ZingTruyen.Asia

Lsnnpl

NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ

Quá trình hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ

Cơ sở hình thành nhà nước phương Đông cổ đại

Điều kiện tự nhiên

Cả bốn nền văn minh Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc đều xuất hiện trên lưu vực của các con sông lớn trên thế giới. Yếu tố này đã tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế và xã hội của phương Đông cổ đại

Những đồng bằng rộng lớn, màu mỡ hình thành trên lưu vực các con sông là điều kiện quan trọng để ngành kinh tế nông nghiệp xuất hiện từ rất sớm.

Khí hậu nhiệt đới

Những con sông lớn tiềm ẩn thiên tai lũ lụt nên công tác trị thuỷ, thuỷ lợi trở thành một nhu cầu cơ bản để tồn tại và phát triển kinh tế của cư dân thời kỳ này. Vì đặc trưng hoạt động trị thủy cần rất nhiều sức người, sức của nên tính gắn kết cộng đồng ở phương Đông rất cao.

Nguồn đất và nguồn nước là quan trọng nhất nên các cuộc chiến tranh để tranh giành các nguồn lực này xảy ra thường xuyên. Địa hình ở đây mang tính khép kín nên các cuộc chiến chủ yếu là nội chiến giữa các tộc người sống trên cùng một vùng đất.

1.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội

Kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên (điều kiện của các con sông, điều kiện khí hậu). Khi công cụ lao động bằng đồng ra đời, ngành nông nghiệp phát triển ngày càng mạnh mẽ. Thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng xuất hiện sau ba lần phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, tính chất tự nhiên, tự cung tự cấp là đặc trưng của nền kinh tế phương Đông cổ đại.

Kinh tế phát triển, sản phẩm lao động ngày càng nhiều đã phá vỡ chế độ sở hữu chung của chế độ công xã thị tộc. Chế độ tư hữu ra đời (tư hữu về tư liệu sinh hoạt) dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo. Trong xã hội đã dần hình thành ba giai cấp cơ bản: Giai cấp chủ nô là giai cấp giữ địa vị thống trị trong xã hội và bóc lột những giai cấp khác; Giai cấp nô lệ và giai cấp nông dân là giai cấp bị trị và bị bóc lột. Chế độ chiếm hữu nô lệ mang tính gia trưởng. Số lượng nô lệ ít, nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chính trong xã hội mà chủ yếu phục vụ trong gia đình chủ nô.

Sự xuất hiện nhà nước ở phương Đông cổ đại, ngoài yếu tố xuất hiện tư hữu, phân hoá giai cấp và đấu tranh giai cấp, còn có hai yếu tố làm thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành nhà nước đó là yếu tố trị thuỷ và chiến tranh. Nhà nước phương Đông ra đời là một ngoại lệ của học thuyết Mác- Lênin về sự hình thành nhà nước.

Cơ sở hình thành nhà nước phương Tây cổ đại

1.2.1. Điều kiện tự nhiên

Hai nền văn minh Hy Lạp và La Mã xuất hiện trên các bán đảo, có rất nhiều vịnh, hải cảng, khoáng sản quý. Khí hậu ôn đới. Ở đây kinh tế nông nghiệp xuất hiện nhưng kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp mới là kinh tế chủ đạo. Địa hình mở là điều kiện để các cuộc chiến tranh thôn tính diễn ra một cách thường xuyên.

1.2.2. Điều kiện kinh tế- xã hội

Công cụ lao động bằng sắt ra đời, kinh tế nông nghiệp phát triển. Sau ba lần phân công lao động xã hội, thủ công nghiệp và thương nghiệp xuất hiện và trở thành kinh tế chủ đạo. Nền kinh tế phát triển nên chế độ kinh tế của thời kỳ công xã thị tộc nhanh chóng tan rã.

Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ, trong đó giai cấp thống trị bao gồm quý tộc thị tộc và quý tộc công thương nghiệp. Giai cấp bị trị bao gồm tầng lớp bình dân và nô lệ. Trong đó, nô lệ là giai cấp bị trị chủ yếu với số lượng đông đảo và là lực lượng sản xuất chính trong xã hội. Chế độ nô lệ phương Tây mang tính điển hình.

Sự mâu thuẫn giai cấp gay gắt dẫn đến đấu tranh giai cấp. Khi giai cấp bị trị đấu tranh, giai cấp thống trị đã trấn áp các cuộc đấu tranh và thiết lập ra Nhà nước. Nhà nước ra đời là kết quả tất yếu của đấu tranh giai cấp.

Lịch sử hình thành, phát triển và suy vong của các nhà nước chiếm hữu nô lệ

Phương Đông

Ai Cập

Lịch sử phát triển của nhà nước Ai Cập được các sử gia chia thành 4 thời kỳ: Tảo vương quốc; Cổ vương quốc (thiên niên kỷ III – II TCN) đây là thời kỳ hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ Ai Cập; Trung vương quốc (thế kỷ XX đến thế kỷ XVI TCN) đây là thời kỳ vững mạnh nhất của nhà nước Ai Cập; Tân vương quốc. Năm 225 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm lược. Chế độ chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập chấm dứt.

Lưỡng Hà

Xuất hiện vào đầu thiên niên kỷ thứ III TCN, với sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ của người Xume như: Ua, Êriđu, Lagash... Khoảng đầu thế kỷ XXIII TCN, miền nam Lưỡng Hà thống nhất với sự cai trị của người Xêmit, đặt tên nước là Accat. Vào thế kỷ XXI – XX TCN, người Xume giành lại được quyền thống trị và thành lập một quốc gia thống nhất là vương quốc Ua. Cuối của thế kỷ XX TCN, Lưỡng Hà bị phân hoá thành những quốc gia nhỏ. Đầu thế kỷ XIX TCN, người Amôrit thống trị ở Lưỡng Hà và thành lập vương quốc Babilon, đây là thời kỳ cực thịnh nhất của Lưỡng Hà, đặc biệt dưới triều đại của vua Hammurapi. Sau khi Babilon bị diệt vong, Lưỡng Hà bị các tộc người bên ngoài thống trị. Giữa thế kỷ thứ VII TCN, nhà nước Babilon được khôi phục dưới tên gọi vương quốc Tân Babilon và tồn tại trong gần 1 thế kỷ. Năm 538 TCN, Lưỡng Hà bị Ba Tư thôn tính.

Ấn Độ

Khoảng đầu thiên niên kỷ III đến giữa thiên niên kỷ thứ II TCN, nền văn minh Harappa và Môhenjô-Đarô xuất hiện ở lưu vực sông Ấn. Lúc này, dân cư là người Đravida đang sống trong quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy để chuyển sang xã hội có nhà nước. Nửa sau thiên niên kỷ thứ II TCN, cùng với sự lan rộng của sa mạc Thar là sự thiên di ồ ạt của người Arya (tộc người nói ngôn ngữ Ấn Âu) đã làm cho nền văn minh sống Ấn bị suy tàn và dần chuyển sang nền văn minh sông Hằng. Người Aryan thành lập nhiều tiểu quốc ở đồng bằng sông Hằng. Đến khoảng thế kỷ thứ VI TCN, vương quốc Magađa triển hùng mạnh và thống nhất miền bắc Ấn Độ. Cuối thế kỷ thứ IV TCN, Chanđa Grupta lãnh đạo nhân dân ở đồng bằng sông Ấn thực hiện cuộc chiến chống lại quân xâm lược của Alechxăngdrơ (thủ lĩnh người Maxêđônia) và lật đổ sự thống trị của vương quốc Magađa, thành lập vương tiều Môria, một vương triều hưng thịnh nhất ở Ấn Độ.

Từ thế kỷ I TCN đến thế kỷ III, Ấn Độ rơi vào tình trạng phân quyền cát cứ. Đến thế kỷ IV, vương triều Guptaxuất hiện và đánh dấu sự kết thúc của chế độ chiếm hữu nô lệ, chuyển sang chế độ phong kiến ở Ấn Độ.

Trung Quốc

Đầu thiên niên kỷ thứ III TCN, Trung Quốc bước vào giai đoạn dân chủ quân sự, là giai đoạn quá độ từ công xã thị tộc sang xã hội có giai cấp. Cuối thiên niên kỷ thứ III TCN, vương triều nhà Hạ được thành lập và mở đầu cho sự xuất hiện của nhà nước Trung Quốc.

Năm 1711 TCN, vương triều nhà Thương lật đổ nhà Hạ. Năm 1066 TCN, vương triều nhà Chu lật đổ nhà Thương. Nhà Chu thực hiện chính sách phân phong đất đai cho con cháu của mình làm chư hầu. Lịch sử nhà Chu được chia thành hai thời kỳ là thời kỳ Tây Chu (1066 – 770 TCN) và thời kỳ Đông Chu (771 – 256 TCN). Thời kỳ Đông Chu lại được chia thành 2 giai đoạn: Xuân Thu (771 – 475 TCN), Chiến Quốc (475 – 256 TCN).

Phương Tây

Hy Lạp

Đầu thiên niên kỷ thứ II TCN, nền văn minh tối cổ Cret – Myxen xuất hiện ở miền nam bán đảo Bankan. Thế kỷ XXI TCN, người Hy Lạp từ phương bắc tấn công và tàn phá nền văn minh tối cổ Cret – Myxen, xã hội quay về thời kỳ mạt kỳ của chế độ công xã nguyên thủy, gọi là thời kỳ Home. Thế kỷ IX – VIII TCN, các quốc gia thành bang được thành lập và tồn tại đến khoản thế kỷ thứ IV TCN, nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ thành bang. Khi người Makedonia tấn công, các thành bang ở Hy Lạp bị thất thủ, toàn bộ các thành bang bị vương quốc Makedonia thống trị, nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ Makedonia. Đến thế kỷ II TCN, toàn bộ đất đai của Hy Lạp đều thuộc quyền cai trị của nhà nước La Mã.

La Mã

Vào thế kỷ XIII TCN, xã hội La Mã đang tồn tại trong giai đoạn công xã nguyên thủy mạt kỳ. Trên đồng bằng Latium là nơi sinh sống của 3 bộ lạc, gọi họ là người Latinh. Mỗi bộ lạc có 10 bào tộc (Curi). Mỗi Curi lại chia thành 10 thị tộc. họ xây dựng tường thành để bảo vệ cuộc sống của mình và đặt tên cho nó là Rôma, chính họ sau này là người La Mã và Thế kỷ VI TCN, với cuộc đấu tranh giữa quý tộc Etruscan và bình dân Plebs cùng với chiến thắng trong cuộc đấu tranh đánh đuổi người giữa người Etruscan của dân tộc La Mã, nhà nước Lã Mã được hình thành và tồn tại dưới chế độ cộng hòa, nên gọi thời kỳ này là thời kỳ cộng hòa. Thời kỳ cộng hòa tồn tại đến thế kỷ I TCN thì chế độ cộng hòa dần bị thay thế bời chế độ quân chủ chuyên chế. Thời kỳ đế chế của La Mã tồn tại đến thế kỷ thứ V mới sụp đổ và bị người Giecmanh cai trị và chuyển sang thời kỳ phong kiến.

Chế độ xã hội

Chế độ xã hội ở phương Đông cổ đại

Kết cấu giai cấp

- Giai cấp thống trị: quý tộc chủ nô

- Giai cấp bị trị: nông dân công xã, thợ thủ công, thương nhân và nô lệ

Quan hệ giai cấp

Mâu thuẫn chủ đạo trong xã hội: quý tộc chủ nô và nông dân công xã

Chế độ xã hội ở phương Tây cổ đại

Kết cấu giai cấp

- Giai cấp thống trị: quý tộc chủ nô (bao gồm quý tộc thị tộc và quý tộc công thương nghiệp).

- Giai cấp bị trị: bình dân, nông dân lao động và nô lệ.

Quan hệ giai cấp

Mâu thuẫn chủ đạo: quý tộc chủ nô và nô lệ.

Tổ chức nhà nước

Tổ chức nhà nước phương Đông cổ đại

Hình thức chính thể của các nhà nước phương Đông cổ đại là quân chủ tuyệt đối và mang tính chất là trung ương tập quyền.

