừa thoáng thấy con mụ là lửa giận của ta bốc lên rồi! Thương gì mà thương! Còn như mụ thì ma tánh đã xẹp, nhưng cường ngạo tánh vẫn còn! Đáng tức cười!"

Lan Cô ung dung nói, "Đó là tánh trời, khó đổi. Rất may là con tôi được làm đồ đệ Thái Ất Thượng Nhân! Còn phần tôi thì chưa từng thâu nhận ai làm đồ đệ, cho nên thâm tâm tôi cũng được an ủi phần nào vì chừa từng đem độc hại nơi mình truyền nhiễm sang cho ai..."

Nói đến tánh trời khó đổi! Tỏ rõ Lan Cô không chịu nước lép với cả Thần Lão! Một mặt đưa Thái Ất Thượng Nhân ra để chặn họng Thiên Tâm, vì nếu như Nhâm Vô Tâm có làm điều gì lầm lỗi là do Thái Ất (chồng của Thiên Tâm) đã giáo dục, đào luyện thành. Nói rằng mình chưa nhận ai làm đồ đệ, chưa đem cái dở, cái độc hại ở mình truyền sang cho ai, tức là chê trách Thiên Tâm đã đào luyện nên một tay tàn ác như Nam Cung phu nhân để di hại cho mọi người.

Nhâm Vô Tâm tái mặt đi. Chỉ sợ câu nói của mẹ mình làm cho Thần Lão nổi hung, sinh ra chém giết thì khốn.

Chỉ thấy Thiên Tâm Thần Lão hơi cười, rồi nói, "Học trò ta tuy có gây nên nhiều tội ác, nhưng dù sao cũng đã để cho mụ," giơ tay chỉ Lan Cô, "vẫn sống gần hai chục năm qua rồi! Vả mẹ con mụ được tụ họp, hưởng phước đoàn viên. Mụ nên cảm kích học trò của ta mới phải!"

Sợ mẹ mình lại nói ngang ngạnh điều gì ra, Nhâm Vô Tâm vội vã rập đầu nói chặn cả lời mẹ đi, "Thần Lão tiền bối dạy chí lý! Thần Lão tiền bối dạy phải lắm! Cháu..."

Chợt nghe "hừ" một tiếng, Thiên Tâm Thần Lão ra lệnh, "Tất cả né sang một bên."

Nhâm Vô Tâm vội đứng dậy dắt mẹ lui về bên. Tố Ngọc với Tú Linh cùng vái xuống rồi đứng lên. Nam Cung phu nhân ngẩng mặt nhìn sư phụ, trong lòng sợ hãi, không biết tiến đến lui ra sao!

Thiên Tâm gằn giọng nói, "Ngọc Ngạc! Ta nghĩ rằng mày sống như vậy đã quá nhiều... quá nhiều lắm rồi!"

Nam Cung phu nhân run giọng, cúi đầu nói, "Dạ! Đệ tử biết tội!"

Thiên Tâm Thần Lão nói tiếp luôn, "Ta muốn gia ân cho mày! Tiếc rằng ta cũng chẳng sống bao lâu nữa, nên không thể lưu mày lại, e rằng di độc!"

Nam Cung phu nhân rền rĩ kêu, "Sư phụ! Sư phụ! Nếu định giết đệ tử thì sao... không giết ngay từ... nhưng năm xưa..."

Thần Lão lạnh lùng nói, "Đó là điều rất lầm lỗi của ta!"

Nam Cung phu nhân cuống lên, vừa khóc vừa la, "Tội đệ tử đáng chết! Nhưng chết ở dưới tay sư phụ thì đệ tử không nhắm được... mắt!"

Từ giọng lạnh lùng biến sang giọng bí mật, "Thế à! Ta không tin rằng trừ ta ra, số người có mặt tại đây không ai giết nổi mày!"

Vừa nói vừa đưa mắt nhìn Tố Thủ Lan Cô.

Lan Cô cười nhạt, nói, "Thần Lão vừa dạy rằng Nam Cung phu nhân có ơn to với mẹ con tôi. Vậy mẹ con tôi đâu dám giết một vị là cao đồ của Lão tiền bối."