Ở trung ương

Vua:

Vua đứng đầu nhà nước với quyền lực tối cao. Vua nắm quyền lực tuyệt đối trên tất cả mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng. Vua có quyền ban hành luật, mệnh lệnh có giá trị thi hành như pháp luật; có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của quốc gia; có quyền bổ nhiệm, cách chức, trừng phạt bất kỳ ai. Vua cũng đồng thời được thần thánh hoá, được xem là con trời hoặc đại diện của thần linh.

Quan đầu triều: người đứng đầu hệ thống qua lại, có rất nhiều quyền lực.

Hệ thống quan lại giúp việc

Ở địa phương

Quản lý tại địa phương thường dựa vào công xã nông thôn.

Tổ chức nhà nước phương Tây cổ đại

Nhà nước Sparta

Hình thức chính thể: cộng hòa quý tộc chủ nô

Tổ chức bộ máy nhà nước Sparta bao gồm:

Hai Vua

Hội đồng trưởng lão

Hội nghị công dân

Hội đồng năm quan giám sát

Nhà nước Athens

Khi mới hình thành, Athens có hình thức chính thể cộng hoà quý tộc chủ nô. Sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp thúc đẩy sự lớn mạnh của tầng lớp quý tộc công thương nghiệp ở Athens. Quá trình dân chủ hoá ở nhà nước ở Athens đã diễn ra qua các cuộc cải cách điển hình: Cải cách của Solon, Cải cách của Clixten, Cải cách của Ephantes

Hình thức chính thể của Athens sau cải cách: cộng hòa dân chủ chủ nô

Tổ chức bộ máy nhà nước Athens thời kỳ dân chủ đỉnh cao:

Hội nghị công dân

Hội đồng 500 người

Hội đồng 10 tướng lĩnh

Toà bồi thẩm

Nhà nước La Mã

Thế kỷ VI TCN- I TCN: hình thức chính thể của La Mã là cộng hòa quý tộc chủ nô

Tổ chức bộ máy nhà nước của La mã bao gồm:

Hội nghị công dân: Đại hội Xenturi và Đại hội bình dân

Viện nguyên lão

Hội đồng quan chấp chính

Hội đồng quan án

Viện quan bảo dân

Giai đoạn thế kỷ I TCN- V: hình thức chính thể của La Mã là quân chủ chuyên chế chủ nô (đế chế)

CHUYÊN ĐỀ 2

PHÁP LUẬT CHIẾM HỮU NÔ LỆ

1. Pháp luật phương Đông cổ đại

Bộ luật Hammurapi của Lưỡng Hà

Bộ luật Hamurapi do Vua Hammurapi xây dựng và ban hành, gồm có 282 điều, điều chỉnh nhiều quan hệ xã hội ở nhà nước cổ Babilon.

Bộ luật này chưa có sự phân định rõ các ngành luật, chế định luật nhưng nhà làm luật đã có ý thức sắp xếp các quy định điều chỉnh những quan hệ xã hội cùng loại ở gần nhau.

Bộ luật Manu của Ấn độ cổ đại

Bộ luật Manu là bộ luật thành văn hoàn chỉnh nhất trong tất cả các luật lệ cổ của Ấn độ cổ đại, được xây dựng bởi các giáo sỉ Bà la môn vào khảong thế kỷ II- I TCN.

Bộ luật này có 2685 điều, có các quy định về nhiều vấn đề trong xã hội như chính trị, tôn giáo, quan niệm về thế giới, pháp luật...

Pháp luật Trung Quốc cổ đại

Pháp luật Trung Quốc cổ đại thời kỳ nhà Hạ và Thương còn rất sơ khai. Đến thời kỳ nhà Chu pháp luật được chú trọng với "ngũ lễ" và "ngũ hình". Đến thời kỳ Chiến quốc, hàng loạt các bộ luật thành văn ra đời.

Đồng thời, pháp luật Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu- Chiến quốc còn chịu sự ảnh hưởng của các tư tưởng chính trị pháp lý.

Đặc trưng của pháp luật phương Đông cổ đại.

- Về kỹ thuật xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật của các quốc gia phương Đông được xây dựng tương đối đa dạng để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội xuất hiện ngày càng nhiều.

- Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, chưa có sự phân định thành các chế định luật, ngành luật

- Pháp luật vẫn mang tính chất "trọng hình, khinh dân",

- Từ ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật rất cụ thể, mô tả dài dòng, trùng lắp và không mang tính khái quát.

- Pháp luật công khai thừa nhận sự bất bình đẳng.

- Pháp luật phương Đông cổ đại mang tính chất đồng thái phục thù.

- Pháp luật cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan niệm tín ngưỡng tôn giáo, lễ và các hệ tư tưởng chính trị

- Hệ thống hình phạt dã man, thường sử dụng nhục hình.

2. Pháp luật phương Tây cổ đại

Pháp luật Hy Lạp cổ đại: điển hình là pháp luật Athens

Pháp luật La Mã cổ đại

Thời kỳ Cộng hòa sơ kỳ (TK VI – III TCN): xuất hiện Bộ luật thành văn đầu tiên là Bộ luật 12 bảng.

Pháp luật thời kỳ này có các đặc trưng:

Pháp luật công khai thừa nhận bất bình đẳng: về giai cấp, về đẳng cấp, về giới tính.

Pháp luật mang tính trọng hình khinh dân.

Pháp luật hình sự còn mang tính chất đồng thái phục thù.

Pháp luật ít bị ảnh hưởng bởi tôn giáo.

Kỹ thuật lập pháp chưa cao.

Thời kỳ Cộng hòa hậu kỳ (TK III TCN – TK V)

Pháp luật thời kỳ này có các đặc trưng:

Pháp luật vẫn công khai thừa nhận sự bất bình đẳng: về giai cấp, về đẳng cấp.

Pháp luật dân sự, thương mại rất phát triển và mang tính kinh điển và được pháp luật các thời kỳ sau kế thừa. Có rất nhiều khái niệm pháp lý mang tính chuẩn mực và nhiều quy định rất phát triển trong chế định hợp đồng, hôn nhân gia đình, thừa kế.

Pháp luật ít bị ảnh hưởng bởi tôn giáo.

Kỹ thuật lập pháp cao, có những khái niệm pháp lý mang tính chuẩn mực.

CHUYÊN ĐỀ 3

NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhà nước phong kiến

Nhà nước phong kiến phương Đông

Điển hình là nhà nước phong kiến Trung Quốc.

Kinh tế: Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất phong kiến Trung Quốc.

Xã hội: Xuất hiện giai cấp địa chủ và tá điền.

Lịch sử: những cải cách của nhà Tần và cuộc chiến thống nhất Trung Quốc.

1.2 Nhà nước phong kiến Tây Âu

Quá trình xuất hiện quan hệ sản xuất phong kiến.

Cuộc chiến tranh xâm lược của người Giéc manh.

Lịch sử hình thành, phát triển và suy vong

Trung Quốc

Tây Âu

- Giai đoạn sơ kỳ (thế kỷ V – thế kỷ IX) là giai đoạn xuất hiện các vương quốc lớn nhỏ khác nhau của người Giecmanh.

- Giai đoạn trung kỳ (thế kỷ X – thế kỷ XV), kinh tế công thương nghiệp dần xuất hiện và phát triển. Các thành thị xuất hiện, phát triển một cách tự phát và thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để thoát khỏi sự quản lý của các lãnh chúa phong kiến. Các thành thị đấu tranh đã làm xuất hiện thành thị tự tri với hai mức độ: tự trị hoàn toàn và tự trị không hoàn toàn.

- Giai đoạn mạt kỳ (thế kỷ XV – thế kỷ XVII), kinh tế công thương nghiệp phát triển vượt bậc, tầng lớp thị dân lớn mạnh, đã dần trở thành giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản hậu thuẫn cho quyền lực nhà vua thiết lập hình thức chính thể quân chủ tuyệt đối. Với sự lớn mạnh về kinh tế, thế kỷ XVII, giai cấp tư sản lãnh đạo nông dân thực hiện cách mạng tư sản thành công và thiết lập các nhà nước tư sản, chấm dứt thời kỳ phong kiến ở Tây Âu.

3. Chế độ xã hội

3.1 Trung Quốc

Kết cấu giai cấp

Giai cấp thống trị: địa chủ phong kiến

Giai cấp bị trị: nông dân (nông dân tự do, tá điền), thợ thủ công, thương nhân và nô tỳ.

Quan hệ giai cấp

Mâu thuẫn chủ đạo: địa chủ phong kiến và nông dân

3.2 Tây Âu

Kết cấu giai cấp

Giai cấp thống trị: lãnh chúa phong kiến (bao gồm lãnh chúa thế tập và lãnh chúa tăng lữ). Lãnh chúa thế tập bao gồm: công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước, kỵ sĩ và tiểu kỵ sĩ. Lãnh chúa tăng lữ bao gồm: đại giáo chủ, giáo chủ và giáo phụ. Thị dân

Giai cấp bị trị: nông nô và nông dân tự do

Quan hệ giai cấp

Mâu thuẫn chủ đạo là giữa lãnh chúa phong kiến và nông nô.

4. Tổ chức bộ máy nhà nước

4.1 Nhà nước phong kiến Trung Quốc

Hình thức chính thể của nhà nước phong kiến Trung Quốc là quân chủ tuyệt đối và mang tính chất là trung ương tập quyền. Trong tất cả các triều đại, Hoàng đế luôn là người đứng đầu nhà nước, toàn bộ quyền lực đều tập trung vào tay nhà vua.

Đứng đầu nhà nước là Vua, dưới Vua là Quan đầu triều (ngoại trừ triều đại nhà Minh) và hệ thống quan lại giúp việc.

4.2 Tổ chức bộ máy nhà nước ở Tây Âu qua các giai đoạn

2.3.1. Thời kỳ sơ kỳ (thế kỷ V – X)

Hình thức chính thể: quân chủ tuyệt đối.

2.3.2. Thời kỳ trung kỳ (thế kỷ XI- XV)

- Chế độ cộng hòa thành thị trong các thành thị tự trị (thế kỷ XI – XIII).

- Nền quân chủ đại diện đẳng cấp (thế kỷ XIII – XV).

2.3.4. Thời kỳ mạt kỳ (thế kỷ XV- XVII)

Hình thức chính thể: quân chủ tuyệt đối.

CHUYÊN ĐỀ 4

PHÁP LUẬT PHONG KIẾN

Pháp luật phong kiến phương Đông

Điển hình là pháp luật phong kiến Trung Quốc

Pháp luật phong kiến Trung Quốc qua các triều đại.

Đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc.

Pháp luật mang tính "trọng hình, khinh dân"

Trong các triều đại, nhà vua luôn là trung tâm của hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật.

Pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự kết hợp giữa lễ và hình.

Pháp luật phong kiến Trung Quốc có sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị, giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.

2. Pháp luật phong kiến Tây Âu

2.1. Nguồn của pháp luật phong kiến Tây Âu.

2.2. Nội dung của pháp luật phong kiến Tây Âu

Những quy định về dân sự

Những quy định về hình sự

Những quy định về tố tụng

Đặc trưng của pháp luật phong kiến Tây Âu

Pháp luật phong kiến Tây Âu kém phát triển hơn so với pháp luật La Mã thời kỷ cộng hoà hậu kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự, vì:

Tình trạng phân quyền cát cứ và kinh tế tự cung tự cấp đã kìm hãm sự phát triển của kinh tế hàng hoá.

Trong thời gian này, các lãnh chúa phong kiến phải tập trung vào các cuộc chinh phạt lẫn nhau, không có thời gian cho việc xây dựng pháp luật.

Tuyệt đại đa số cư dân thời kỳ này bị mù chữ. Nhà nước và giáo hội thực hiện chính sách ngu dân, bắt buộc dân chúng học thuộc lòng kinh thánh và không thực hiện giáo dục toàn diện.

Pháp luật phong kiến Tây Âu là một phương tiện để nhà nước đàn áp, bóc lột quần chúng nhân dân lao động, bảo vệ địa vị, quyền lợi của tập đoàn phong kiến thế tục và tập đoàn phong kiến giáo hội.

CHUYÊN ĐỀ 5

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT TƯ SẢN

Quá trình hình thành nhà nước tư sản Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình nhà nhà nước tư sản

Điều kiện kinh tế: cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, phương thức sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời. Quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, những phát kiến khoa học lỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên tất cả các lĩnh vự: nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời.

Điều kiện chính trị: mâu thuẫn giai cấp trong xã hội đã gay gắt chín muồi, đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản- đại diện chp phương thức sản xuất tiên tiến với quý tộc phong kiến.

Điều kiện tư tưởng: phong trào văn hoá phục hưng, cải cách tôn giáo và sự xuất hiện của các học thuyết dân chủ tư sản trở thành hệ tư tưởng chung.

Những tiền đề này chin muồi sẽ xuất hiện hang loạt các cuộc cách mạng tư sản.

Diễn biến và kết quả các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới

Nước Anh

Hình thức chính thể của Anh sau cách mạng tư sản là quân chủ hạn chế (quân chủ đại nghị)

Hoa Kỳ

Sau cách mạng tư sản, hình thức chính thể của Hoa Kỳ là cộng hoà tổng thống

Nước Pháp

Sau cách mạng tư sản, hình thức chính thể của Pháp là cộng hoà đại nghị

Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản - Chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh.- Chủ nghĩa tư bản thời kỳ lũng đoạn nhà nước (thời kỳ độc quyền)- Chủ nghĩa tư bản thời kỳ hiện đại Các đặc trưng cơ bản của nhà nước tư sản 3.1 Đặc trưng của nhà nước thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh

Nhà nước không can thiệp vào nền kinh tế mà để cho nền kinh tế tự do vận động theo quy luật thị trường

Hình thức chính thể phổ biến nhất của các quốc gia sau cách mạng tư sản là quân chủ lập hiến.

Đây là thời kỳ "hoàng kim" của Nghị viện tư sản

3.2 Đặc trưng của nhà nước trong thời kỳ CNTB lũng đoạn, hiện đại

Nhà nước tư bản độc quyền trực tiếp giữ các chức vụ quan trọng của bộ máy nhà nước.

Nhà nước tư sản thực hiện chức năng quản lý kinh tế

Chức năng đối ngoại của nhà nước tư sản độc quyền cũng khác thời kỳ trước về đối tượng và phương pháp.

Pháp luật tư sản Phân loại hệ thống pháp luật tư sản

Căn cứ vào cách thức hình thành, cơ cấu của hệ thống pháp luật, pháp luật tư sản được chia thành hai hệ thống chính: hệ thống pháp luật Anh -Mỹ (án lệ) và hệ thống pháp luật lục địa (luật thực định).

Hệ thống pháp luật lục địa

Hệ thống pháp luật Anh-Mỹ

Nguồn

Các bộ luật mới được xây dựng

Tiền lệ pháp và bộ luật, nhưng các bộ luật này không được xây dựng mới mà tư sản hoá những bộ luật phong kiến

Nguyên tắc điều chỉnh các quan hệ tài sản

Dựa trên những nguyên tắc của pháp luật La Mã

Không theo các nguyên tắc của pháp luật La Mã

Cơ cấu của hệ thống pháp luật

Chia pháp luật thành công pháp và tư pháp.

Không phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp

Một số ngành luật cơ bản của pháp luật tư sản

Thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh

Luật hiến pháp: Ban đầu, Hiến pháp chỉ có 3 nhóm chế định cơ bản quy định về tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ bầu cử, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Luật dân sự: thừa nhận nguyên tắc bình đẳng giữa các công dân và có nội dung chủ yếu là bảo vệ quyền tư hữu, điều chỉnh các văn bản hợp đồng, hôn nhân, thừa kế...Thời kỳ này đã xuất hiện chế định pháp nhân và công ty cổ phần tư sản.

Luật hình sự: so với pháp luật phong kiến, luật hình tư sản có những tiến bộ lớn: chống lại sự độc đoán xét xử của vua chúa; mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; không quy định về tội chống tôn giáo... Nhưng về bản chất, luật hình tư sản là cơ sở pháp lý để đàn áp nhân dân lao động và các thế lực chống đối khác. Từ thế kỷ XIX, hình thức án treo bắt đầu được áp dụng ở một số nước.

Luật tố tụng: quyền tư pháp được tách ra khỏi quyền hành pháp. Tố tụng được tách thành tố tụng hình sự và tố tụng dân sự. Một số nguyên tắc tiến bộ đã được hình thành trong thời kỳ này như: nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, nguyên tắc suy đoán vô tội, bị can có quyền được bào chữa, trách nhiệm buộc tội thuộc về Ủy viên công tố, bản án được quyết định bởi đa số Hội đồng xét xử, không ai có quyền kháng cáo đối với việc trắng án

Thời kỳ tư bản lũng đoạn nhà nước và thời kỳ hiện đại.

Luật hiến pháp: Hiến pháp ghi nhận mối tương quan lực lượng xã hội giữa giai cấp tư sản và nhân dân lao động. Trước sự đấu tranh của nhân dân lao động, giai cấp tư sản buộc phải nhượng bộ thông qua việc ghi nhận vào hiến pháp một số điều khoản có nội dung dân chủ hơn thời kỳ trước.

Luật dân sự tư sản: Có những chế định mới và quan trọng, như: quy định về quyền sở hữu tư bản nhà nước, điều chỉnh quan hệ quan hệ sở hữu tư bản nhà nước với mục đích vừa mang lại lợi ích cho nhà nước, vừa mang lại lợi nhuận tối đa cho tư bản độc quyền; quy định về các đạo luật chống Tơ-rớt, do phong trào đấu tranh của quần chúng nên đa số các nước tư sản ban hành những đạo luật chống Tơ-rớt (luật chống độc quyền); quy định về luật lao động...

Luật Hình sự: các nhà nước tư sản ban hành nhiều đạo luật đặc biệt về tội chính trị.

Luật tố tụng: Trong một thời gian dài (đặc biệt trong thời kỳ phát xít), chế định dự thẩm, nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền của bị cáo trước tòa – những chế định mang tính dân chủ tư sản bị hạn chế hoặc bãi bỏ. Sau chiến tranh thế giới lần II, những chế định này dần dần được phục hồi.

Nhận xét chung về pháp luật tư sản

4.3.1 Pháp luật tư sản thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh

Kỹ thuật lập pháp với việc phân chia thành các ngành luật các chế định và các khái niệm pháp lý, pháp điển hóa... đã có sự tiến bộ nhảy vọt.

Pháp luật đã đóng vai trò tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển, trở thành một phương tiện quan trọng nhất của nhà nước tư sản để quản lý xã hội.

Hệ thống pháp luật tư sản vẫn chưa đầy đủ và hoàn thiện. Pháp luật tư sản thể hiện bản chất của nó là công cụ để bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp tư sản.

4.3.2 Pháp luật tư sản thời kỳ CNTB lũng đoạn, hiện đại

Pháp luật trong giai đoạn này góp phần vào việc điều tiết kinh tế TBCN xuất phát từ chức năng quản lý kinh tế của nhà nước tư bản.

Các chế định mang tính dân chủ tư sản từng bước được hoàn thiện, phát triển. Pháp luật tư sản đang ngày càng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển kinh tế văn hóa xã hội, vừa giải quyết các vấn đề mang tính quốc tế như môi trường, tội phạm quốc tế, thất nghiệp...

Phần Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

CHUYÊN ĐỀ 1:

NHÀ NƯỚC VIỆT NÀM TỪ NGUỒN GỐC CHO ĐẾN THẾ KỶ THỨ X

Sự hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam

Các yếu tố dẫn đến sự hình thành nhà nước đầu tiên Việt Nam

Yếu tố kinh tế

Khi bước vào giai đoạn đồ đồng, kinh tế bắt đầu phát triển. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi: nhiều sông, nhiều đồng bằng, khí hậu nhiệt đới gió mùa... đã làm cho kinh tế nông nghiệp vươn lên đóng vai trò chủ đạo.

Các ngành kinh tế khác tiếp tục phát triển như:

Săn bắt, hái lượm vẫn tiếp tục được duy trì, vẫn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động tìm kiếm nguồn thức ăn cho con người.

Trồng trọt và chăn nuôi cũng ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của các ngành nghề khác góp phần làm tăng thêm năng suất lao động cho xã hội.

Thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến mạnh mẽ.

Hoạt động trao đổi, mua bán các sản phẩm làm ra ngày càng gia tăng thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp.

Kinh tế có nhiều bước chuyển biến sâu sắc, sản phẩm lao động làm ra ngày càng nhiều, nhu cầu tư hữu bắt đầu xuất hiện, từ đó làm thay đổi bộ mặt của xã hội.

Yếu tố xã hội

Về hôn nhân – gia đình: Sự xuất hiện của các gia đình nhỏ làm cho quan hệ huyết thống trở nên lỏng lẻo, là cơ sở để làm thay đổi tổ chức của xã hội, phá vỡ tính khép kín vốn thuộc đặc trưng cơ bản của công xã thị tộc.

Về tổ chức xã hội: Công xã nông thôn thay thế cho công xã thị tộc. Sự tan rã của công xã thị tộc như là một quy luật tất yếu khi mà những điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của nó không còn.

Về sự phân hóa xã hội

Xã hội phân chia thành 3 tầng lớp khác nhau: tầng lớp quý tộc, tầng lớp nông dân tự do, tầng lớp nô tì.

Thời đại Hùng Vương mâu thuẫn diễn ra chậm chạp, xã hội phân hóa ngày càng sâu sắc hơn. Tuy nhiên, cho đến cuối thời đại Hùng Vương mâu thuẫn vẫn chưa đến mức gay gắt không thể điều hòa được.

Yếu tố trị thủy và chống ngoại xâm

Với đặc thù kinh tế nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo, nhu cầu trị thủy - thủy lợi trở thành vô cùng cấp thiết, cần phải được tiến hành thường xuyên.

Chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc diễn ra ngày càng mạnh mẽ do nhu cầu thôn tính lẫn nhau. Ngoài ra, sự đe dọa xâm lược từ bên ngoài của quốc gia khác cũng rất lớn. Do đó, đòi hỏi sự tập trung sức mạnh và sự đoàn kết của con người.

Hai yếu tố trên đòi hỏi một tổ chức quản lý mới đồ sộ hơn xuất hiện. Lúc ban đầu tổ chức này chỉ mang tính chất xã hội, xuất phát từ lợi ích của cả cộng đồng, nhưng dần dần với thời gian nó trở thành công cụ của những người được giao phó chức năng quản lý, trở thành bộ máy mang tính quyền lực, được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế và nhà nước ra đời.

Quá trình hình thành nhà nước

Nhà nước trong trạng thái đang hình thành – nhà nướ Văn Lang

Vào giai đoạn đầu thời đại Hùng Vương, các Liên minh bộ lạc bắt đầu hình thành trước yêu cầu xã hội cần có một tổ chức mới rộng lớn hơn để giải quyết các vấn đề chung của xã hội.

Khi kinh tế ngày càng phát triển lớn mạnh, tổ chức quản lý xã hội vì nhu cầu chung ngày càng nắm nhiều quyền lực, chuyển thành quyền lực nhà nước.

Vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN, đã có mầm móng phôi thai của Nhà nước – Nhà nước trong trạng thái đang hình thành. Tổ chức đó đứng đầu là vua Hùng Vương, dưới vua là Lạc hầu và cả nước được chia thành 15 Bộ, đứng đầu mỗi Bộ là Lạc tướng, dưới Bộ là các Công xã nông thôn, đứng đầu là Bồ chính.

Nhà nước Âu Lạc

Sự hình thành nhà nước Âu Lạc gắn liền với vai trò của Thục Phán trong việc tổ chức chống chiến tranh xâm lược của nhà Tần Trung Quốc. Thục Phán lên làm vua, xây dựng kinh đô ở Cổ Loa và xưng là An Dương Vương.

Tổ chức bộ máy nhà nước Âu Lạc cũng khá đơn giản: Đứng đầu nhà nước là vua Thục Phán, dưới vua có Lạc Hầu, cả nước chia làm 15 bộ do Lạc tướng đứng đầu; dưới bộ là các Công xã nông thôn do Bồ chính và Hội đồng công xã lãnh đạo.

Nhà nước Việt Nam thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc

Tổ chức bộ máy chính quyền đô hộ

Giai đoạn từ năm 179 TCN đến năm 39

Về cơ bản, các triều đại đều thực hiện cách thức quản lý và chính sách cai trị khá giống nhau đó là: tổ chức chính quyền còn khá đơn giản, lỏng lẻo, cho thấy chính sách cai trị dùng "Người Việt trị người Việt" đã được áp dụng ở giai đoạn này.