Câu nói của Lan Cô khiến Nam Cung phu nhân lạnh ớn cả óc, rõ ràng là chê trách và lên án Thần Lão không quyết tâm giết đồ đệ.

Thiên Tâm vờ như không nghe tiếng, sẽ đưa mắt nhìn Nhâm Vô Tâm. Chàng nghĩ thầm, đến như Thái Ất mà còn tránh không muốn tự tay giết học trò của tình nhân nữa là mình. Nghĩ vậy chàng tảng lờ ngoảnh mặt ngó đi chỗ khác.

Thiên Tâm quay sang bên cạnh bảo với Nhị phu nhân, "Tụi mày đều là hàng dưới! Không nên phạm thượng! Hãy hỏi xem trong hàng Thiên Cang Địa Sát có ai muốn ra tay chăng?"

Nhị phu nhân cúi đầu nói, "Thưa! Nhưng người ấy đã mất hết ký ức, không nói năng được vì cấm khẩu. Thiết nghĩ không ai... ra tay được..."

Thần Lão gật đầu, nhìn Nam Cung phu nhân rồi nói, "May mắn cho mày! Vậy là ta có thể tạm để cho mày..."

Thần Lão định nói "tạm để cho mày... sống", nhưng vì trong bụng hơi thẹn, ngập ngừng chưa kịp nói ra, thì bỗng có tiếng một thiếu nữ, quát lên, "Khoan đã! Có tôi đây để giết nó!"

Mọi người choáng cả lên, vội nhìn ra! Một thiếu nữ áo xanh, nhan sắc tuyệt trần, tay xách bảo kiếm từ nóc viện bay vụt xuống, lẹ như gió. Thần Lão hơi nheo mắt, hỏi Nhị phu nhân, "Con bé kháu khỉnh quá! Nó là học trò ai vậy?"

Nhị phu nhân chỉ tay vào người đứng thứ năm trong hàng 36 vị Thiên Cang, "Người đứng kia họ Diệp, tên Trường Thanh, đứng đầu Trung Nguyên Tứ quân tử. Còn người con gái này là Diệp Sương Y, con gái của Trường Thanh. Nàng quyết tâm cứu cha nên từ lâu đã bí mật xin vào làm tỳ nữ cho Trần Phượng Trinh!"

Thần Lão gật đầu, cười, "Chí và hạnh đều đáng khen lắm! Đởm khí càng đáng phục!"

Bỗng hất hàm, lớn tiếng hỏi, "Diệp Sương Y! Võ nghệ mi được bao nhiêu mà dám nghĩ đến việc giết đồ đệ của ta?"

Mặt lạnh như sương, Diệp Sương Y tay lắc lắc thanh bảo kiếm, giơ lên.

Thần Lão cười nhạt hỏi, "Đủ giết chăng?"

"Tiền bối uổng mang danh là thế ngoại cao nhân! Đối với một tên nghiệt đồ làm hại nhân gian, đã không dám tự tay giết đi. Nhưng còn võ công của nó, lẽ nào lại không thâu hồi về ư?"

Lời Diệp Sương Y như đanh như thép, mắt nàng quắc lên như muốn phun ra lửa. Thiên Tâm Thần Lão tím mặt lại, có vẻ lúng túng.

Một tia hy vọng sống thoát vừa loé lên trong thâm tâm của Nam Cung phu nhân, bỗng bị Diệp Sương Y dập tắt liền. Mụ ức quá, nếu không ở trước mặt sư phụ thì chỉ một cánh tay của mụ cũng đủ đập cho nàng nát ra như bùn. Đột nhiên Thần Lão cất giọng rắn như thép, lạnh như tiền, rít răng, nói, "Diệp Sương Y! Ta tình nguyện thâu hồi võ công của học trò ta, mặc tình cho mày giết nó! Nhưng..."

Bà gằn từng tiếng nói, "Nhưng cái thù giết đồ đệ ta ấy, ta quyết phải báo...!"

Diệp Sương Y ngạc nhiên, gật đầu, "Lẽ ấy tự nhiên! Giết người thường mạng! Diệp Sương Y này, võ nghệ dù kém, nhưng gan dạ chẳng kém. Không trốn chạy đâu!"