Vì đây là giai đoạn mà chính quyền đô hộ mới xác lập sự ảnh hưởng trên phần thổ nước ta, vì vậy sự phản kháng của dân chúng ra rất quyết liệt. Do đó, thực hiện chính sách mềm dẻo, tranh thủ và lôi kéo sự ủng hộ của quý tộc người Việt, nhằm hạn chế sự chống đối của chính quyền và cư dân bản địa là chính sách hợp lý của Trung Quốc ở giai đoạn đầu.

Giai đoạn từ sau năm 43

Sau khi dập tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán tiếp tục trở lại cai trị nước ta. Về cơ bản tổ chức chính quyền đô hộ từ sau năm 43 có các đặc trưng sau:

Tổ chức bộ máy đã củng cố thiết chế một cách chặt chẽ hơn, quan lại người Hán đã cai trị trực tiếp đến cấp huyện (cấp gần dân nhất). Vì sau thất bại trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng, các triều đại Trung Quốc nhận thức được rằng nếu cai trị một cách lỏng lẻo, không can thiệp sâu và mạnh vào quốc gia bị đô hộ, có thể dẫn đến việc mất khả năng cai trị, mất chính quyền đô hộ.

Ngoài ra, chính quyền đô hộ đã can thiệp ngày càng chặt chẽ hơn, bằng cách sử dụng chính sách: "chia nhỏ để trị" – chia lãnh thổ nước ta ra làm nhiều đơn vị hành chính lãnh thổ trong một cấp. Chính việc chia nhỏ này đã tăng cường khả năng quản lý, kiểm sát của chính quyền đô hộ đối với cư dân bản địa, đồng thời mở rộng phạm vi ảnh hưởng cũng như tăng cường sự lệ thuộc của dân ta vào chính quốc.

Tổ chức chính quyền độc lập tự chủ

CHUYÊN ĐỀ 2:

TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN (X - XIX)

Tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê (939 – 1009)

Nhà Ngô (939 – 965)

Đứng đầu tổ chức bộ máy nhà nước là Vua, dưới Vua là đội ngũ quan lại. Tuy nhiên, tổ chức cụ thể như thế nào thì không rõ, chỉ biết rằng vào thời kỳ này về mặt tổ chức bộ máy nhà nước đã "đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục".

Ở Địa phương, vẫn giữ nguyên cách thức tổ chức các cấp chính quyền theo mô hình của họ Khúc trước đó, tức là chia cả nước ra làm 5 cấp: Lộ - Phủ - Châu – Giáp – Xã.

Nhà Đinh (968 – 980)

Năm 968 sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng lên ngôi Hoàng đế đặt tên nước Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình.

Hoàng đế: là người đứng đầu bộ máy nhà nước.

Các quan lại trong triều: gồm có một số chức quan sau đây:

Định quốc công: là quan đầu triều, có vai trò như Tể tướng.

Đô hộ phủ sĩ Sư: đây là chức quan giữ việc hình án ở kinh đô, tức chức danh đứng đầu việc tư pháp trong cả nước.

Thập đạo tướng quân: chức quan giữ vai trò là tổng chỉ huy quân đội cả nước bao gồm 10 đạo.

Đô uý: trông coi việc quân sự;

Chi hậu nội nhân: là chức quan phụ trách coi việc tuần phòng ở cung cấm.

Tăng thống: là quan đứng đầu các tăng đạo - đứng đầu Phật giáo trong cả nước.

Tăng lục: là quan phụ trách Phật giáo cùng với Tăng thống;

Sùng chân uy nghi: là quan phụ trách về Đạo giáo.

Nhà Tiền Lê (980 – 1009)

Vào thời kỳ này, đứng đầu nhà nước vẫn là vua, tuy nhiên triều đình trung ương xuất hiện nhiều chức quan mới:

Tổng quản tri quân dân sự: là viên quan đầu triều

Thái sư: là quan đại thần, có chức năng cố vấn cao cấp cho nhà vua

Thái úy: Là quan võ thuộc một trong số các đại thần của triều đình.

Nha nội đô chỉ huy sứ: cũng là một quan võ.

Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần – Hồ (1010 -1407)

Nhà Lý (1010 – 1225)

Vua: là người đứng đầu, nắm trong tay toàn bộ quyền lực nhà nước

Các quan đại thần gồm: Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo); Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo); Thái uý; Thiếu uý.

Các cơ quan chuyên môn: có chức năng giúp vua quản lý công việc thuộc lĩnh vực chuyên môn khác nhau, chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà vua, gồm:

Hàn lâm viện (Chức năng: Soạn thảo chiếu, biểu cho nhà vua);

Quốc tử giám (Chức năng: đào tạo Nho sĩ và trông coi Văn miếu) ;

Khu mật sứ: (Chức năng: bàn bạc việc triều chính thuộc lĩnh vực dân sự với vua);

Một số chức quan khác như: Quan văn: Tả hữu tham tri, Tả hữu Gián nghị đại phu, Viên ngoại lang... Quan võ: Đô thống, Nguyên soái, Đại tướng, Thống tướng, Thượng tướng...; Chức quan về tôn giáo: Quốc sư, Tăng thống, Tăng lục, Tăng chính...

Ở địa phương: cả nước chia thành 24 lộ và trại. Dưới lộ - trại là phủ - châu; hương – xã – sách.

Nhà Trần - Hồ (1225 – 1407)

Thời nhà Trần, tổ chức bộ máy nhà nước theo hình thức chính thể quân chủ trung ương tập quyền tiếp tục được củng cố, tính chất quý tộc – thân vương ngày càng được tăng cường. Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương vào thời nhà Trần – Hồ như sau:

Vua: "Chính thể lưỡng đầu" tồn tại một cách phổ biến dưới các triều vua nhà Trần và cả nhà Hồ.

Các quan đại thần: Ngoài những chức quan đã có từ thời nhà Lý, các quan đại thần thời nhà Trần còn có thêm một số chức quan mới như Tả, Hữu tướng quốc, Tam Tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không).

Các cơ quan chuyên môn, bao gồm:

Ngự sử đài: là cơ quan có chức năng giúp vua kiểm tra hoạt động của đội ngũ quan lại, gồm có 3 viện nhỏ: Đài viện, Sát viện và Điện viện.

Bình Bạc ty: là cơ quan xét xử việc kiện tụng ở kinh thành, được thành lập năm 1230.

Thẩm hình viện: là cơ quan có chức năng định tội.

Tôn chính phủ: có chức năng coi giữ việc sổ họ hàng tôn thất – soạn thảo gia phả cho nhà vua, đứng đầu là quan Đại tôn chính, do người trong tôn thất phụ trách.

Tư thiên giám: phụ trách việc làm lịch, xem thiên văn, dự báo thời tiết, suy việc lành dữ.

Tam ty viện: Phụng Tuyên, Thanh Túc, Hiến Chính, chức năng của các viện cụ thể như thế nào thì không rõ.

Khu mật viện: được đổi từ Khu mật sứ thời nhà Lý, có chức năng tham dự, bàn bạc việc triều chính. Đứng đầu có Đại sứ, giúp việc có Phó sứ.

Quốc học viện: có chức năng chuyên đào tạo sĩ tử và quan lại.

Quốc sử viện: có chức năng biên chép sử cho triều đình. Đứng đầu là Quốc sử viện giám tu.

Thái y viện: là cơ quan có chức năng chăm sóc sức khoẻ cho nhà vua, hoàng tộc và triều đình.

Ở chính quyền địa phương có hai giai đoạn phát triển là Giai đoạn từ năm 1226 đến năm 1396 và Giai đoạn từ 1397 đến 1400.

Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Sơ (1428 – 1527)

Tổ chức bộ máy nhà nước giai đoạn đầu Lê sơ

Ở trung ương bộ máy nhà nước được tổ chức như sau:

Vua: Tất cả quyền hành tối cao của bộ máy nhà nước đều tập trung vào vua.

Các quan đại thần, gồm Tả, Hữu Tướng quốc, Tam thái, Tam thiếu, Tam tư, Thái uý, Thiếu uý.

Các cơ quan có chức năng cố vấn cho Vua trong việc chính sự.

Các bộ: Bộ là cơ quan chuyên môn quan trọng giúp Nhà Vua trong việc quản lý đất nước. Thời kỳ đầu có 3 bộ, đến thời Lê Nghi Dân lập đủ 6 bộ.

Các cơ quan có chức năng văn phòng.

Các cơ quan có chức năng tư pháp, giám sát.

Các cơ quan chuyên môn khác.

Ở địa phương, chính quyền chia thành các cấp: đạo; lộ - trấn - phủ; châu; huyện; xã.

Tổ chức bộ máy nhà nước giai đoạn từ Lê Thánh Tông trở về sau

Chính quyền trung ương

Vua: nắm toàn bộ quyền lực với tính tập quyền ngày càng cao.

Các quan đại thần: thực hiện chính sách bãi bỏ một số chức quan đại thần có quyền lực lớn trước đó, đồng thời không cho quan đại thần kiêm nhiêm để hạn chế sự lạm dụng quyền lực.

Các cơ quan có chức năng văn phòng cho nhà vua: gồm Hàn lâm viện (Sùng văn quán, Chiêu văn Quán, Tú Lâm cục); Đông các viện; Trung thư giám; Bí thư giám; Hoàng môn tỉnh. Các cơ quan này giúp việc đắc lực cho vua trong việc soạn thảo, ban hành, quản lý văn bản của vua.

Lục bộ: gồm 6 bộ được tổ chức quy củ với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; với cơ cấu tổ chức rõ ràng.

Bộ Lại: Văn tuyển thanh lại ty; Thuộc công thanh lại ty

Bộ Hộ: Bản tịch thanh lại ty; Đô chi thanh lại ty

Bộ Binh: Vũ khố thanh lại ty; Quân vụ thanh lại ty

Bộ Lễ: Nghi chế thanh lại ty; Từ chế Thanh lại ty

Bộ Hình: khâm hình, Thận hình, Minh hình, Tường hình, Chính hình

Bộ Công: Doanh thiện thanh lại ty, Công trình thanh lại ty.

Lục tự gồm: Hồng lô tự: Tự khanh, Tự thiếu khanh; Thượng bảo tự; Thái thường tự; Quang lộc tự; Thái bộc tự; Đại lý tự.

Các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát gồm 2 hệ thống cơ quan:

Ngự sử đài giúp vua giám sát chung toàn bộ quan lại trong cả nước.

Lục Khoa gồm (Lại khoa, Lễ khoa, Binh khoa, Hình khoa, Hộ khoa, Công khoa): giúp vua giám sát, kiểm tra Lục Bộ, mỗi Khoa giám sát một Bộ tương ứng.

Các cơ quan chuyên môn khác.

Các cơ quan có chức năng về phát triển nông nghiệp.

Chính quyền địa phương

Được vua chú trọng cải cách nhằm giúp chính quyền địa phương quản lý hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo sự tập trung quyền lực vào trung ương. Trong đó, hai cấp là cấp đạo (cấp cao nhất) và cấp xã (cấp gần dân nhất) được vua Lê Thánh Tông đặt ra nhiều chính sách cải cách.

Tổ chức bộ máy nhà nước thời nội chiến

Đây là thời kỳ quốc gia Việt Nam rơi vào tình trạng "nội chiến" triền miên, với sự tồn tại các các tập đoàn phong kiến.

Bắc triều - Nhà Mạc (1527 – 1592)

Nam triều vua Lê- chúa Nguyễn (1533 – 1789)

Chính quyền Đàng ngoài vua Lê - chúa Trịnh (1545 – 1786)

Chính quyền Đàng trong - chúa Nguyễn (1558– 1777) – Từ Quảng Bình cho đến Bình Định

Triều đại Tây Sơn (1778 – 1802)

Tổ chức bộ máy nhà nước thời Nguyễn (1802 – 1884)

Chính quyền trung ương

Hoàng đế: Đế quyền nhà Nguyễn có tính tuyệt đối, chế độ nhà Nguyễn phát triển đến

Hội đồng đình thần: Giai đoạn đầu là cơ quan tư vấn tối cao của triều đình có nhiệm vụ đưa ra các quyết nghị nhưng về sau chỉ còn chức năng thảo luận và đưa ra những kiến nghị về các vấn đề chính trị, hành chính, tư pháp.

Quan đại thần gồm: Tứ trụ đại thần; Cửu khanh; Phụ chính đại thần

Nội các: là trung tâm thông tin, nắm bắt toàn bộ tình hình hành chính của quốc gia báo cáo lên vua.

Cơ mật viện: phụ trách các việc quan trọng về quân, dân sự.

Lục bộ: Lục Bộ là cơ quan giúp vua quản lý hành chính trong phạm vi toàn quốc. Lục Bộ thành lập năm 1802, từng bước củng cố và ngày càng hoàn thiện.

Bộ Lại: Phụ trách việc tuyển bổ, thuyên chuyển quan văn, phong tước, phong tặng, giữ phép khảo sát niên khóa; thăng thưởng phẩm trật và quan hàm.

Bộ Hộ: Cân bằng giá trong việc phát ra, thu vào để điều hòa nguồn của cải nhà nước, phụ trách kho tàng, đinh điền, thuế khóa, tiền tệ, hàng hóa.

Bộ Lễ: Phụ trách lễ nghi, triều hội, giáo dục, khoa cử, ngoại giao.

Bộ Binh: phụ trách việc bổ nhiệm, tuyển dụng các chức võ quan; tuyển mộ binh lính, điều quân, lập đồn; tra xét công, tội; lập sổ quân bạ.

Bộ Hình: phụ trách tư pháp, xét xử tội nặng (tử tội), phúc thẩm các nghi án, xếp đặt lao ngục, chế độ tù phạm.

Bộ Công: coi giữ thợ thuyền, xây dựng thành trì, lăng tẩm, đồn lũy cầu đường, đóng tàu thuyền, sửa chữa cung điện, kho tàng.

Các cơ quan chuyên môn:

Cơ quan phục vụ hoàng tộc: Nội phủ vụ; Thái bộc tự; Tôn nhân phủ; Thái thường tự; Quang lộc tự; Thái y viện; Xứ thị vệ; Ty cẩn tín.

Các cơ quan văn hóa giáo dục: Quốc tử giám; Hàn lâm viện; Khâm thiên giám; Quốc sử quán; Viện tập hiền Thượng bảo tự; Hồng lô tự.

Cơ quan giao thông, thông tin liên lạc: Bưu chính ty; Thông chính sứ ty

Cơ quan kho tàng, quân nhu, vận tải:Thương trường; Mộc thương; Vũ khố; Kho thuốc nổ và diêm tiêu; Ty tào chính.

Cơ quan giám sát và cơ quan tư pháp

Cơ quan giám sát gồm (1) Đô sát viện: Là cơ quan giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước triều Nguyễn từ trung ương đến địa phương. Năm 1832 triều Nguyễn đặt Đô sát viện; Đô sát viện được tổ chức một cách quy mô và hệ thống từ trung ương xuống địa phương; (2) Lục Khoa: Lại, Lễ, Hộ, Binh, Hình, Công: Đứng đầu mỗi Khoa, nhà Nguyễn đặt một quan - Cấp sự trung; (3) Chế độ kinh lược sứ: Là chế độ thanh tra đặc biệt do Vua thành lập để thanh tra đối với các tỉnh, phủ, huyện. Đối tượng bị thanh tra chủ yếu là chính quyền địa phương. Thông thường, những trường hợp có chiến tranh, mất mùa, thiên tai địch họa, hoặc quan chức địa phương bị người dân kêu ca oán thán, mất lòng tin của nhân dân...

Cơ quan tư pháp: Dưới Vua quyền tư pháp từ năm 1802 - 1819 được quy định như sau: (1) Bộ Hình: Là cơ quan chuyên trách về hình án đặt tại Kinh đô, do Thượng thư đứng đầu, có nhiệm vụ "duyệt lại những tội nặng, án ngờ, xét kĩ những tù giam ngục cấm, cùng là coi việc hình danh pháp luật"; (2) Công đồng: Là cơ quan phúc thẩm tối cao dưới quyền của Hoàng đế. Tất cả những bản án do các Nha môn địa phương tuyên xử mà đương sự không tuân phục, đều có quyền khiếu nại lên Công đồng.

Tổ chức chính quyền địa phương

Tổ chức chính quyền địa phương từ năm 1802 đến 1830 gồm các cấp:

Cấp thành: gồm 2 Thành là Bắc thành được thành lập năm 1802 và Gia Định thành được thành lập năm 1808.

Cấp trấn- dinh

Cấp Phủ- huyện (châu)

Cấp tổng- xã

Chính quyền địa phương giai đoạn này thực hiện chính sách tản quyền với trung ương.

Chính quyền thể hiện rõ tính hành chính – quân sự.

Đây là mô hình tạm thời để khắc phục hậu quả sau chiến tranh.

Tổ chức chính quyền địa phương giai đoạn 1831- 1884 gồm các cấp:

Cấp tỉnh.

Cấp phủ - huyện – châu.

Cấp tổng – xã.

Chính quyền giai đoạn này có nhiều thay đổi so với giai đoạn đầu.

Cấp thành – quyền lực lớn bị bãi bỏ.

Các cấp hành chính được tổ chức gọn nhẹ, thống nhất trong phạm vi toàn quốc. CHUYÊN ĐỀ 3: PHÁP LUẬT VIỆT NAM THỜI LÊ SƠ

A. Tổng quan về pháp luật thời Lê sơ

I. Khái quát hoạt động xây dựng pháp luật nhà Lê

Khác với tổ chức bộ máy nhà nước, hoạt động ban hành pháp luật của nhà Lê không chỉ giới hạn trong giai đoạn Lê sơ (1428 – 1527) mà còn kéo dài suốt thời kỳ Lê trung hưng (Lê mạt) cho đến cuối thế kỷ XVIII. Bởi có rất nhiều văn bản được ban hành dưới thời Lê sơ nhưng tiếp tục được hiệu đính, sửa chữa bổ sung hoặc hệ thống hóa pháp luật trên nền tảng những văn bản pháp luật đã được ban hành dưới thời Lê sơ. Nhìn chung, pháp luật nhà Lê tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là tập quán pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Riêng hình thức tiền lệ pháp (án lệ) chưa đủ tư liệu để đi đến kết luận có hay không hình thức tiền lệ pháp đã tồn tại hay được thừa nhận trong giai đoạn này.

Tập quán pháp

Rất nhiều tập quán pháp được thừa nhận trong các quan hệ chính trị - xã hội hay trong đời sống dân sự. Có những tập quán pháp tiếp tục được tồn tại ở dạng bất thành văn nhưng cũng có những tập quán pháp được pháp điển hóa và ghi nhận trong các văn bản pháp luật. Trong các sinh hoạt chính trị của nhà Lê, các tập pháp được thừa nhận như: tập quán truyền ngôi vua (truyền tử theo dòng trưởng nam), tập quán vua Lê chúa Trịnh cùng trị vì (sử cũ gọi là chế độ cai trị lưỡng đầu), tập quán thế tập (tập ấm – cha làm quan con cái được học hành để cùng làm quan)... Trong đời sống dân sự và hôn nhân – gia đình, rất nhiều tập quán phổ biến trong dân gian được thừa nhận là tập quán pháp, như tập quán canh tác của người Việt được sử dụng trong các quan hệ vay mượn tài sản; tập quán phân biệt đẳng cấp hay trọng nam khinh nữ ít nhiều được thừa nhận trong quan hệ hôn nhân và gia đình; tập quán phân chia và sở hữu ruộng đất hay phát canh thu tô trong quan hệ sở hữu về ruộng đất,...

Văn bản quy phạm pháp luật

Đây là hình thức pháp luật được sử dụng phổ biến nhất. Hệ thống văn bản pháp luật thời kỳ này không những nhiều về số lượng mà còn đa dạng về tên gọi cũng như phong phú về nội dung. Tuy nhiên, về phương diện kỹ thuật lập pháp, pháp luật nhà Lê chưa có sự phân ngành một cách rõ ràng như pháp luật hiện đại nhưng bước đầu đã đặt những nền tảng cơ bản cho sự phân biệt khác nhau về mặt nội dung trong các văn bản pháp luật. Cho đến nay, một số văn bản pháp luật trong thời kỳ này còn được lưu lại cũng đủ để minh chứng cho sự phát triển rực rỡ trong hoạt động lập pháp của nhà Lê. Cụ thể còn những văn bản sau đây:

Lê triều hội điển: (không rõ năm ban hành) gồm hai nội dung cơ bản: quy định về các sắc thuế và phân định thẩm quyền, vai trò của Lục bộ;

Thiên nam dư hạ tập: (ban hành vào năm 1460 - thời vua Lê Thánh Tông dưới niên hiệu Quang Thuận năm thứ nhất) quy định một số hành vi cấm trong quan hệ hôn nhân – gia đình; quan hệ tài sản; lệ về bầu chọn xã trưởng...

Lê triều quan chế (ban hành thời vua Lê Thánh Tông), quy định về những chế độ liên quan đến đội ngũ quan lại, như: lương bổng, ngạch bậc, phẩm trật, chức năng, vai trò của các cơ quan, chức quan trong bộ máy nhà nước...

Hồng Đức thiện chính thư: (ban hành dưới thời vua Lê Thánh Tông với niên hiệu Hồng Đức), quy định một số thể lệ về tang ma, hôn nhân – gia đình,...

Quốc triều thư khế thể thức (ban hành thời vua Lê Cung Hoàng năm 1522), đưa ra các loại văn bản mẫu về hợp đồng, di chúc.

Quốc triều chiếu lệnh thiện chính (ban hành thời vua Lê Dụ Tông, năm 1706) sửa đổi, bổ sung về cơ cấu tổ chức và thẩm quyền của Lục bộ.

Quốc triều khám tụng điều lệ (không rõ năm ban hành) quy định về trình tự thủ tục giải quyết các vụ án về hình sự và dân sự. Lần đầu tiên trong tiến trình lập pháp của đất nước ta, một văn bản luật về thủ tục (hình thức) được tách ra khỏi văn bản luật về nội dung và chỉ để quy định các giai đoạn, quy trình áp dụng luật nội dung. Sự ra đời của văn bản này không chỉ là mốc son chói lọi trong tiến trình lập pháp của nước Đại Việt xưa mà còn là sản phẩm tiêu biểu cho trình độ lập pháp của vùng Á Đông thời trung đại. Bởi ngay như đất nước Trung Quốc – cái nôi của nền văn minh nhân loại, đất nước có bề dày về trình độ lập pháp cũng chưa có được sự tiến bộ này.

Lê triều hình luật (còn có tên gọi khác là Quốc triều hình luật hay Luật Hồng Đức), một sản phẩm tiêu biểu, tiến bộ nhất trong lịch sử pháp chế của Việt Nam. Về thời gian ban hành văn bản này còn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng tựu chung lại nổi lên hai quan điểm:

Một là: Quốc triều hình luật bắt đầu được khởi xướng và biên soạn dưới thời vua Lê Lợi, ngay sau khi giành lại độc lập dân tộc và sáng lập ra triều đại nhà Lê. Sau đó được các vị vua Lê tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi và người có công lớn nhất trong việc hiệu đính, bổ sung là vua Lê Thánh Tông.

Hai là: vào những năm 1470, chính vua Lê Thánh Tông (dưới niên hiệu Hồng Đức năm thứ nhất) là người khởi xướng việc biên soạn ra bộ luật này. Ông tiến hành hệ thống hóa (tập hợp hóa và pháp điển hóa) toàn bộ những văn bản pháp luật đơn lẻ đã được ban hành từ thời vua Lê Lợi và cho ra đời bộ Quốc triều hình luật.

Như vậy, mặc dù còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ đánh giá rất cao vai trò, công lao to lớn của vua Lê Thánh Tông đối với bộ luật này. Cũng chính vì thế, để ghi nhận công lao đó nên các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam còn gọi tập văn bản đó là Luật Hồng Đức.

Về mặt bố cục, bộ Quốc triều hình luật được chia thành 6 quyển – 13 chương – 722 điều, bao gồm:

Quyển 1: có hai chương Danh lệ (phần chung) gồm 49 điều; chương Vệ cấm (47 điều) quy định về việc bảo vệ cung cấm, hoàng thành và những tội phạm liên quan.