"Được lắm!"

Chưa dứt tiếng, Thần Lão vụt đứng lên! Không ai kịp nhận rõ động tác ra sao đã thấy bà già tới trước mặt Nam Cung phu nhân, và tay phải đặt lên đúng nơi thóp phía trên trán của mụ. Một tiếng "rú" rùng rợn nổi lên, Nam Cung phu nhân quay đi một vòng, ngã lăn ra, người run bắn lên, mặt xám lại như tro.

Vẻ mặt Thần Lão lúc đó so ra còn đau khổ hơn Nam Cung phu nhân. Thần Lão thâu tay về, lùi lại hai bước. Trên dưới trong ngoài lặng lẽ như tờ!

Một lúc sau, Thần Lão mới nói, "Sương Y! Còn đợi gì nữa! Hạ thủ mau!"

Diệp Sương Y hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm, "Việc đến nước này! Đến đây hay đến đó!"

Nàng nghiến chặt hàm răng, bỗng thọc tay vào tận lần áo trong của Nam Cung phu nhân, lấy ra một chiếc bình bằng ngọc, có đề chữ "Tỉnh tửu thang" tức là thuốc bí truyền giải mê, khôi phục lại ký ức. Tay cầm chiếc bình, mắt ngắm nhìn, bụng nghĩ nếu như thuốc này mà khôi phục được ký ức cho cha và mọi người thì cũng nên sinh phúc tha chết cho mụ Nam Cung phu nhân. Nàng hơi do dự, miệng mấp máy định nói gì lại thôi!

Bỗng nhiên Thần Lão đưa tay vẫy một cái, chiếc bình ngọc thoát khỏi tay Sương Y. Thần Lão đón cầm lấy, mỉm cười nói!

"Tốt lắm! Ta sẽ cứu tỉnh bọn Thiên Cang Địa Sát, rồi thả cả đi!"

Diệp Sương Y cao giọng nói, "Khoan đã! Đợi tôi giết Nam Cung phu nhân, Thần Lão báo thù, giết tôi xong rồi sẽ cứu tỉnh các người kia sau. Như vậy sẽ tránh khỏi một cuộc tranh chấp thứ ba, đổ máu vô ích!"

Thần Lão nói, "Một mình ngươi làm thì một mình ngươi chịu! Can gì đến các người kia! Ngươi cứng đầu cứng cổ vừa chứ!"

Diệp Sương Y như không để ý đến Thần Lão nói. Nàng cúi đầu nhìn Nam Cung phu nhân mà rằng, "Lúc này mụ là phế nhân! Nếu ta giết mụ thì không đáng là anh hùng! Nhưng nếu để mụ sống thì bao nhiêu oan hồn bị mụ giết uổng, không sao nhắm mắt được... Chao ôi...!"

Nam Cung phu nhân lúc đó hết hy vọng sống, gay gắt giọng mà rằng, "Mi không dám giết ta, ấy là sợ sư phụ ta báo thù! Mi là đồ tham sống sợ chết!"

Diệp Sương Y nghĩ thầm, "Cố nhiên là sư phụ mi không để ta sống!"

Nghĩ vậy, mặt nàng thảm đạm, đưa mắt nhìn Nhâm Vô Tâm. Chàng rùng mình nghĩ thầm rằng, nếu luận về đởm khí, phách lực và lòng nghĩa hiệp, thật mình còn thua nàng. Đột nhiên thấy nàng cau mày, cất giọng trầm nghị, "A! Người khác dám chết! Lẽ nào ta lại...!"

Lưỡi gươm loáng lên một cái như chớp, đâm thẳng một nhát!

Một tiếng rú lên, mũi gươm xuyên suốt qua ngực Nam Cung phu nhân, máu tươi phun ra giữa những tiếng rú theo của mọi người. Thực không ai ngờ rằng Thần Lão đứng ngay bên cạnh mà lại để mặc không cứu Nam Cung phu nhân.