Quyển 2: có hai chương, gồm chương Vi chế (144 điều) quy định về chế độ làm việc của đội ngũ quan lại và chương Quân chính (43 điều) quy định về luật lệ trong quân đội và những tội phạm có liên quan.

Quyển 3: gồm 3 chương: chương Hộ hôn (58 điều) quy định về các quan hệ hôn nhân – gia đình; chương Điền sản (59 điều) quy định về sở hữu và thừa kế ruộng đất; chương Thông gian (10 điều) quy định hành vi cấm trong đời sống hôn nhân và những tội phạm có liên quan.

Quyển 4: có hai chương: chương Đạo tặc (54 điều) quy định về các loại tội xâm phạm sở hữu; chương Đấu tụng quy định về các loại tội xâm phạm đến tình mạng, sức khoẻ của con người.

Quyển 5: có hai chương: chương Trá nguỵ (38 điều) quy định về các loại tội liên quan đến sự gian dối trong các quan hệ tài sản; chương Tạp luật (92 điều) quy định về những loại tội mà không xếp được vào những chương khác.

Quyển 6: có hai chương: chương Bộ vong (13 điều) quy định về việc bắt giữ người phạm tội; chương Đoán ngục (65 điều) quy định về về việc xử án hình sự và những tội phạm xâm phạm đến hoạt động tư pháp.

Như vậy, Quốc triều hình luật là bộ luật có tính tổng hợp của nhiều ngành luật khác nhau nhưng rõ nét nhất vẫn là hình luật vì bên cạnh mỗi quy định, nhà làm luật đưa ra các biện pháp chế tài mang tính trừng trị, tức các hình phạt.

Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật thời Lê sơ

- Phong tục tập quán của người Việt

- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội

- Tư tưởng nhân trị (Nho giáo) và pháp trị

- Pháp luật Trung Hoa (nhất là pháp luật thời Đường với bộ Đường luật sớ nghị)

B. Một số nội dung cơ bản pháp luật thời lê

I. Pháp luật về hình sự

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự

Nguyên tắc"vô luật bất hình"

Nội dung nguyên tắc: Khi xét xử để phán quyết một người là tội phạm thì quan tòa phải căn cứ vào văn bản QPPL. Một người chỉ bị coi là thực hiện tội phạm khi trong luật có quy định tội danh đó.

Cơ sở pháp lý: Điều 683, Điều 685, Điều 722 Quốc triều hình luật (QTHL).

b. Nguyên tắc nhân đạo: những quy định của pháp luật có tính khoan hồng, nhân văn khi truy cứu trách nhiệm hình sự. Nguyên tắc này thể hiện qua một số quy định sau:

Một là: chiếu cố tức giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, gồm:

Thứ nhất: chiếu cố theo địa vị xã hội, gồm 8 hạng người (Điều 3): nghị thân (họ hàng tôn thất nhà vua), nghị cố (các bậc công thần, cố cựu), nghị hiền (người có đức hạnh lớn), nghị năng (người có tài năng lớn), nghị công (những người có công lớn), nghị quý (người có tước từ nhị phẩm trở lên), nghị cần (người siêng năng, chăm chỉ) và nghị tân (quốc khách hoặc con cháu các triều đại trước), trừ khi phạm vào nhóm tội thập ác.

Thứ hai: chiếu cố theo tuổi tác và người tàn tật (Điều 16). Người từ 15 tuổi trở xuống hoặc từ 70 tuổi trở lên cùng những người bị phế tật phạm tội được dùng tiền chuộc tội (trừ khi phạm vào nhóm tội thập ác sẽ do nhà vua quyết định). Theo Điều 17, còn áp dụng hiệu lực hồi tố theo hướng có lợi cho người phạm tội. Nếu khi phạm tội chưa đến 15 tuổi nhưng khi quá 15 tuổi mới phát hiện hoặc phạm tội lúc chưa đến 70 tuổi nhưng sau đó (quá 70 tuổi) mới phát hiện thì vẫn cho phép dùng tiền để chuộc tội. Mức tiền chuộc tội được quy định tại Điều 21, 22.

Hai là: nguyên tắc nhân đạo còn được thể hiện qua việc miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong các trường hợp: con cháu chịu tội thay cho ông, bà; tội phạm ra đầu thú, tự thú; các dịp ân xá người phạm tội; không thi hành án đối với phụ nữ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới 100 ngày tuổi (Điều 680)...

Nguyên tắc xác định lỗi: theo Điều 47 và 499, hành vi phạm tội thuộc một trong hai loại lỗi: hoặc cố ý hoặc vô ý. Pháp luật không nêu ra định nghĩa về lỗi nhưng mô tả các đặc trưng, dấu hiệu của mỗi loại lỗi. Theo đó, hành vi phạm tội do sơ suất, lầm lỡ và không mong muốn hoặc không lường trước hậu quả sẽ xảy ra được coi là lỗi vô ý; ngược lại là lỗi cố ý. Nguyên tắc xử lý hành vi phạm tội theo lỗi được quy định tại Điều 49, theo đó tha người lầm lỡ không bắt tội nặng (tức hình phạt nặng), bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ.

2. Tội phạm

Các đặc điểm về tội phạm

Quốc triều hình luật không nêu định nghĩa cũng nhưng không xác định các dấu hiệu của tội phạm, tuy nhiên, Bộ luật này có quy định về các vấn đề sau liên quan đến dấu hiệu của tội phạm:

(1) Phải có hành vi trái pháp luật – hành vi phải xâm hại đến quan hệ được pháp luật bảo vệ (nếu hành vi chưa được quy định trong văn bản pháp luật thì quan tòa không thể tự ý xử lý, khi xử lý tội phạm phải dẫn đủ "chính văn cách thức của luật lệnh" – Điều 683, Điều 722 Quốc triều hình luật).

Tuy nhiên, vì pháp luật thể hiện rõ tính hình sự hóa, theo đó tội phạm được quan niệm rất rộng (tội phạm có tính phổ biến) nên hầu hết các vi phạm pháp luật dù thuộc lĩnh vực gì: hình sự, dân sự, hành chính, tố tụng... kể cả đạo đức cũng đều bị coi là tội phạm. Điều này nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời cũng thể hiện rõ bản chất của pháp luật phong kiến.

Ví dụ: Điều 130. Có tang ông bà, cha mẹ và chồng mà giấu không khóc thì phải tội đồ làm khao đinh, đàn bà đồ làm tang thất phụ. Trong khi có tang mà bỏ đồ tang mặc đồ thường và vui chơi đàn hát thì biếm hai tư...

Điều 187: Trong các chợ tại kinh thành và thôn quê, những người mua bán không theo đúng cân, thước, thăng, đấu của nhà nước mà làm riêng mình để mua bán thì xử tội biếm hoặc tội đồ.

(2) Pháp luật có đặt ra dấu hiệu về lỗi, theo đó để xử lý người người phạm tội phải căn cứ vào lỗi là "lầm lỡ hay cố ý" (Điều 47, 499 QTHL).

(3) Pháp luật có tính đến yếu tố tuổi của chủ thể phạm tội (Điều 16).

Pháp luật nhà Lê không nêu ra khái niệm về tội phạm cũng như các dấu hiệu chung nhất của một hành vi phạm tội mà có xu hướng mô tả cụ thể, chi tiết từng hành vi phạm tội.

Ví dụ: Điều 466: Đánh người gãy răng, sứt tai, mũi, chột một mắt, gãy ngón chân, ngón tay, giập xương, hay lấy nước sôi lửa làm người bị thương và rụng tóc, thì xử tội đồ làm khao đinh. Lấy đồ bẩn thỉu ném vào đầu mặt người ta, thì xử biếm hai tư; đổ vào miệng mũi thì biếm ba tư. Đánh gãy răng 2 răng, 2 ngón tay trở lên, thì xử tội đồ làm tượng phường binh. Lấy gươm giáo đâm chém người, dẫu không trúng, cũng phải lưu đi châu gần (người quyền quý phạm tội thì xử tội biếm). Nếu đâm chém bị thương và làm đứt gân chột 2 mắt, đọa thai thì xử tội lưu đi châu xa...

Các loại tội phạm

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hình vi, tội phạm được phân thành hai nhóm là nhóm tội Thập ác và các nhóm tội phạm khác.

Thập ác tội là mười trọng tội của pháp luật phong kiến. Tên các loại tội thập ác được quy định tại Điều 2 QTHL gồm: Mưu phản, Mưu đại nghịch, Mưu chống đối, Ác nghịch, Bất đạo, Đại bất kính, Bất hiếu, Bất mục, Bất nghĩa, Nội loạn.

Hình thức xử lý cụ thể các loại tội này được quy định ở các điều luật khác của QTHL. Nhìn chung, một người khi phạm phải những tội danh này thì bị trừng trị nghiêm minh, không được hưởng khoan hồng. Các hình phạt áp dụng với các tội danh này thường là tử hình, lưu hoặc đồ.

Nhóm các tội phạm khác: Pháp luật hình sự nhà Lê điều chỉnh khá đa dạng các loại tội phạm thuộc các lĩnh vực khác nhau. Các quan hệ thuộc các lĩnh vực của xã hội đều được pháp luật bảo vệ kể cả đạo đức.

3. Hình phạt

Đặc điểm của hình phạt

Hình phạt nhà Lê sơ mang nặng tính giai cấp, phản ánh tư duy của nhà làm luật thời kỳ phong kiến nên mang tính hà khắc dã man với nhiều hình phạt gây đau đớn thể xác và tinh thần cho người áp dụng.

Hình phạt thời Lê sơ có tính phổ biến hay tính rộng nghĩa là hầu hết các vi phạm pháp luật dù thuộc lĩnh vực gì cũng có thể bị xử lý bằng hình phạt.

Tuy nhiên, các quy định về các loại hình phạt thời Lê vẫn mang tính nhân đạo ở những hình phạt nhất định đối với người phụ nữ.

Các loại hình phạt

Căn cứ vào quy định của Quốc triều hình luật, hình phạt có thể phân thành hai nhóm:

Thứ nhất, nhóm ngũ hình được quy định tại Điều 1 QTHL. Gồm năm hình phạt sau:

Một là, Xuy hình (đánh roi), có năm bậc: Từ 10 đến 50 roi, chia làm 5 bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi.

Hai là, Trượng hình (đánh trượng), có năm bậc: Từ 60 đến 100 trượng, chỉ đàn ông phải chịu.

Ba là, Đồ hình, có ba bậc: Từ thuộc đinh đến khao đinh thứ phụ đến tang thất phụ là một bậc; Từ tượng phường binh đến xuy thất tỳ là một bậc; Từ chủng điền binh đến thung thất tỳ là một bậc.

Bốn là, Lưu hình, có ba bậc: Từ châu gần đến châu xa, chia làm bậc, tùy theo tội mà tăng giảm.

Năm là, Tử hình, có 3 bậc:

Thắt cổ, chém;

Chém bêu đầu;

Lăng trì.

Thứ hai, nhóm những hình phạt khác:

Biếm tư: giảm hay hạ tư của quan lại

Phạt tiền: tức tước bỏ ở người phạm tội một khoản tiền nhất định

Tịch thu tài sản: là hình phạt tước quyền sở hữu tài sản của người phạm tội.

Thích chữ: thường áp dụng kèm theo các hình phạt trượng, đồ, lưu.

Pháp luật về dân sự

Hợp đồng dân sự (khế ước)

Điều kiện hợp đồng (khế ước)

Thứ nhất, Hợp đồng phải ký kết trên cơ sở tự nguyện, không bên nào được ép buộc, cưỡng bách bên nào (Điều 355, 638).

Thứ hai, Hợp đồng phải ký kết trên cơ sở trung thực – không lừa dối (Điều 187, 190).

Thứ ba, nội dung hợp đồng không được trái với quy định của pháp luật (Điều 75, 76...)

Thứ tư, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật trong một số trường hợp. Pháp luật không quy định cụ thể điều kiện về hình thức hợp đồng nhưng thông qua các quy định đã chứng tỏ những hợp đồng có giá trị lớn, dễ phát sinh tranh chấp... (các trường hợp cần phải thiết lập theo mẫu được quy định trong Quốc triều Thư khế thể thức); hoặc hợp đồng đối với người mù chữ (Điều 366); hoặc hợp đồng đối với việc mua bán nô tỳ (Điều 363) thì phải ký kết bằng văn bản.