Vụt cái lưỡi gươm của Diệp Sương Y lại loáng lên. Tay nàng lật một cái đưa thẳng mũi gươm vào cổ! Nàng tự sát! Mọi người lại rú lên, hàng mấy trăm con mắt bị hoa lên... chỉ thấy đánh nhoáng một cái lẹ hơn chớp, cổ tay nàng bị bàn tay Thần Lão chộp giữ, không cựa được!

Diệp Sương Y đỏ mặt lên, quát hỏi, "Ta giết người thì ta đền mạng! Còn muốn gì nữa!"

Thiên Tâm Thần Lão cười mà rằng, "Lão chỉ có một mình nó là đồ đệ, nay bị ngươi đâm chết. Ngươi đền mạng bằng cách tự sát ư? Không được! Chưa đủ để đền mạng cho học trò ta!"

Diệp Sương Y thản nhiên buông tay cho thanh gươm rớt xuống đất kêu "xoảng xoảng", đoạn vươn cổ lên đợi...

Thần Lão cười khanh khách, nói, "Hạ chỉ dễ dàng quá, lẽ chuyện thế thôi ư? Ha ha! Ta phải hành hạ, đầy ải ngươi kỳ cho tới khi hai tay ta buông xuôi, hai mắt ta nhắm lại... Ha... ha..."

Nhâm Vô Tâm thấy Thần Lão dụng ý độc ác quá vừa toan tiến lên để can, ngăn mụ chớ quá tàn nhẫn. Chợt có tiếng vo ve như ong bay, nói vào tai rằng, "Không có chuyện hành hạ đâu! Con bé kia sẽ là nàng dâu họ Đường! Hà... hà... Mụ Thần Lão định thâu nó làm đồ đệ, truyền thụ công phu võ nghệ cho, tức là thay thế kẻ hương khói đèn nhang sau này. Vậy mặc họ với nhau, con hãy dời khỏi đầy mau... chớ lôi thôi dính líu vào việc riêng người ta...!"

Nhâm Vô Tâm nhận rõ là tiếng của ân sư Thái Ất Thượng Nhân. Chàng ngơ ngác nhìn quanh, không thấy bóng ân sư đâu cả. Chợt mắt chàng tiếp xúc với mắt Điền Tú Linh. Bốn tia mắt giao nhau, nảy điện! Chàng cảm thấy rùng mình...

Tiếng Thái Ất Thượng Nhân lại nổi lên, vi vu như rót vào tâm não chàng, "Súc sinh kia! Đó là vợ Nam Cung Thọ, từng có cưới xin đàng hoàng! Mày dám quyến rũ nó chăng?"

Chàng đưa mắt nhìn Nam Cung Thọ, lại nhìn Thiên Tâm Thần Lão, tự nhiên cảm thấy lạnh toát cả người. Vội nắm lấy tay mẹ kéo đi, chạy quáng chân lên cổ!

Tiếng Thần Lão quát gọi, "Nhâm Vô Tâm! Quay trở lại!"

Hình như không nghe tiếng Thần Lão gọi, Nhâm Vô Tâm đương chạy, bỗng kéo tay mẹ nhảy phóc lên nóc mái. Tố Thủ Lan Cô ngạc nhiên hỏi, "Vô Tâm à! Con sợ hãi cái gì... chứ?"

Chàng bủn rủn cả người! Thực ra chàng không sợ Thiên Tâm Thần Lão! Chàng có nghe thấy tiếng Thần Lão gọi đâu! Thực ra lúc đó tâm hồn chàng vang vang lên, phảng phất như có tiếng Điền Tú Linh và Diệp Sương Y đương gọi theo... Chàng cảm thấy ớn lạnh óc!

Nghe tiếng mẹ hỏi, chàng giật mình, ấp úng nói, "Mẹ! Mẹ dắt con...! Con bải hoải cả tay chân rồi, không chạy được nữa...! Chạy... mau...!"

Tố Thủ Lan Cô kinh hãi, không hiểu vì sao con mình bỗng hoảng hốt đến như thế.

"Mẫu tử tình thâm", thấy con cuống lên cầu cứu, Tố Thủ Lan Cô vội nắm chặt lấy tay con, bất giác gia tăng bước chân. Trong nháy mắt, hai mẹ con buông mình đi như gió, như chớp... biến dạng...!

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Asia