Phân loại hợp đồng (khế ước)

Căn cứ vào hình thức, có hai loại: hợp đồng miệng (tức khẩu ước) và hợp đồng văn bản (tức văn khế).

Căn cứ vào nội dung: tức căn cứ vào quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng có các loại sau:

Một là, Hợp đồng mua bán: gồm Hợp đồng đoạn mại (là dạng của hợp đồng mua bán hiện nay); Hợp đồng điển mại (theo hợp đồng này người bán giao tài sản cho người mua chiếm hữu, sử dụng trong một thời hạn theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật. Khi đến thời hạn người mua được quyền đến chuộc lại tài sản đã bán. Cơ sở pháp lý Điều 384 QTHL)

Hai là, Hợp đồng vay: pháp luật quy định khá cụ thể về loại hợp đồng này đặc biệt là điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ vay. Cơ sở pháp lý: Điều 587 QTHL.

Pháp luật thừa kế

Thứ nhất, di sản thừa kế:

Căn cứ vào nguồn gốc di sản, di sản có các loại sau:

Phu gia điền sản (tức ruộng đất, tài sản cha mẹ chồng cho) và thê gia điền sản (là tài sản mà cha mẹ vợ cho). Về nguyên tắc đây là tài sản riêng của hai người.

Tân tạo điền sản là tài sản do vợ chồng cùng tạo lập ra trong thời kỳ hôn nhân. Về nguyên tắc, đây là tài sản chung nên khi chết tài sản này mặc định chia làm đôi, mỗi người được một nửa và một nửa của người chết được xem là di sản để đem chia.

Như vậy, di sản của người chết theo pháp luật nhà Lê bao gồm: tài sản riêng của người chết (phu gia hoặc thê gia điền sản) và một nửa tài sản của người chết trong khối tài sản chung (tân tạo điền sản).

Cơ sở pháp lý: Điều 374, 375, 376... QTHL.

Thứ hai, Điều kiện để được hưởng thừa kế:

Để được chia di sản, người thừa kế phải đáp ứng hai điều kiện sau:

- Người thừa kế phải còn sống từ khi mở thừa kế (Điều 388).

- Người thừa kế không thuộc các trường hợp bị truất quyền thừa kế, gồm: (1) truất quyền thừa kế trong di chúc (Điều 354) và truất quyền thừa kế theo luật định (Điều 354).

Thứ ba, Hình thức chia thừa kế

Một là, thừa kế theo di chúc:

Thông qua Điều 388 có thể thấy pháp luật thừa nhận hai hình thức của di chúc là miệng (mệnh lệnh của cha, mẹ) và chúc thư (tức là di chúc viết).

Điều 388: Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì cùng chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì phải mất phần mình.

Di chúc miệng: theo Điều 388 BLHĐ, nếu có mệnh lệnh của cha mẹ (di chúc miệng) hoặc chúc thư (di chúc viết hay di chúc bằng văn bản) thì phải theo đúng. Vi phạm sẽ bị mất phần thừa kế. Tuy nhiên, nhà làm luật lại không quy định rõ các điều kiện, thủ tục để di chúc miệng có hiệu lực, như thời điểm lập, người làm chứng...

Di chúc viết hay còn gọi là chúc thư: so với quy định về di chúc miệng, nhà làm luật tỏ ra rất quan tâm đến chúc thư nhiều hơn. Di chúc viết phải lập theo mẫu được quy định trong Quốc triều thư khế thể thức.

Hai là, thừa kế không theo di chúc (theo pháp luật ):

Pháp luật về thừa kế thời Lê không quy định về các nguyên tắc chia thừa kế theo pháp luật mà liệt kê cụ thể các trường hợp được chia thừa kế khi không có di chúc.

Các Điều 374, 375, 377, 380, 388... của QTHL, nhà làm luật đã dự liệu những trường hợp thừa kế không có di chúc.

Các quy định về chia thừa kế theo pháp luật đã chứng tỏ sự thừa nhận tính chất bình đẳng một cách tương đối giữa vợ và chồng (khi vợ được quyền sở hữu tài sản riêng và cùng chồng đồng sở hữu khối tài sản chung, được quyền hưởng tài sản của chồng); giữa con trai và con gái ("anh em tự chia nhau" nếu không có di chúc mà không cần phân biệt là con trai hay con gái).

Pháp luật thừa kế đã bảo lưu truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, nhất là quy định về tài sản dùng vào việc thừa tự (hương hỏa).

Pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia đình:

Kết hôn

Theo pháp luật nhà Lê, quan hệ hôn nhân phát sinh bằng sự kiện kết hôn. Một cuộc hôn nhân hợp pháp đảm bảo các điều kiện sau đây:

Phải có sự đồng ý của hai bên cha mẹ. Trong trường hợp cha, mẹ mất thì phải có sự đồng ý của người tộc trưởng (Điều 314 BLHĐ)

Độ tuổi: nam từ 18 trở lên và nữ từ 16 tuổi trở lên (Lệ giá thú trong Thiên nam dư hạ tập)

Không phạm vào những trường hợp cấm kết hôn:

Không có nghĩa vụ để tang nhau, tức giữa họ không có mối quan hệ huyết thống hoặc bị ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân khác đã tồn tại trước đó (Điều 319 BLHĐ và Lệ giá thú phi loại trong Thiên nam dư hạ tập).

Khi đang có tang cha, mẹ hay tang chồng; khi cha mẹ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 317, 318 BLHĐ)

Quan lại ở địa phương không được kết hôn với người trong địa hạt cai quản hay kết hôn với người làm nghề hát xướng (Điều 316, 323 BLHĐ)

Một số trường hợp cấm khác: anh lấy vợ góa của em, trò lấy vợ góa của thầy, phụ nữ đang bị truy nã...

Thủ tục kết hôn: Thiên nam dư hạ tập quy định việc kết hôn trải qua bốn bước như sau:

Lễ nghị hôn (tức lễ dạm ngõ hay thăm nhà), theo đó nhà bên nam sang nhà bên nữ thể hiện sự đồng ý của hai bên gia đình. Nếu bên nữ chấp nhận thì chuẩn bị lễ vật để tổ chức lễ định thân.

Lễ định thân (vấn danh và ra mắt), theo đó, nhà trai đem lễ vật sang nhà gái để cúng bái tổ tiên và tổ chức chiêu đãi nhà trai; đồng thời định ngày tổ chức lễ đính hôn.

Lễ đính hôn (lễ hỏi), nhà trai đem đầy đủ lễ vật theo thoả thuận trong lễ định thân sang nhà gái và tổ chức đãi tiệc. Sau khi nhà gái đã nhận đầy đủ đồ sính lễ thì xem như đã chấp nhận gả con gái.

Lễ thành hôn (lễ cưới): nhà trai sang nhà gái làm lễ đón dâu và nhà gái cử người theo tiễn người con gái đi lấy chồng. Nhà trai tổ chức tiệc tùng mời bà con nội ngoại và người thân thuộc khác cùng tham dự lễ cưới. Sau lễ thành hôn, hai bên nam nữ chính thức trở thành dâu rể của hai bên gia đình.

2. Ly hôn: Tức kết thúc quan hệ hôn nhân khi một trong hai bên có lỗi, cụ thể như sau:

Ly hôn khi người vợ có lỗi: Theo Điều 310 BLHĐ, khi người vợ rơi vào một trong bảy trường hợp sau đây (gọi là thất xuất - thất là bảy, xuất là rời bỏ) bị xem là có lỗi nên người chồng buộc phải ly hôn vợ: không có con, ghen tuông, bị ác tật, không thủy chung, không kính cha mẹ chồng, nói nhiều gây mất hoà khí trong gia đình và trộm cắp.

Ly hôn khi người chồng có lỗi: khi người chồng rơi vào một trong hai trường hợp sau thì người vợ có quyền yêu cầu xin ly hôn chồng: vi phạm nghĩa vụ đồng cư (cùng nhau chung sống) trong thời gian 5 tháng liên tục, nếu đã có con là một năm (Điều 308 BLHĐ) hoặc có hành vi vô lễ với cha mẹ vợ (Điều 333 BLHĐ).

Pháp luật về hôn nhân – gia đình nhà Lê không quy định về hậu quả pháp lý sau khi ly hôn, như vấn đề con chung và tài sản chung.

Pháp luật về quan hệ gia đình:

Bao gồm quan hệ nhân thân giữa các nhóm thành viên trong đời sống gia đình.

Quan hệ vợ - chồng: gồm quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng như: đồng cư, thủy chung và tang chế.

Quyền và nghĩa vụ đồng cư, có trách nhiệm lẫn nhau

Nghĩa vụ phục tùng chồng và gia đình nhà chồng

Nghĩa vụ tang chế của vợ với chồng và cha mẹ chồng

3. Quan hệ nhân thân giữa cha mẹ và con cái:

Nghĩa vụ cấp dưỡng và nuôi dạy con cái của cha mẹ

Quyền được từ con của cha mẹ

Nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ

Nghĩa vụ phục tùng mệnh lệnh của cha mẹ

Nghĩa vụ tang chế, thờ phụng cha mẹ khi cha mẹ mất

4. Quan hệ nhân thân giữa các nhóm thành viên khác trong gia đình

CÂU HỎI:

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP TÌNH HUỐNG

PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI

Nhận định

Chiến tranh là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hình thành nhà nước phương Đông thời kỳ cổ đại

Nô lệ là đối tượng bị bóc lột chủ yếu của nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Tây.

Các quốc gia phương Tây cổ đại luôn có hình thức chính thể là quân chủ tuyệt đối

Pháp luật phương Đông cổ đại rất phát triển về kỹ thuật lập pháp.

Pháp luật phương Đông cổ đại bảo vệ cho quyền gia trưởng của nam giới.

Thành bang Sparta là điển hình của hình thức chính thể cộng hoà dân chủ chủ nô

Nhà nước La mã cổ đại không xuất hiện pháp luật thành văn.

Pháp luật La Mã thời kỳ cộng hoà sơ kỳ vẫn thể hiện sự bất bình đẳng về giai cấp.

Nhà nước phong kiến Tây Âu luôn có hình thức chính thể là quân chủ tuyệt đối.

Nho giáo là hệ tư tưởng chủ đạo của nhà nước phong kiến Trung Quốc.

Nhà nước tư sản đều ra đời là các cuộc cách mạng tư sản

Hình thức chính thể của Hoa Kỳ sau cách mạng tư sản là cộng hoà đại nghị.

Cách mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng tư sản triệt để.

Thành thị ra đời giúp cho kinh tế ở nhà nước phong kiến Tây Âu phát triển.

Thành bang Athens là điển hình của hình thức chính thể cộng hoà dân chủ chủ nô.

Câu hỏi tự luận

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhà nước chiếm hữu nô lệ ở phương Đông và phương Tây.

Gợi ý:

Phương Đông (Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc): đồng bằng màu mỡ trên lưu vực sông lớn nên kinh tế nông nghiệp là chủ đạo. Kinh tế phát triển, xuất hiện tư hữu và hình thành giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp xuất hiện nhưng chưa thật sự sâu sắc và gay gắt. Trị thủy và chiến tranh trở thành nhu cầu sống còn. Nhà nước hình thành chịu sự tác động của hai yếu tố là trị thủy và chiến tranh. Sự cần thiết phải có thủ lĩnh, người đứng đầu.

Phương Tây: bán đảo, có nhiều vịnh, hải cảng, khoáng sản nên kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp là chủ đạo. Nhà nước hình thành là kết quả của nền kinh tế phát triển, tư hữu xuất hiện nhanh chóng. Sự phân hoá giai cấp, mâu thuẫn giai cấp gay gắt và đấu tranh giai cấp.

Lý giải vì sao ở các nhà nước phương Đông cổ đại có hình thức chính thể là Quân chủ tuyệt đối.

Gợi ý:

- Lý giải quyền lực của Vua là tuyệt đối trên cả ba lĩnh vực: kinh tế (đất đai), chính trị (quý tộc chủ nô), tư tưởng (thần quyền).

- Kinh tế nông nghiệp nên quyền lực này có điều kiện tồn tại bền vững.

Giải thích và chứng minh pháp luật phương Đông cổ đại mang tính "trọng hình, khinh dân"

Gợi ý:

"Trọng hình, khinh dân" được hiểu là gì?

Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo.

Pháp luật là công cụ bảo vệ cho quyền lợi giai cấp thống trị.

Trong các quy định pháp luật chủ yếu là quy định hình sự, trong quan hệ dân sự nhưng cũng có chế tài hình sự.

Lý giải và chứng minh yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến việc tổ chức nhà nước và pháp luật ở các quốc gia phương Đông cổ đại.

Gợi ý:

Ảnh hưởng của tư tưởng quân quyền, thần thánh hóa vai trò của giai cấp thống trị.

Giáo lý tôn giáo cũng là nguồn của pháp luật.

Người ban hành luật nhân danh thần linh.

Chứng minh thông qua quyền lực tư tưởng của nhà vua và một số quy định trong bộ luật Hammurapi, Manu và pháp luật Trung Quốc cổ đại.

Phân tích sự tác động của thành thị đến mô hình tổ chức quản lý nhà nước ở nhà nước phong kiến Tây Âu.

Gợi ý:

Thành thị ra đời là một tất yếu khi kinh tế công thương nghiệp phát triển.

Thành thị giàu có, đấu tranh giành quyền tự trị.

Tầng lớp thị dân nắm quyền lực kinh tế, chi phối quyền lực chính trị và từng bước tham gia vào bộ máy nhà nước, làm thay đổi mô hình tổ chức quản lý nhà nước.

Giải thích vì sao hình thức chính thể tồn tại lâu dài và bền vững ở nhà nước phong kiến Trung Quốc là quân chủ tuyệt đối.

Gợi ý:

Sự thống trị của Vua trên lĩnh vực kinh tế, chính trị và tư tưởng.

Tâm lý truyền thống và tập quán chính trị

Giải thích vì sao pháp luật La Mã thời Cộng hòa hậu kỳ có trình độ và kỹ thuật lập pháp phát triển?

Gợi ý:

Kinh tế phát triển, quan hệ xã hội đa dạng.

Nhu cầu quản lý lãnh thổ rộng lớn.

Sự tiếp thu trình độ kỹ thuật lập pháp của các thời kỳ trước đó và các vùng đất mà La Mã chiếm đóng.

Giải thích và chứng minh sự kém phát triển của pháp luật dân sự phong kiến Tây Âu so với pháp luật La Mã thời kỳ cộng hòa hậu kỳ.

Gợi ý:

Tộc người thống trị xây dựng nhà nước từ chế độ công xã nguyên thủy.

Kinh tế nông nghiệp là chủ đạo.

Giai cấp thống trị tập trung chinh chiến, không quan tâm xây dựng pháp luật. Khi cần thiết thì viện dẫn luật La Mã mà không ban hành luật.

Trình độ pháp lý thấp

Chứng minh thông qua các chế định luật cụ thể.

So sánh hình thức chính thể quân chủ chuyên chế của nhà nước phong kiến Trung Quốc và nhà nước phong kiến Tây Âu thế kỷ XV- XVII.

Gợi ý:

So sánh quyền lực kinh tế, chính trị, tư tưởng

Giải thích sự khác biệt do đặc trưng kinh tế, quan hệ giai cấp và sự chi phối của yếu tố quyền lực tư tưởng

Giải thích vì sao quân chủ nghị viện (quân chủ hạn chế) là hình thức chính thể phổ biến của các nhà nước tư sản trong thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh.

Gợi ý:

Giai cấp tư sản còn nhiều quyền lợi với quý tộc phong kiến.

Tương quan giai cấp tư sản và phong kiến.

Phong trào đấu tranh của nhân dân lao động.

Thời kỳ chủ nghĩa tự bản tự do cạnh tranh là thời kỳ hoàng kim của Nghị viện.

Gợi ý:

Nghị viện là nơi tập trung quyền lực cao nhất trong nhà nước, chống lại chế độ phong kiến và là nơi chia sẻ quyền lực của giai cấp thống trị.

Chức năng kinh tế của nhà nước chưa phát triển nên cơ quan hành pháp chưa có nhu cầu tăng cường quyền lực.

Lý giải vì sao các quốc gia phương Tây cổ đại có sự đa dạng về hình thức chính thể.

Gợi ý:

Nền kinh tế khác nhau: công thương nghiệp hoặc nông nghiệp là chủ đạo.

Giai cấp thống trị bao gồm quý tộc thị tộc và quý tộc công thương nghiệp.

Không có nhu cầu thống nhất quyền lực vào một người mà có sự chia sẻ quyền lực của một nhóm người, không có nhu cầu trị thủy, các quốc gia tồn tại biệt lập, không có nhu cầu thống nhất một quốc gia.

Phân tích các tiền đề ra đời của nhà nước tư sản

Gợi ý:

Phân tích ba yếu tố

Kinh tế: quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Chính trị: giai cấp tư sản ra đời.

Tư tưởng: cải cách tôn giáo, phục hưng văn hóa và các học thuyết dân chủ tư sản.

So sánh nền quân chủ chuyên chế ở nhà nước phong kiến Tây Âu giai đoạn thế kỷ thứ V- X và giai đoạn thế kỷ XV- XV?

Gợi ý:

So sánh theo ba yếu tố: kinh tế, chính trị, tư tưởng

Phân tích vai trò của giai cấp tư sản để thấy sự khác biệt.

Hãy nhận xét về nền Cộng hòa dân chủ chủ nô của Athens.

Gợi ý:

Nền cộng hòa dân chủ của Athens là nền dân chủ phát triển nhất của các quốc gia phương Tây cổ đại.

Nền dân chủ này vẫn còn có một số hạn chế nhất định về đối tượng tham gia và phạm vi tham gia thực hiện quyền dân chủ.

Lý giải tạo sao pháp luật tư sản thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thừa nhận nguyên tắc "tự do giao kết hợp đồng".

Gợi ý:

Quan hệ dân sự, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp đồng rất phát triển

Giai cấp tư sản tập trung phát triển kinh tế nên Nhà nước không can thiệp vào nền kinh tế mà để cho nền kinh tế tự do vận động theo quy luật thị trường.

Cơ quan hành pháp chưa phát triển.

PHẦN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Câu hỏi nhận định

Nhà nước đầu tiên ở Việt Nam hình thành ngay cả khi mâu thuẫn giai cấp chưa thật sự gay gắt.

Nhà nước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê tồn tại hình thức chính thể quân chủ hạn chế.

Khoa cử là hình thức tuyển chọn quan lại chủ yếu của thời Lý – Trần.

Nho giáo phát triển đến đỉnh cao vào thời phong kiến nhà Lý – Trần ở Việt Nam.

Tổ chức nhà nước thời Lý – Trần nặng tính hành chính – quân sự.

Tổ chức nhà nước giai đoạn đầu Lê sơ có tính hành chính – quân sự.

Quan đại thần thời Lê giai đoạn trước cải cách của vua Lê Tông rất lớn quyền lực mặc dù không được quyền kiêm nhiệm các chức vụ khác.

Quan đại thần thời Lê Thánh Tông rất thực quyền, kiêm nhiệm các chức vụ khác trong bộ máy nhà nước.

Cấp đạo thời Lê giai đoạn trước cải cách của vua Lê Thánh Tông rất lớn quyền lực.

Chính quyền địa phương giai đoạn đầu Lê sơ nặng tính hành chính quân sự.

Cấp đạo thời Lê Thánh Tông thực hiện nguyên tắc tản quyền.

Theo pháp luật Lê sơ, người 15 tuổi trở xuống đều được hưởng chính sách khoan hồng khi phạm tội.

Pháp luật hình sự thời Lê sơ có tính hình sự hoá.

Pháp luật thời Lê sơ thừa nhận sự phân biệt đẳng cấp trong pháp luật hợp đồng (khế ước).

Pháp luật hôn nhân và gia đình có thừa nhận quyền ly hôn của người phụ nữ.

Câu hỏi tự luận

Tại sao nói con đường hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam có sự khác biệt so với học thuyết của Mác.

Gợi ý:

Nội dung học thuyết Mác.

Phân tích các Yếu tố dẫn đến sự hình thành nhà nước ở Việt Nam.

Chỉ ra các yếu tố khác biệt so với học thuyết Mác.

Hãy phân tích các đặc điểm về tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê?

Gợi ý:

Tổ chức nhà nước đơn giản: ít chức quan.

Tính chất chuyên môn hóa chưa cao.

Nặng tính hành chính – quân sự.

Hình thức chính thể là quân chủ tuyệt đối.

Phân tích về các đặc điểm về tổ chức bộ máy nhà nước thời Lý – Trần?

Gợi ý:

Tính quý tộc – thân vương.

Tính hoàn thiện, chuyên môn hóa hơn.

Mô hình lưỡng đầu chế thời Trần.

Hãy làm sáng tỏ những bất cập về tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời Lê sơ giai đoạn trước cải cách của vua Lê Thánh Tông.

Gợi ý:

Tính quý tộc – thân vương vẫn còn khá nặng nề.

Tính hành chính – quân sự.

Cơ chế kiềm chế đối trọng quan lại (kiểm tra) chưa hiệu quả.

Tính chuyên môn hóa trong bộ máy nhà nước chưa thật sự cao.

Nêu các đặc điểm về tổ chức chính quyền địa phương giai đoạn trước cải cách của vua Lê Thánh Tông?

Gợi ý:

Số lượng các đơn vị hành chính.

Tính chất nặng hành chính – quân sự của chính quyền địa phương.

Tính chất tản quyền với trung ương.

Phân tích cải cách của Vua Lê Thánh Tông đối với các cơ quan then chốt ở trung ương.

Gợi ý:

Cải cách đối với quan đại thần.

Cải cách đối với cơ quan văn phòng.

Cải cách đối với cơ quan quản lý.

Cách cách đối với cơ quan kiểm tra – giám sát.

Phân tích các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự nhà Lê sơ?

Gợi ý:

Phân tích nội dung các nguyên tắc:

Nguyên tắc vô luật bất hình;

Nguyên tắc chiếu cố theo địa vị xã hội và chiếu cố theo tuổi tác, sức khỏe, người phụ nữ;

Nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hình sự tập thể.

Mục đích của nhà nước phong kiến khi quy định các nguyên tắc này?

Một hành vi phải thỏa mãn những dấu hiệu gì thì trở thành tội phạm của pháp luật hình sự nhà Lê sơ?

Gợi ý:

Mặt khách quan

Mặt chủ quan

Chủ thể

Khách thể

Phân tích các đặc điểm của Thập ác tội trong QTHL?

Gợi ý:

Các quan hệ xã hội mà Thập ác tội bảo vệ.

Chính sách xử lý đối với những người phạm tội Thập ác.

Sự ảnh hưởng của hệ tưởng đối với các tội Thập ác.

Các đặc điểm của hình phạt (Ngũ hình) trong pháp luật nhà Lê sơ?

Gợi ý:

Tính phổ biến.

Tính dã man.

Tính nhân đạo trong một chừng mực nhất định.

Tại sao nói pháp luật nhà Lê sơ có tính chất hình sự hóa các quan hệ dân sự?

Gợi ý:

Hình sự hóa các quan hệ dân sự là gì?

Lý giải tại sao pháp luật nhà Lê có xu hướng này?

Những nội dung nào thể hiện xu hướng này?

Anh (chị) có nhận xét gì?

Hãy làm sáng tỏ nhận định rằng: pháp luật dân sự bảo vệ sự bình đẳng giữa các bên trong giao lưu dân sự?

Gợi ý:

Hiểu thế nào về tính bình đẳng trong giao lưu dân sự.

Các quy định của pháp luật dân sự nhà Lê chứng tỏ sự bình đẳng này.

Lý giải tại sao có các quy định đó.

Hợp đồng cần phải tuân thủ những điều kiện nào?

Gợi ý:

Về sự tránh "cưỡng bức", "lừa dối"?

Về hình thức? Bắt buộc hay không bắt buộc? Bắt buộc trong trường hợp nào? Vì sao?

Tại sao có các điều kiện đó?

Sự bình đẳng giữa vợ - chồng, giữa các con với nhau trong quan hệ thừa kế?

Gợi ý:

Nguyên nhân của pháp luật thừa nhận sự bình đẳng?

Sự thể hiện của tính bình đẳng này ở các nhóm trên?

Bạn đang đọc truyện trên: ZingTruyen.Asia